【Anh ở trong chùa, em ở chốn trần tục.
Ngôi chùa cổ ở Hàng Châu, trên tường vàng khắc bốn chữ Chỉ Xích Tây Thiên*, trước mặt là một bức tường chắn. Tưởng như Cõi Tịnh độ chỉ cách nửa bước, nhưng nửa bước ấy lại hóa ngàn dặm xa.
(*Chỉ Xích Tây Thiên: Tây Thiên gần trong gang tấc)
——Kỷ Hoài Chu】
–
London, nước Anh, biệt thự cổ nhà họ Kỷ.
Biệt thự phong cách cung điện, cổ kính tráng lệ, diện tích vài hecta rộng lớn, xung quanh tòa chính còn có mấy lâu đài phụ và cả chục mẫu vườn hoa.
Trong phòng sách chính của biệt thự.
Chiếc điện thoại từ từ rơi khỏi tai, cánh tay buông xuống tựa vào tay ghế, đầu ngón tay buông lỏng rũ xuống, mang theo vài phần uể oải.
Kỷ Hoài Chu bất động, tầm mắt hướng về nơi mình đang ngồi, anh nghiêng cổ, chầm chậm lướt qua từng chỗ.
Sàn trải thảm nhung đỏ dày nặng, rèm nhung màu đỏ sẫm, tường treo lụa in hoa văn, trên mái vòm tròn là những phù điêu và bích họa tinh xảo, phong cách Baroque pha lẫn La Mã cổ, xa hoa tột bậc.
Một phòng sách riêng, giống hệt như một thư viện.
Dãy tủ sách hành lang cao tới ba tầng, trưng bày vô số bản thảo quý hiếm và sách cổ, có thang treo leo thẳng lên, có thể di chuyển được.
Trước ba mặt tủ sách đều có lưới bảo vệ sợi vàng bao quanh.
Ở trong đó, anh giống như bị giam cầm trong một chiếc lồng khổng lồ.
“Nếu hôm đó là Chu Quyết, em sẽ vui chứ?”
“…Vui.”
Kỷ Hoài Chu cảm thấy lồng ngực như đang bị bóp nghẹt, giống như bị lưỡi dao sắc bén đâm vào, lại bị một bàn tay chết dí đè chặt, không cho máu phun trào ra ngoài.
Người cô khao khát nhất là Chu Quyết – người từng cùng cô đi khắp những ngõ dài phố nhỏ, cùng cô sống trong một mảnh đất yên bình.
Nhưng Kỷ Hoài Chu có thể cho cô mọi châu báu trên đời, duy chỉ không thể cho cô gạo dầu muối lửa của cuộc sống thường nhật.
Trong lòng cô, Chu Quyết và Kỷ Hoài Chu giống như trấn Đường Lý trước đây và bây giờ vậy. Từ nơi tụ họp hơi thở sinh động của phố xá, biến thành mùi tiền thương mại hóa u ám.
Cô thích cái trước, không muốn chấp nhận cái sau.
Chỉ vì nó vẫn là trấn Đường Lý, nên cô hoàn toàn không hề né tránh.
Có một ngôi chùa cổ ngàn năm ở Hàng Châu, trên bức tường bình phong màu vàng có khắc bốn chữ—— Chỉ Xích Tây Thiên.
Gần trong gang tấc chính là thiên đường vô tư vô lo.
Nhưng Kỷ Hoài Chu lại bị ngăn ở bên ngoài bức tường ấy, kẹt trong cõi trần tục đầy toan tính đấu đá.
Phòng sách khép kín ba mặt, hành lang dẫn ra cửa lại thông vào sâu hơn trong biệt thự, chỉ có một ô cửa sổ kính màu cao vút hướng ra vườn hoa bên ngoài lâu đài.
Kỷ Hoài Chu nhìn chằm chằm ô cửa kính ấy, muốn đập nát nó một cách điên cuồng.
