Đôi mắt Kỷ Thế Viễn sắc bén, không lùi bước mà nhìn thẳng vào anh, bàn tay ấn chặt lên cây gậy có hình đầu hổ, vẻ kiêu ngạo như thể đang đùa giỡn với số phận dễ như trở bàn tay: “Còn không chịu theo ta về nhà họ Kỷ?”
Bóng đêm dày đặc đổ xuống như nhựa đường, nuốt chửng ánh sáng duy nhất trên thế gian, ngay cả bóng cây đang nhảy múa cũng không được phép tồn tại.
Sự u ám trong bóng tối giống như sự căm hận trong mắt Kỷ Hoài Chu lúc đó.
Kỷ Hoài Chu cười lạnh, không thèm để ý đến như thể việc đáp lại ông ta một câu cũng khiến anh cảm thấy ghê tởm.
Anh không do dự cất bước đi, rời khỏi đó.
Lần này không ai ngăn cản anh lại, nhưng phía sau có một giọng nói nhẹ nhàng của một người lớn tuổi vang lên.
“Hoài Sùng ch.ết rồi.”
Kỷ Hoài Chu đột ngột dừng bước, đồng tử co lại, nhìn chằm chằm vào ông ta.
Kỷ Thế Viễn bình tĩnh, chỉ như đến đây thông báo cho anh một việc nhỏ không đáng kể: “Bệnh tim bẩm sinh dẫn đến biến chứng tim mạch, rối loạn nhịp tim ác tính, ch.ết đột ngột cách đây nửa năm.”
Kỷ Hoài Chu thở gấp vì sốc.
Phản ứng của anh dường như đã nằm trong tầm kiểm soát của Kỷ Thế Viễn.
“Ngày trước Hoài Sùng đã thay thế cậu về nhà họ Kỷ, muốn lừa dối tôi mà dễ à?” Kỷ Thế Viễn không vội vã tiến lên: “Chỉ là tôi nhắm mắt cho qua thôi.”
Ông ta nhếch mép, cười nhạo sự ngây thơ của Kỷ Hoài Sùng.
Kỷ Thế Viễn dừng lại trước mặt Kỷ Hoài Chu, cây gậy chống mạnh xuống đất: “Dù ta chỉ cần một đứa trẻ khỏe mạnh, nhưng nó lại thể hiện tham vọng với danh lợi, muốn trở thành một kẻ tham vọng quyền lực thì ta cũng không ngại giả vờ điếc mà làm ngơ.”
Không biết có phải vì nghe tin Hoài Sùng chết, khó có thể chấp nhận nên mắt Kỷ Hoài Chu đã đỏ lên, anh nhìn người trước mặt như nhìn một người hung ác, toàn thân đầy máu, một kẻ sát nhân.
Một lúc lâu sau anh lấy lại giọng nói, khàn khàn chế nhạo: “Có phải vì cậu ấy dễ bị ông kiểm soát hơn không?”
Thời niên thiếu Kỷ Hoài Chu là một con sói hoang dã khó thuần phục còn Kỷ Hoài Sùng là một con voi hiền lành trung thành. Sói có thể cắn người trong khi voi lại muốn được yêu thương.
Gia tộc họ Kỷ nắm giữ mạch máu của các tập đoàn tài chính Châu Âu. Vào thời điểm đó Kỷ Thế Viễn nắm giữ chức quyền nhưng vì truyền thống gia đình bảo thủ ở Châu Âu, ông ta cần một người thừa kế để bịt miệng những lời bàn tán.
Người thừa kế chắc chắn phải đảm bảo sức khỏe, nếu ch.ết quá dễ dàng thì những người họ hàng thèm khát sẽ lao vào cắn xé xác ch.ết.
Vì vậy người được chọn về nhà họ Kỷ là Kỷ Hoài Chu.
Nhưng Kỷ Hoài Sùng đã nhanh chóng diễn một vở kịch “Ly miêu hoán thái tử”.
Kỷ Thế Viễn biết rõ nhưng chỉ cần có một quân cờ biết nghe lời để ông ta điều khiển thì ông ta cũng rất vui lòng.