Ngay lúc đó, nơi cửa vang lên tiếng động, âm thanh giày da Oxford và cây gậy vàng đầu hổ gõ xuống đất đều bị tấm thảm dày nặng nuốt chửng.
Kỷ Hoài Chu không quay đầu lại, nhưng ánh mắt lập tức trở nên lạnh lùng sắc bén.
“Giờ con càng ngày càng cuồng vọng rồi, Kỷ Hoài Chu, còn cần ta đích thân mời con sao!” Kỷ Thế Viễn nghiến từng chữ nặng nề, từng câu lạnh lùng vang dội như đập xuống đất.
Đúng lúc Kỷ Hoài Chu đang căm ghét xuất thân của mình đến tận cùng, cái tên ấy bất ngờ vang lên bên tai, tính tình vốn nóng nảy trong chốc lát lại đông lạnh đến cực điểm.
“Mời thì phải có dáng vẻ của người đi mời.”
Kỷ Hoài Chu liếc mắt nhìn sang, đảo mắt nhìn về phía lão già đang đứng cách anh hai bước, giọng lạnh lẽo mỉa mai: “Quyền cao chức trọng như Chủ tịch Kỷ, đến chút đạo lý ấy mà cũng không hiểu sao?”
Trên gương mặt phong sương của Kỷ Thế Viễn không để lộ quá nhiều biểu cảm, nhưng cây gậy vàng trong tay ông ta bất ngờ nện mạnh xuống đất, vẫn phơi bày ra sự tức giận bị anh chọc trúng: “Con đứng dậy cho ta!”
Kỷ Hoài Chu làm như không nghe thấy, vẫn ngả người trong chiếc ghế da màu nâu đỏ ấy.
Thấy bầu không khí giữa hai người căng như dây đàn, Chung Tù ở bên kịp thời nhắc: “Cậu chủ, bà Edith dẫn theo tiểu thư chờ ngài trong phòng khách khá lâu rồi.”
Kỷ Hoài Chu cười khẩy.
Ông già này một lòng muốn kết thân với quý tộc Anh, bắt anh cưới công chúa hay tiểu thư nào đó. Những năm qua, chẳng biết anh đã ném bao nhiêu thể diện của bọn quý tộc kia đi rồi, tiếng xấu phóng túng trác táng lan rộng khắp giới thượng lưu, vậy mà vẫn còn kẻ không biết sợ.
Người trong giới thượng lưu, quả thật vì lợi ích mà chẳng từ thủ đoạn nào.
Dáng vẻ Kỷ Hoài Chu chẳng hề coi trọng: “Cứ phải để tôi gặp à, rồi sao, đó là mẹ kế tương lai của tôi à?”
Anh nói chuyện châm chọc đâu chỉ một hai lần. Kỷ Thế Viễn đã quá quen, cũng quen với lối sống phóng túng của anh. Anh hoang dâm buông thả, chìm đắm trong tửu sắc, ông ta đều có thể bỏ qua, miễn đừng làm ra chuyện thân bại danh liệt. Trong cái giới này, đàn ông như vậy vốn chẳng hiếm.
Anh thích chơi thì cứ chơi, nhưng chuyện liên hôn thì không cho phép bàn cãi.
“Cho con ra khỏi nước Anh vài tháng, xương cốt kiêu ngạo lại mọc về rồi sao?” Vùng da quanh mắt Kỷ Thế Viễn hằn sâu nếp nhăn, tích tụ sự kiêu ngạo của kẻ đứng trên cao bao năm: “Hoài Chu, muốn tự do chỉ có cách làm theo lời ta, đây là lời khuyên cuối cùng của ta dành cho con.”
Kỷ Hoài Chu khẽ nhếch môi, giọng điệu mỉa mai tuôn ra không cần nghĩ ngợi: “Tôi cũng khuyên ông, sớm mà sinh thêm đứa con trai nữa, quá vài năm nữa thì cả đời này cũng chẳng còn cơ hội đâu.”
Kỷ Thế Viễn không tức giận, vẫn bình thản nói: “Đã 4 năm, con vẫn còn nhớ tới con bé đó sao?”