Còn về bệnh tim, việc điều trị không tốn bao nhiêu tiền.
Cho dù một ngày nào đó Kỷ Hoài Sùng thực sự chết đi, thứ mất đi cũng chỉ là thế thân của Kỷ Hoài Chu, ông ta có rất nhiều cách để khiến Kỷ Hoài Chu trở về mà người không biết quỷ không hay.
Đối mặt với lời chất vấn của Kỷ Hoài Chu, Kỷ Thế Viễn thản nhiên mỉm cười: “Nó thực sự nghe lời hơn cậu.”
Câu nói này không khác gì một lời khiêu khích dưới ánh sáng của dao kiếm.
Sát khí lạnh lẽo dần dần bao trùm lên khuôn mặt của Kỷ Hoài Chu.
“Hoài Chu, cho cậu tự do đến hôm nay đã là lòng tốt lớn nhất của ta rồi.” Kỷ Thế Viễn ngẩng cao cằm, luôn giữ vẻ kiêu ngạo của kẻ có địa vị cao.
“Giờ không ai có thể thay thế cậu, chỉ có cậu mà thôi.”
Kỷ Hoài Chu trong khoảnh khắc này hoàn toàn hiểu rõ mọi chuyện.
Cuộc chiến tranh giành quyền lực trong gia tộc nhà họ Kỷ đang bùng nổ, thái tử không rõ tung tích.
Hóa ra không phải là đi du học ở nước ngoài mà là Kỷ Hoài Sùng đã chết, lão già này cần đưa anh trở về ngay lập tức nếu không thì quyền lực mà ông ta đã đấu tranh cả đời sẽ bị đổ sông đổ bể.
Lúc này, anh chính là điểm yếu của ông ta.
“Thế nào, định bắt tôi về sao?” Kỷ Hoài Chu cười khinh bỉ: “Đây là Trung Quốc đấy.”
Sắc mặt Kỷ Thế Viễn không thay đổi và đã sớm đoán được việc anh sẽ không chịu quay về: “Cậu nên hiểu, Kỷ thị có thể làm sụp đổ EB đơn giản như giẫm chết một con kiến, bao gồm cả bố mẹ nuôi của cậu ở Trung Quốc.”
Kỷ Hoài Chu mím chặt môi.
“Cuộc sống của họ, sống hay chết đều nằm trong tay cậu.”
Nói đến đây, Kỷ Thế Viễn cố ý dừng lại hai giây, vẻ mặt nghiêm nghị: “Còn có một cô gái nhỏ mà cậu đã nuôi dưỡng suốt mười ba năm nữa!”
Kỷ Hoài Chu nhíu mày, ánh mắt lập tức trở nên u ám.
“Người thừa kế của Kỷ Thị có thể phong lưu, có thể ăn chơi sa đoạ, nhưng tuyệt đối không thể vì một cô gái mà mang tiếng bí mật nuôi dưỡng bé gái riêng, rồi thân bại danh liệt!” Kỷ Thế Viễn tức giận, nắm chặt cây gậy vàng đập mạnh xuống đất.
Kỷ Hoài Chu nheo mắt lại: “Đừng có mang những suy nghĩ bẩn thỉu của ông mà đoán mò về tôi.”
“Cô ấy đã sang Mỹ rồi.”
Kỷ Thế Viễn chỉ nói một câu ngắn gọn, sắc mặt Kỷ Hoài Chu lập tức thay đổi, bên tai vang lên giọng nói của cô bé: “Anh trai, em muốn đi du học… tạm thời, chúng ta sẽ không gặp nhau nữa.”
Kỷ Hoài Chu như bừng tỉnh, nắm chặt lấy cổ áo của ông ta, giận dữ hỏi: “Ông muốn chết à!”
Kỷ Thế Viễn – người đã quen với những trận mưa to gió lớn, vẻ mặt bình tĩnh nhưng vệ sĩ bên cạnh lại lo lắng, lập tức tiến lên giữ chặt tay Kỷ Hoài Chu và kéo anh ra.
“Là cô ấy tự nguyện đi.” Kỷ Thế Viễn thản nhiên nói: “Cũng giống như cậu sẽ tự nguyện theo tôi về nước Anh.”
Kỷ Hoài Chu cúi đầu xuống, hai vai bị vệ sĩ đè xuống.
Nghe thấy Kỷ Thế Viễn nói một cách không thể nghi ngờ: “Tôi có thể đảm bảo là cô ấy an toàn ở nước Mỹ, chỉ cần cậu ngoan ngoãn.”
Kỷ Hoài Chu cúi đầu, câu đe dọa này như một con dao đâm vào trái tim anh. Anh im lặng một lúc nhưng đột nhiên bật cười, tiếng cười khan vang lên khiến vai hơi run rẩy.
Thái độ của anh khiến vệ sĩ cảm thấy sợ hãi, ngay lập tức vệ sĩ đã bị anh hất mạnh ra.
Kỷ Hoài Chu vẫn cười, cổ áo khoác da nhăn nhúm, anh không chỉnh lại mà thẳng lưng nhìn người trước mặt.
Khóe môi vẫn nhếch lên nhưng nụ cười không mấy vui vẻ.
Hai tay anh từ từ giơ lên, cuối cùng vẫn chịu đầu hàng.
“Đừng động đến cô ấy.”
Anh đã bị bẻ gãy sự kiêu ngạo, không còn như thời niên thiếu bất khả chiến bại.
Ánh mắt Kỷ Thế Viễn sâu thẳm, lạnh lùng quan sát.
“Thật đáng tiếc, Hoài Chu, cậu đã có điểm yếu rồi.”
Kỷ Thế Viễn đã ở độ tuổi 50 nhưng thân hình vẫn giữ được sự thon gọn do tập luyện lâu năm, từ ngoại hình đến phong cách đều thể hiện sự lãnh đạo tuyệt đối: “Không có quyền lực bảo vệ thì không thể sống sót được.”
“Muốn bảo vệ cô ấy một cách trọn vẹn sao?”
Lời nói và hành động của Kỷ Thế Viễn đều bình thản nhưng lại ẩn chứa những thâm ý sắc bén: “Đánh bại tôi và trở thành kẻ săn mồi đứng đầu chuỗi thức ăn.”
Kỷ Hoài Chu liếc mắt nhìn chằm chằm vào ông ta.
Trước mặt có vài sợi tóc rơi xuống, đôi mắt u ám của anh ẩn náu trong bóng đêm, hơi thở nguy hiểm như một con thú hoang đang rình rập.
Ánh mắt của anh như muốn nói rằng, ông đừng hối hận.
Xương cốt của anh đã không còn.
Từ nay về sau, anh không cần phải sinh ra từ máu thịt nữa.
–
Nhà họ Minh có một biệt thự bên hồ ở Hàng Châu, ngày hôm sau đã có hai vị khách không mời đến thăm.
Chung Tù và Từ Giới.
Lúc này, Minh Đình đang ở Mỹ cùng Hứa Chức Hạ, Chu Thanh Ngô một mình tiếp đón họ.
Một người là quản gia của Kỷ Thế Viễn, yêu cầu hủy bỏ hộ khẩu của Kỷ Hoài Chu tại nhà họ Minh, xóa bỏ mọi dấu vết của Kỷ Hoài Chu trong suốt 13 năm qua để chính thức trở về tiếp nhận vị trí người thừa kế của gia tộc nhà họ Kỷ.
Một người là trợ lý của Hạ Tư Tự, đến để thông báo với Chu Thanh Ngô về việc đi du học của Hứa Chức Hạ.
Sau cuộc gặp này, mọi chuyện cuối cùng đã rõ ràng.
Mặc dù Chu Thanh Ngô là dì của Kỷ Hoài Chu, nhưng Kỷ Thế Viễn là cha ruột của anh nên cô không có quyền giữ anh lại và cũng không có khả năng chống lại nhà họ Kỷ.
Còn về Hứa Chức Hạ, Chu Thanh Ngô chỉ nghĩ rằng cô muốn đi để thư giãn, nhưng không ngờ rằng cô lại muốn ở lại nước Mỹ lâu dài, không muốn đối mặt với mọi thứ ở quê nhà.
Cảm giác bất lực trong cuộc sống chính là không thế quyết định được việc tụ tập hay chia ly.