Kỷ Hoài Chu nhíu mắt lại.
Nghe Kỷ Thế Viễn nói tiếp: “Ta đã nói rồi, ở vị trí này, lợi ích mới là tình cảm sâu sắc nhất.”
Kỷ Hoài Chu nhắm mắt lại, trong khoảng lặng chết chóc hồi lâu, yết hầu anh trượt xuống, âm thanh trầm thấp phát ra từ cổ họng: “Chu Cố Đường và Kỷ Hoài Sùng, hai cái tên ấy bao năm qua, có giây phút nào khiến ông hối hận dù chỉ một lần không?”
Dưới cặp kính gọng vàng lấp lánh, đôi mắt xanh thẫm của Kỷ Thế Viễn sâu lắng không gợn sóng, ông ta không trả lời thẳng, chỉ nói: “Con người có thể không cần tình cảm, nhưng rời bỏ quyền thế, con chẳng là gì cả.”
Không khí đông cứng, rơi vào cục diện bế tắc.
Cuối cùng, Kỷ Hoài Chu đặt hai tay lên tay vịn, từ từ đứng dậy, hàng mi anh khẽ hạ xuống, che đi làn sóng hung hãn u ám trong mắt, đối diện với người bố máu lạnh.
Hai ánh mắt cứng cỏi ngang nhau, trong giây phút chạm nhau, dường như có kiếm bén đao nhọn giao đấu.
“Hoài Chu, đừng buộc ta phải dùng thủ đoạn.”
Cảm xúc của Kỷ Hoài Chu không chạm đến đáy mắt, thoạt nhìn như thể yếu thế giống 4 năm trước, bị ép buộc phải cúi đầu: “Tất nhiên, ai bảo ông nắm được tử huyệt của tôi chứ.”
Kỷ Hoài Chu bước thẳng ra cửa.
Khi sượt qua ông ta, Kỷ Hoài Chu bỗng khựng lại.
“À đúng rồi, thưa bố.” Kỷ Hoài Chu nói từng chữ rõ ràng, cằm hơi nghiêng về phía Kỷ Thế Viễn đứng kề vai: “Thứ tình cảm mà ông khinh thường ấy, cũng có kẻ muốn nhặt lấy đấy.”
Ánh mắt anh lướt qua Chung Tù đầy ẩn ý: “Đúng không, chú Chung Tù?”
Chung Tù nhận ra ẩn ý trong lời anh nói, khẽ cụp mắt xuống, khó mà nhìn ra.
Kỷ Hoài Chu không thèm để ý đến vẻ mặt của họ, nói xong lập tức sải bước đi tiếp. Ngay khoảnh khắc quay đầu đi, khóe môi anh cong lên một cách lười nhác.
Gương mặt vốn bình lặng, không lộ núi giấu sông, ở nơi Kỷ Thế Viễn không thể thấy, nháy mắt đã thay đổi.
Như một kẻ săn mồi ở đỉnh chuỗi thức ăn, chờ đến lúc vồ bắt, ánh mắt anh để lộ ra hết thảy tâm cơ sâu không lường được.
–
Hứa Chức Hạ ở nhà Mạnh Hy mấy ngày.
Đúng vào dịp nghỉ Hè, tập đoàn Thiên Tầm càng dốc sức quảng bá và đầu tư cho khu du lịch mới, trấn Đường Lý. Mấy ngày Hứa Chức Hạ ở đó, lúc nào thị trấn cũng đông nghịt khách du lịch.
Cô sâu sắc nhận ra, trấn Đường Lý không thể quay lại như xưa nữa.
Người dân bản địa từng sống an yên nơi sông nước trước đây đã chuyển đi không ít, thay vào đó là đủ kiểu thương nhân kéo đến làm ăn. Bọn họ bán xiên nướng, trà sữa tầm thường chẳng chút mới lạ, cùng đủ loại hàng hóa không khác biệt gì mấy với đồ mua trên mạng.