Trong những ngày khó khăn không biết nên tiến hay lùi, ngoài việc thuận theo tự nhiên thì không còn lựa chọn nào khác.
Sau khi biết sự thật, Chu Thanh Ngô nghĩ rằng Hứa Chức Hạ vì bị anh trai che dấu và bỏ rơi mà thất vọng nên mới ra nước ngoài. Nên bà ấy đã gọi điện cho cô, nói rằng anh trai không cố ý làm như vậy.
“Thằng bé rất ghét bản thân mình trước đây.”
“Cháu không trách anh trai đâu dì, chỉ là cháu…” Hứa Chức Hạ nghẹn ngào, không thể nói ra được lời nào trong điện thoại.
Chỉ là cô cảm thấy buồn vì không còn anh trai bên cạnh.
Dù cho gió và trăng không liên quan đến nhau, Chu Quyết vẫn có thể mãi mãi ở bên cô nhưng Kỷ Hoài Chu thì không, Kỷ Hoài Chu phải quay trở về với gia tộc.
Sự chênh lệch về địa vị, thân phận giống như trời với đất.
Dù cô không còn tham lam mong cầu gì khác nhưng giờ đây cũng không còn tư cách làm em gái của anh nữa.
Từ khi còn nhỏ cô đã là cái đuôi nhỏ của anh.
Mà trước khi gặp anh, cô cũng chỉ là một đứa trẻ lưu lạc trong đêm mưa, không ai cần đến.
Anh nói không sai, cô thực sự đã quá phụ thuộc vào anh.
Sự tồn tại của anh đã vượt quá nhận thức của bản thân cô.
Một khi anh rời đi, trong lòng cô, trên thế giới này sẽ không còn Chu Sở Kim nữa.
Cô lại trở lại là một đứa trẻ không ai cần đến.
Vì vậy, cô ngây thơ muốn đi trước anh.
Không dám tận mắt chứng kiến sự rời đi của anh.
Việc rời đi đến nước Mỹ xa xôi không phải vì anh trai mà là vì chính bản thân cô.
Cô để tâm về câu nói không đúng đắn của Tề Hựu, để tâm về câu nói của bố anh. Những h*m m**n cá nhân đã mất đi, dù cho cô đã từng dũng cảm với cảm xúc của mình nhưng vẫn bị những lời độc ác cắt đứt đôi cánh.
Tại quê nhà, mỗi một góc đều có kỷ niệm với anh, mỗi một người đã từng có kỷ niệm với họ đều khiến Hứa Chức Hạ không thể chịu đựng nổi.
Hứa Chức Hạ cảm thấy những h*m m**n của mình đang bị hàng trăm đôi mắt nhìn chằm chằm vào.
Cô rất sợ hãi, khi con người không biết phải làm gì sẽ vô thức chọn cách trốn chạy.
Có thể là một năm nhưng cũng có thể là năm năm.
Có thể đến khi anh kết hôn và có con.
Đến lúc đó, có lẽ cô sẽ tự hòa giải với chính mình.
Nhưng trước khi đến lúc đó, Hứa Chức Hạ vẫn mang trong lòng nhiều sự áy náy.
“Dì à, thực sự xin lỗi…”
Chu Thanh Ngô đứng trước cửa sổ sát đất của biệt thự, không biết có phải bị ánh nắng chói mắt hay không mà mắt bà ấy bỗng thấy cay cay.
Chu Thanh Ngô hiểu câu xin lỗi của cô.
Cô luôn cảm thấy có lỗi vì mình không mở miệng gọi mẹ, cảm thấy có lỗi vì đã gây ra rắc rối và giờ lại phải ích kỷ rời khỏi ngôi nhà này.
Cô luôn ngoan ngoãn, ngoan đến mức khiến người khác đau lòng.
“Con gái ngoan, con không có lỗi.” Chu Thanh Ngô dịu dàng nói: “Stanford là một trường đại học hàng đầu, nếu chúng ta có cơ hội đi tới đó thì đừng nên bỏ lỡ.”
Chu Thanh Ngô che giấu nỗi buồn, mỉm cười hỏi: “Bảo bối muốn học chuyên ngành gì?”
Im lặng một lúc, Hứa Chức Hạ nhẹ nhàng nói ra hai chữ.
“Tâm lý.”
Lần này, hãy để cô tự mình ủi phẳng mọi thứ.
–
Hứa Chức Hạ có thành tích học tập không thể nghi ngờ, GPA, TOEFL và SAT đều đạt yêu cầu. Những việc mà Hạ Tư Tự giao cho, cấp dưới của anh ta cũng làm rất nhanh chóng.
Trong học kỳ mùa Xuân năm đó, Hứa Chức Hạ được tuyển thẳng vào chuyên ngành tâm lý học của Stanford mà không cần học dự bị.
Hứa Chức Hạ đã cập nhật thẻ điện thoại ở Mỹ.
Người từng là Chu Sở Kim đã bắt đầu mất liên lạc với toàn thế giới, bao gồm cả Mạnh Hy và Đào Tư Miễn, những người đã tự đi theo con đường khác nhau cùng rời khỏi sân bay.
Trong lòng cô chứa đựng đầy những nỗi đau, nhưng cô sợ nhất là khi họ hỏi về anh trai thì cô vẫn chưa có đủ dũng cảm để đối mặt.
Mùa Đông ủ rượu vào tháng Chạp năm đó, Hứa Chức Hạ cuối cùng đã không giữ lời hứa.
Khuôn viên trường Stanford rất đẹp, gió thổi từ bờ biển phía Tây nước Mỹ. Mái ngói đỏ, tường đá cổ điển, hành lang hình vòm, đài phun nước, cây gỗ tùng đỏ, bãi cỏ rộng lớn, con đường rộng lớn trồng cọ theo phong cách La Mã và Romanesque, trông hệt như một cung điện nghỉ dưỡng suối nước nóng.
Hứa Chức Hạ không cảm thấy vui vẻ chút nào.
Khi bước vào một ngôi Tr**ng X* lạ, cô không có chút cảm giác an toàn, không có cảm giác thân thuộc, trong lòng trống rỗng. Cô chỉ có thể cố gắng lấp đầy từng giây phút bằng việc học.
Nhưng cô không khóc.
Kể từ khi rời đi đến giờ cô chưa từng rơi nước mắt.
Tại nước Mỹ, cảm xúc của cô mỗi ngày đều rất thản nhiên, có lẽ vì đã từng ở dưới đáy vực và sẽ không có điều gì tồi tệ hơn hiện tại nữa.
Chỉ là sự bình tĩnh của cô gần với sự đau buồn hơn là cái chết của trái tim, im lặng chính là một loại tuyệt vọng sâu sắc nhất.
Cô như thể đang héo mòn mà chết dần đi từng ngày.
Nhưng con người thực sự có thể bất ngờ sụp đổ chỉ trong một khoảnh khắc nào đó.
Đó là trong tiết học đầu tiên của Hứa Chức Hạ tại Stanford, không khí trong lớp học rất sôi nổi nhưng cô vẫn ngồi im lặng cho đến khi giáo sư yêu cầu cô tự giới thiệu về bản thân.
Giữa tiếng ồn ào của các chàng trai, Hứa Chức Hạ đứng dậy trong tâm trạng như bị ép buộc, vô hồn nói bằng tiếng Anh: “Tôi tên là…”
Âm tiết “Chu” tự động bật ra, đột ngột mắc kẹt lại trong cổ họng.
Cô mới nhận ra tình hình lúc này.
Khi bước vào năm lớp Một tiểu học, cô có chút e ngại, nhỏ giọng nói: “Tôi tên là Chu Sở Kim…”
Năm lớp Sáu, học trường trung học, cô tự tin đứng trên bục giảng: “Tôi tên là Chu Sở Kim.”
Khi lên lớp Mười, cô với ánh mắt rạng rỡ, giọng nói ngọt ngào nói với các bạn mới: “Tôi tên là Chu Sở Kim!”
Cô suýt quên mất mất hình dáng ban đầu của chính mình.