Trấn Đường Lý gắn bó với tuổi thơ và những năm tháng thiếu nữ của cô, vốn là một bức tranh trải rộng trên mặt nước xanh, phơi bày nét cổ phong thuần khiết của Giang Nam trong mưa khói mịt mờ.
Còn bây giờ, thậm chí giữa con đường lát đá xanh lại còn có tấm bảng “Tôi ở trấn Đường Lý rất nhớ bạn” để hút khách trên mạng xã hội, lạc lõng chẳng ăn nhập gì, giống như chèn miếng gỗ vuông vào lỗ tròn, cực kỳ gượng gạo.
Hứa Chức Hạ có thể đối mặt với thực tế mà mình đã trốn tránh suốt 4 năm qua, nhưng trong lòng vẫn vô cùng tiếc nuối rằng: Giữa tình trạng ngàn thị trấn một dáng vẻ như hiện nay, trấn Đường Lý rốt cuộc cũng trôi theo dòng chảy, bị khai thác thành một khu buôn bán giả cổ chẳng khác gì những thị trấn mới phục cổ khác.
Thế mà tập đoàn Thiên Tầm lại lấy chiêu bài “Cổ trấn ngàn năm” để thu hút khách du lịch, quảng bá rầm rộ, chiêu trò tiếp thị loè loẹt.
Nhưng trấn Đường Lý không phải như thế.
Nơi đây từng có nhiều xưởng nhỏ có lịch sử cả trăm năm, chẳng hạn như bên cạnh học viện Tu Tề có một xưởng làm ô giấy dầu thủ công với mặt ô được vẽ tay, ngày trước ông bà vẫn hay giúp đề chữ vẽ tranh, về sau là cô làm.
Hứa Chức Hạ vẫn luôn cho rằng trấn Đường Lý là nơi ẩn giấu nhân tài, thoạt nhìn đều là dân quê bình thường, nhưng thực ra ai cũng có một kỹ năng khiến người ta phải thán phục.
Đó chính là nét văn hóa mà trấn Đường Lý đã lưu truyền ngàn năm đến nay, là linh hồn, là cốt cách của trấn Đường Lý, là điều không một cổ trấn nào khác có thể thay thế.
Cho dù không còn thuộc về một mình cô nữa.
Trấn Đường Lý cũng có thể là duy nhất.
Hứa Chức Hạ nhớ lời anh trai từng nói với cô. Cho dù trấn Đường Lý có bị thương mại hóa, cũng đừng trách chú Lý và mọi người, bởi họ cũng phải sống.
Cô chỉ có thể trơ mắt nhìn trấn Đường Lý đi đến hôm nay.
Cũng giống như trơ mắt nhìn chính mình, từ Chu Sở Kim trở lại thành Hứa Chức Hạ.
Mọi chuyện đều là số mệnh, không hề do người.
Bốn năm trôi qua, Hứa Chức Hạ đã tốt nghiệp thạc sĩ ở Stanford, Mạnh Hy cũng đã lấy bằng đại học ở Sơn Thành. Còn Đào Tư Miễn thì vẫn kẹt ở Ô Thị vì luận văn tốt nghiệp chưa qua, xem tình hình ít nhất phải nửa tháng nữa mới về được.
“Chỉ có cậu là kéo tụt lại thôi!” Mạnh Hy chửi qua điện thoại: “Tớ với Kim Kim đi chơi rồi, không thèm dẫn cậu theo nữa!”
Đào Tư Miễn than thở liên hồi: “Đừng mà đừng mà, chúng ta là bộ ba cát tường, sao có thể thiếu một được.”
Hứa Chức Hạ lúc ấy tỏ ra đặc biệt dịu dàng hiền lành: “Cậu cứ từ từ viết đi, Đào Tư Miễn, bọn tớ chờ cậu về.”
Đào Tư Miễn cực kì cảm động: “Kim Kim của chúng ta đúng là người đẹp tốt bụng!”
“Đào Tư Miễn, cậu bóng gió mỉa mai ai đấy?” Mạnh Hy lạnh giọng.