Nước mắt bỗng chốc nghẹn lại nơi cổ họng, Hứa Chức Hạ phải cố gắng lắm mới kiềm chế được, xung quanh là những ánh mắt thân thiện và mong đợi nhìn về phía cô.
Cô như bị nướng trên ngọn lửa.
Hứa Chức Hạ hít một hơi thật sâu, cố gắng hết sức để nói ra tên của mình nhưng khó tránh khỏi âm thanh run rẩy.
“Tôi tên là… Hứa Chức Hạ.”
Khi lời nói vừa dứt, đôi mắt của cô cũng không thể kiểm soát được mà trở nên đỏ hoe, không thể nói thêm câu thứ hai.
Cô cố gắng kiềm chế cảm xúc rất lâu nhưng cảm xúc lại dâng trào mãnh liệt, không thể kiềm chế, cô xin lỗi giáo sư, cúi đầu xin phép ra ngoài vài phút.
Cô gần như đang chạy trốn trong sự hoảng loạn, bước ra khỏi lớp học, chạy qua hành lang hình vòm, trốn sau một cái cột ở hành lang.
Những ngày không khóc như thể đã tích trữ nước mắt.
Lúc đó, nước mắt của cô không ngừng rơi, vai và ngực đều run rẩy. Cô dùng sức bịt miệng và mũi, không để tiếng khóc thoát ra từ kẽ ngón tay.
Một tờ khăn giấy trắng được đưa đến trước mặt.
Hứa Chức Hạ hoảng hốt ngẩng đầu lên, bên cạnh xuất hiện một chàng trai người Ý, lông mày sâu, ngũ quan tinh tế, đôi mắt xanh trong suốt.
Anh ta có vài phần giống người đó.
Nước mắt còn đọng lại trong mắt, Hứa Chức Hạ từ từ đưa tay nhận lấy, giọng khàn khàn nói cảm ơn.
“Nhớ nhà à?”
Rees nhẹ giọng an ủi cô: “Tôi biết bây giờ cậu rất buồn, hãy khóc một trận cho đã đi, tôi sẽ ở đây bên cạnh cậu.”
Sự xấu hổ phát triển mạnh mẽ, lan tỏa đến mọi ngóc ngách.
Hứa Chức Hạ không muốn để người khác nhìn thấy mình lúc yếu đuối, cô quay lưng lại, dùng khăn giấy che lên mắt.
Rees cũng rất tinh tế, quay người sang một bên, không nhìn cô.
Cái chết gần giống với sự tái sinh, những cảm xúc bị dồn nén cuối cùng cũng được giải phóng. Sau khi trút bỏ hết, Hứa Chức Hạ cũng tìm lại được linh hồn đã mất.
Cô đã trưởng thành trong khoảnh khắc đó, học được cách làm mới bản thân.
Đã ở dưới đáy vực thì đi đâu cũng đều là đi lên.
May mắn thay, tại Stanford cô không còn bị ánh mắt người đời soi mói, không còn bị phán xét về đạo đức, không còn phải mãi mãi giằng co với chính mình.
Cô cũng thực sự bắt đầu không còn thời gian để bận tâm đến những thứ khác, tốc độ giảng dạy của trường đại học hàng đầu rất nhanh, chỉ cần không chú ý một chút là cô đã không theo kịp tiến độ lớp học.
Không thể không thừa nhận rằng khi tư tưởng và tầm nhìn được mở rộng sẽ phá vỡ những nhận thức cố hữu của con người.
Chẳng hạn như khi tâm tư của cô không còn bị ràng buộc trong sự phụ thuộc duy nhất.
Những người gặp gỡ trong khuôn viên trường cũng rất đáng yêu.
Bạn cùng phòng của cô – Phù Ny, là một cô gái người gốc Mỹ tươi sáng, nhược điểm là ham tiền và mê trai đẹp.
Thời gian có thể xóa nhòa tất cả không?
Có lẽ vậy.
Ít nhất cô không còn cảm thấy chán nản, dần dần cô lại lấy lại được thói quen trước đây, cuốn nhật ký được bỏ trong balo, mang theo bên mình.
Thỉnh thoảng vào những đêm yên tĩnh, cô sẽ viết nhật ký.
Trong cuốn nhật ký bọc vải màu xanh nhạt.