Đào Tư Miễn ho khẽ, dõng dạc nói câu nhát gan: “Cậu, người đẹp như cậu đừng có mách lẻo trước…”
Mạnh Hy hừ khẽ, dứt khoát cúp máy.
Hứa Chức Hạ ngả đầu lên vai Mạnh Hy mỉm cười.
Mạnh Hy từ nhỏ đã học Bình Đàn, nhưng vào đại học lại học ngành marketing mà bản thân chẳng hề thích. Cô ấy về ở nhà với ông nội Mạnh một thời gian rồi vẫn phải quay về nhà ở thành phố, vì sắp tới có vài buổi phỏng vấn xin việc.
Cả hai không còn là trẻ con nữa, Hứa Chức Hạ cũng phải nghĩ đến chuyện công việc, nhưng chưa vội trong một hai ngày này, cô muốn đi Kim Lăng thăm ông bà trước.
Lần chia tay này không còn đau đớn, bởi vì bất cứ lúc nào họ cũng có thể gặp lại.
Đi tàu cao tốc từ Hàng Châu đến Kim Lăng chỉ mất hơn một tiếng.
Hôm đó Chu Thanh Ngô lái xe đưa cô ra ga tàu cao tốc. Trước khi vào cửa kiểm an ninh, Chu Thanh Ngô dịu dàng vuốt gọn sợi tóc bên tai cô, dặn dò đầy lo lắng: “Bé con đến chỗ ông bà thì nhớ báo bình an nhé.”
“Dạ.” Hứa Chức Hạ ngoan ngoãn cười.
Đang định tạm biệt, cách đó không xa xuất hiện một bóng dáng quen thuộc, Hứa Chức Hạ tròn xoe mắt, khẽ gọi: “Đàn anh Đàm Cận!”
Đàm Cận nghe tiếng nhìn lại, trong ngạc nhiên pha lẫn vui mừng, chen qua dòng người bước nhanh tới: “Đàn em?”
Anh ấy không quên chào hỏi Chu Thanh Ngô: “Dì Chu.”
Chu Thanh Ngô rất thích Đàm Cận, biết hai đứa nhỏ này có thể có duyên nên thái độ cũng nhiệt tình hơn thường ngày: “Thằng bé này, sao đến Hàng Châu mà không nói với dì?”
Đàm Cận mỉm cười, thẳng thắn giải thích: “Dì, con vừa xuống máy bay, lập tức phải chuyển tàu đi Kim Lăng.”
Chu Thanh Ngô lộ vẻ ngạc nhiên, cười nói là duyên phận: “Cháu cũng đến Kim Lăng à?”
“Vâng, đi dự hội nghị học thuật thường niên về lý luận tâm lý học của Đại học Sư phạm Kim Lăng.” Đàm Cận nắm bắt ý từ lời bà ấy, đưa mắt nhìn Hứa Chức Hạ: “Đàn em cũng vậy sao?”
Hứa Chức Hạ cười tươi trả lời: “Tôi về thăm hai người lớn trong nhà.”
Có người ngày đêm mong chờ, cuối cùng lại chẳng đợi được một lần tình cờ gặp gỡ; Mà cũng có người, giữa biển người mênh mông, việc gặp gỡ lại tự nhiên thuận nước đẩy thuyền.
Số mệnh vốn khó lý giải, có lẽ duyên sâu hay cạn đều ẩn trong những khoảnh khắc bất ngờ ấy.
Hứa Chức Hạ và Đàm Cận đi cùng một chuyến tàu, có người đồng hành cùng cô, Chu Thanh Ngô mới yên tâm rời đi. Đương nhiên Đàm Cận đề nghị đổi chỗ, thuận lợi ngồi xuống bên cạnh Hứa Chức Hạ.
Bọn họ đều không vì lời tỏ tình ở Stanford mà trở nên khó xử, quan hệ vẫn hòa hợp như trước. Có lẽ đúng như Đàm Cận từng nói, nói cho cô biết chỉ là để cô biết, nên Hứa Chức Hạ vẫn có thể thản nhiên đối diện với anh ấy.
Tại ga tàu Kim Lăng, tài xế nhà họ Tưởng đến đón Hứa Chức Hạ. Ban đầu Đàm Cận định chào tạm biệt cô rồi tự mình về khách sạn, nhưng tài xế chuyển lại lời của Tưởng Kinh Xuân, nói mời bạn của cô Chu Sở Kim cùng dùng cơm tối.
Được người lớn mời, từ chối thì không phải phép nên hai người cùng ngồi xe về nhà họ Tưởng.
“Lúc trước em tên là Chu Sở Kim à?” Đàm Cận hỏi một cách tò mò.
Gió ngoài cửa sổ thổi tung mái tóc dài của cô, Hứa Chức Hạ ngoái đầu lại, nét mặt thản nhiên, mang theo nụ cười nhạt: “Ừhm, đó là tên cũ.”
Đàm Cận không hỏi thêm: “Đều rất hay.”
Thành Kim Lăng mang đậm phong cách thời Dân Quốc. Tục ngữ có câu một con đường Di Hòa, nửa bộ lịch sử Dân Quốc. Khu phố này rộng rãi, không có cảnh ngựa xe ồn ào như nước, dễ chịu nhàn nhã, nhiều công quán và biệt thự Tây cũ đơn lập ẩn trong chốn phồn hoa.
Hai bên đường toàn cây ngô đồng lâu năm.
Bỏ qua chính trị và hình tượng không bàn tới, câu chuyện Hiệu trưởng Tưởng vì tiểu thư Mỹ Linh mà trồng ngô đồng, chí ít vào thời ấy, không nghi ngờ gì là một giai thoại lãng mạn.
Tưởng Kinh Xuân và Tưởng Đông Thanh sống trong một tòa biệt thự sân vườn trên đường Di Hòa.
Hai ông bà đã đứng chờ từ sớm, xe còn chưa kịp dừng hẳn họ đã vội vã bước tới.
“Ông bà!” Hứa Chức Hạ từ trên xe nhảy xuống, vui mừng ôm chặt họ.
Tưởng Đông Thanh âu yếm xoa tóc, vuốt gương mặt cô: “Cháu gái của ông bà càng lớn càng xinh đẹp.”
Tưởng Kinh Xuân cũng cực kỳ vui mừng, khi nhìn thấy Đàm Cận. Đàm Cận rất có giáo dục, hơi khom người hành lễ, nói một cách lễ phép: “Cháu chào ông bà, lần đầu gặp mặt, cháu tên là Đàm Cận.”
Tưởng Kinh Xuân chăm chú nhìn anh ấy hai lượt, gật đầu cười hài lòng: “Tuấn tú nho nhã, học thức lễ độ, không tệ không tệ.”
Tưởng Đông Thanh bật cười, trừng mắt lườm ông ấy, ra hiệu bảo ông ấy kiềm chế lại.
“Chàng trai, vào nhà nào, vào nhà nào.”
Tưởng Kinh Xuân bảo Đàm Cận đừng khách sáo, Tưởng Đông Thanh lại nhắc chồng: “Ông vội cái gì, hành lý của bọn nhỏ còn chưa kịp mang xuống.”
“Tôi không vội.” Tưởng Kinh Xuân cười khà khà: “Người trong nhà thì sắp chờ sốt ruột rồi.”
Lời ông ấy úp mở, Hứa Chức Hạ không nhận ra khác thường đã bị Tưởng Đông Thanh nắm tay dắt vào trong biệt thự.
Tưởng Kinh Xuân và Đàm Cận từ từ theo sau, chỉ một đoạn đường ngắn, hai người đã bắt chuyện được với nhau.
“Cháu trai đi dự hội nghị học thuật ở Đại học Sư phạm Kim Lăng sao?”
“Vâng ạ. Đại học Sư phạm Kim Lăng là cái nôi của ngành tâm lý học trong nước, nghiên cứu về lý luận tâm lý học rất đáng để học hỏi.”