Chỉ là khi nhìn thấy hoa anh đào Yoshino ở San Francisco, cô vẫn sẽ có chút xúc động vì không ngừng nhớ về bờ sông ở trấn Đường Lý, nơi những cánh hoa hải đường rủ rơi như tuyết bay.
Khí hậu ở San Francisco ấm áp vào mùa Đông và mát vào mùa Hè, bốn mùa giống như mùa Thu.
Mùa Thu ở Stanford chào đón mùa lá đỏ, lá cây dần dần chuyển sang màu đỏ, hai bên cây cối chuyển màu từ đỏ sang cam rồi lại vàng.
Hạ Tư Tự thường ở Mỹ, lần này được mời về trường cũ để tham dự một buổi tọa đàm về tài chính.
Một buổi sáng nọ, Hứa Chức Hạ lại gặp anh ta trong khuôn viên nhà trường, dưới tán cây lá đỏ, họ đứng nói chuyện vài câu.
“Thế nào?” Hạ Tư Tự vẫn mặc bộ vest lần trước, tay đút vào túi quần, hỏi cô về cuộc sống ở trường một cách hờ hững.
Hứa Chức Hạ rũ mắt xuống.
Chàng trai có kinh nghiệm sâu sắc này, dù có lúc tốt lúc xấu với cô, không phải là kẻ thù cũng không phải là bạn, nhưng thực sự đã chăm sóc cô rất nhiều khi ở Mỹ, cô vẫn mang lòng biết ơn.
“Anh nói đúng, mọi nỗi đau của con người đều bắt nguồn từ nhận thức của chính mình.” Hứa Chức Hạ nhẹ nhàng trả lời, đồng thời thành thật đối diện với suy nghĩ trong lòng của mình: “Chỉ là không có những người dễ thương, thỉnh thoảng cũng cảm thấy thật đáng buồn.”
Về chuyện tình yêu, Hạ Tư Tự dường như không để tâm: “Tình yêu không phải là thứ cần thiết.”
Hứa Chức Hạ không mấy ngạc nhiên với thái độ của anh ta.
Trong mắt anh ta có lẽ chỉ có lợi ích của thương nhân.
Hứa Chức Hạ mỉm cười: “Anh có người yêu không?”
Anh ta không biết nghĩ đến ai, có một chút do dự rồi mới che giấu cảm xúc trên gương mặt, nhẹ nhàng nói: “Không có.”
Hứa Chức Hạ nhìn anh ta, nhận ra câu trả lời của anh ta không còn quyết đoán như trước.
Sau một hồi suy nghĩ, Hứa Chức Hạ nói: “Chúc anh sẽ có một người để yêu đến mức sẵn sàng nhường nhịn.”
Hạ Tư Tự nghe thấy vậy thì mỉm cười, nhìn cô: “Nghe có vẻ không giống lời chúc phúc cho lắm.”
Hứa Chức Hạ mím môi khẽ mỉm cười, tiễn anh ta bước xuống cầu thang.
Ngày hôm đó, thời tiết ở San Francisco chuyển từ âm u sang mưa.
Sau giờ học trở về ký túc xá, Hứa Chức Hạ cầm một chiếc ô trong suốt, ôm hai cuốn sách trước ngực. Cô mặc áo len và chân váy ngắn, đôi chân thon thả, đôi bốt ngắn bằng vải nhung giẫm lên lớp lá đỏ.
Tóc tết bím hai bên hông khiến cô có chút khí chất nghệ sĩ.
Trước đây, người đó thường vừa chải tóc cho cô vừa nói rằng cô lớn như vậy mà vẫn không biết buộc tóc.
Bây giờ, cô đã biết tự tết bím tóc.
Dưới tán cây lá đỏ có một chú mèo nhỏ màu cam không sợ người, Hứa Chức Hạ bỗng dưng ngẩn người, từ từ dừng lại.
Cô không kiềm chế được mà đi tới, ngồi xuống.
Mặt ô rơi xuống những giọt mưa trong suốt, cô và chú mèo cùng trú dưới một chiếc ô, nhìn nhau.
Một đêm mưa rất lâu trước đây.