“Thực lực ngành tâm lý học của Đại học Sư phạm Kim Lăng quả thật rất mạnh, chỉ là mấy năm gần đây, sự phát triển của lịch sử và lý luận tâm lý học dường như không mấy lạc quan…”
Một già một trẻ trò chuyện rôm rả phía sau, còn Tưởng Đông Thanh ở phía trước lấy dép trong nhà ra: “Cháu gái mau vào nhà ngồi đi, bên ngoài trời nóng lắm.”
Hứa Chức Hạ đáp lời, đổi dép đi trong nhà rồi bước vào.
Ở chỗ ông bà, giống như ở trong học viện, cô theo thói quen xem đó là chính ngôi nhà của mình.
Sức khỏe ông bà đều tốt, thấy tay chân họ vẫn linh hoạt tự nhiên, Hứa Chức Hạ vui mừng hiện rõ trên mặt, cười rạng rỡ.
Tiếng dép trong nhà vang lên lẹp xẹp, cô chạy vài bước thì bất ngờ chạm mắt một người, Hứa Chức Hạ lập tức khựng lại tại chỗ.
Nhìn cảnh tượng trước mặt đến xuất thần.
Rèm nhung kéo sang hai bên, khung cửa sổ cong kiểu Pháp hiện đại, ánh hoàng hôn nghiêng nghiêng chiếu lên chiếc sofa vải hoa văn cổ điển.
Chàng trai dựa vào sofa, bắt chéo đôi chân dài, cánh tay buông tùy ý ra sau lưng ghế, tư thế ngang tàng mà lười nhác. Ống tay áo sơ mi đen xắn đến khuỷu tay, để lộ cẳng tay rắn chắc hữu lực.
Anh chậm rãi dần dần nâng mí mắt lên, chính xác nhìn lên khuôn mặt cô.
Khoảnh khắc ánh mắt chạm nhau, Hứa Chức Hạ quên cả thở.
Hoàn toàn khác với sự ngạc nhiên khi tình cờ gặp Đàm Cận, cụ thể khác thế nào Hứa Chức Hạ cũng không nói rõ được, chỉ biết trong khoảnh khắc đó, đầu óc cô như nổ tung.
Có lẽ khác biệt ở chỗ, một bên là cuộc gặp bất ngờ, một bên là nhân duyên vốn đã chờ mong.
Ngoài ra, với dáng vẻ kia của anh, Hứa Chức Hạ bỗng thấy mình như con cá tự chui đầu vào lưới.
Trong lúc cô còn ngây người, chàng trai mỉm cười nửa thật nửa giả.
“Không gọi anh trai nữa à?”
Vừa nói xong, tầm mắt Kỷ Hoài Chu đã lướt qua vai cô, liếc thấy người đàn anh bạn trai kia, nét mặt lập tức lạnh hẳn, không chút che giấu.
Giọng điệu mang theo mệnh lệnh mơ hồ: “Qua đây.”
Hứa Chức Hạ chớp mắt một cái mới kịp hoàn hồn, theo thói quen thuận theo, bước đến gần: “Anh trai……”
Phía trước là Tưởng Đông Thanh, phía sau là Tưởng Kinh Xuân và Đàm Cận đang vừa đi vừa trò chuyện.
Ngay lúc họ bước tới, Kỷ Hoài Chu đã nắm chặt lấy cánh tay Hứa Chức Hạ, kéo cô ngồi xuống bên cạnh mình.
Trong khoảng thời gian ấy từng gọi điện mấy lần, nhưng đây là lần đầu họ gặp mặt sau đêm ở sàn đấu ngầm bên Mỹ.
Gặp trực tiếp khác với nói chuyện qua điện thoại.
Đối mặt, họ có thể nhìn thấy nét mặt của nhau, nhìn thấy ánh mắt của nhau, nhìn rõ bộ mặt thật của người bị gọi là súc sinh sau khi xé bỏ lớp ngụy trang.
Ngồi sát bên anh, tâm trạng Hứa Chức Hạ bỗng chốc quay lại thời khắc đó.
Tim hơi đập loạn nhịp.
“……Sao anh trai lại ở đây?” Hứa Chức Hạ ngước nhìn anh nhỏ giọng hỏi, tuy động tác cử chỉ hơi gượng gạo, nhưng không thể phủ nhận khi nhìn thấy anh, cô đã thực sự vui mừng.
Thân phận của anh giờ chẳng hề tự do, khó mà xuất hiện tùy ý được.
Kỷ Hoài Chu thản nhiên: “Không phải chính em muốn anh ở đây sao?”
Hứa Chức Hạ ngẩn người, mới chợt nhớ tới đêm đó trong điện thoại, cô đã nói mình ở trấn Đường Lý và nếu có anh ở đó thì tốt biết bao.
Suy nghĩ một chút, cô khẽ bật cười
Có lẽ vì nụ cười kia quá vừa ý lòng người, Kỷ Hoài Chu nhìn chằm chằm không rời mắt, Hứa Chức Hạ nhận ra ánh nhìn chăm chú ấy, vô thức ngồi thẳng người lại.
“Cháu làm anh trai mà cứ ngồi yên đó à?” Vừa bước lên, Tưởng Kinh Xuân đã hừ cười, nửa trách nửa nhắc: “Không mau giúp em gái xách hành lý lên.”
Tính cách tệ hại như Kỷ Hoài Chu, ở trước mặt Tưởng Kinh Xuân xem như cũng ngoan ngoãn. Anh từ từ đặt chân xuống, xách vali của cô gái đi về phía cầu thang.
“Em xin phép một chút, đàn anh.” Đàm cận mỉm cười khẽ gật đầu, Hứa Chức Hạ bước vội theo sau Kỷ Hoài Chu.
Hứa Chức Hạ bước theo sau anh, từng bậc một lên cầu thang xoắn gỗ cổ kính.
“Anh trai, lúc nãy em chỉ chợt nhớ tới lời của hiệu trưởng Tưởng thôi.” Hứa Chức Hạ ngoan ngoãn, muốn giải thích rõ.
Vừa bước lên bậc cuối, anh quay người lại.
Hứa Chức Hạ ngẩng gương mặt trắng mịn lên, giọng bẩm sinh dịu nhẹ: “——Cô Mỹ Linh thích cây ngô đồng, tôi sẽ cho trồng khắp Kim Lăng.”
Kỷ Hoài Chu nhìn nụ cười rạng rỡ của cô, trầm ngâm chốc lát rồi khẽ nhếch môi cười nhạt: “Em thấy anh, lại nhớ đến ông ấy?”
“Chuyện gì thế?” Hứa Chức Hạ chớp chớp mắt.
Kỷ Hoài Chu lười biếng rũ mắt xuống, giọng kéo dài mang theo châm chọc: “Ông ấy thấy sắc nổi tà tâm, không thể kiềm chế”
Hứa Chức Hạ chạm phải ánh mắt thẳng thắn mà tối tăm của anh.
Câu nói người anh trai tốt của em là một tên súc sinh muốn làm điều xằng bậy với em kia, không kìm được lại vang lên bên tai.
Họ đứng ở đầu cầu thang, phía trước là hành lang u tịch trong ánh hoàng hôn, phía dưới vọng lên tiếng trò chuyện rộn ràng nơi phòng khách.
Cảm giác xâm lấn đặc trưng đàn ông của anh, trong khung cảnh này bỗng càng thêm mạnh mẽ.
“……Anh trai không như thế sao?”
Kỷ Hoài Chu khẽ cười nhạt, hạ thấp giọng: “Em nghĩ sao?”
Tim Hứa Chức Hạ dần đập nhanh hơn, chưa kịp suy xét, chợt buột miệng hỏi: “Vậy tình cảm nam nữ của anh là thuộc về sinh lý, hay tâm lý?”