Dưới mái hiên ở trước cửa quán nước, có một người cũng dùng nửa chiếc ô nhỏ che người cho một cô bé.
Cô bé kéo tay áo của anh, ánh mắt ngây thơ hỏi: “Anh trai, em có thể về nhà cùng anh không?”
——Dù có muộn thế nào, anh trai cũng sẽ đến đón em.
——Anh trai sẽ không bao giờ bỏ rơi em.
Những cảnh tượng đó, đều là những chuyện đã xảy ra rất lâu rồi.
–
Mùa thu ở London, lá rụng vàng óng.
Vào ban đêm với chênh lệch múi giờ tận tám tiếng, ánh sáng che lấp bóng tối, tiếng chuông Big Ben ngân vang, những con hải âu bên bờ sông Thames vỗ cánh, chiếc xe buýt đỏ lướt qua, bóng dáng mờ ảo.
Ánh đèn sáng rực rỡ như thể đang mắc kẹt trong một đám sương mù.
Thân hình cao lớn của Kỷ Hoài Chu khoác một chiếc áo khoác màu đen, đi dạo trên đường phố ở London, đi từng bước một trên con đường, không có mục đích.
Hình dáng có chút uể oải, mang theo sự cô đơn và xa cách của những năm tháng trước kia.
Một vài vệ sĩ theo sát như hình với bóng, cản trở anh, cuối cùng anh cũng chán nản, mất kiên nhẫn, tức giận liếc mắt nhìn qua
“Cút.”
Trần Gia Túc đi theo phía sau, sợ anh nổi giận thì khó mà dừng lại, vội vàng ngăn cản vệ sĩ: “Không cần phải theo sát như vậy đâu, anh ấy đã bị giữ hộ chiếu còn thể chạy đi đâu được chứ?”
Vệ sĩ nhìn nhau, vẫn lùi lại vài bước.
Đi qua một quán cà phê ở góc phố, có một người bố ôm một cô bé người Anh đang tập nói, cười đùa vui vẻ.
Anh bỗng nhớ đến cô bé hồi nhỏ học theo băng đài đọc tiếng Anh, dáng vẻ ngây thơ nhỏ giọng gọi “ba ba”.
Đôi lông mày nhíu chặt dần dần giãn ra.
Những cảnh tượng trong đầu lần lượt hiện lên.
Cô với đôi mắt đỏ hoe, giọng nghẹn ngào: “Còn có thể, còn có thể làm phiền anh trai….”
Ánh mắt đầy tội lỗi: “Anh trai không có ngủ nướng.”
Lén lút ăn đồ ngọt mà người tỏ tình tặng cho anh, mỗi ngày về nhà đều có vụn bánh quy dính trên môi, còn cứ tưởng anh không biết.
Thời thiếu nữ.
Cô bé cầm lấy một chiếc còng kim loại ở thắt lưng, khoá vào cổ tay anh: “Anh bị bắt rồi!”
Bỗng dưng, cô đến công ty tìm anh: “Anh trai, em hơi nhớ anh…”
Trong bữa tiệc chia tay, cô say rượu, úp mặt vào cổ anh, thì thầm: “Bây giờ có thể thích anh không… anh trai…”
Sự lạnh lùng vừa rồi dần biến mất, ánh mắt Kỷ Hoài Chu trở nên mơ màng, vẻ mặt dần dần dịu lại.
Anh ngẩng đầu, nhìn lên bầu trời đầy lá vàng.
Hứa Chức Hạ ngồi xổm dưới tán cây lá đỏ trong khuôn viên trường, cũng vào khoảnh khắc đó ngẩng mặt lên, tầm mắt vượt qua vành ô đang nhỏ giọt, không tự chủ được mà suy nghĩ——
Những người không kịp nói lời tạm biệt mà đã chia xa sẽ quên nhau hay sẽ gặp lại?
Cùng nhau chứng kiến đủ mọi màu sắc của thế gian, cảm xúc của con người thật thất thường.
Giờ đây, họ lại một mình.
Mười ba năm, những giây phút ngắn ngủi đánh cắp được, như một giấc mơ lớn tan vỡ chỉ trong một đêm.