Tối hôm đó, Hứa Chức Hạ không đợi được anh mà đợi được quân y của phòng y tế Sở Cảnh sát.
Cũng vào đêm hôm đó, Kỷ Hoài Chu ôm hộp tro cốt của mẹ anh lên máy bay, tâm tĩnh như nước rời khỏi khu Cảng.
Lần rời đi này anh không hề nghĩ đến việc sẽ trở về.
Đến nửa đêm, chuyến bay hạ cánh an toàn tại thành phố Hàng Châu.
Chiếc xe riêng chạy đều đều trên đường cao tốc, đường lớn vắng tanh, máy radio đã tắt nên trong xe vô cùng tĩnh lặng.
Ở hàng ghế phía sau, bàn tay quấn băng gạc của Kỷ Hoài Chu đặt trên hộp tro cốt, anh nhắm mắt tựa lưng vào ghế lắng nghe tiếng gió vun vút lướt qua của những chiếc xe đang phóng nhanh bên ngoài cửa xe.
Chu Thanh Ngô ngồi ở ghế phụ lái đang nói những lời quan tâm của người lớn trong nhà dành cho con cháu.
Sao khi hỏi thăm xã giao đôi câu, Chu Thanh Ngô nhắc đến chuyện chính: “A Quyết, từ nay về sau hãy ở lại thành phố Hàng Châu đi, nhập hộ khẩu về nhà dì út luôn nhé.”
Kỷ Hoài Chu làm như không nghe thấy những lời hỏi han ân cần của Chu Thanh Ngô.
Mặc dù nói Chu Thanh Ngô là em gái ruột của mẹ anh, cũng là dì út có quan hệ huyết thống thực sự với anh, nhưng trên thực tế mối quan hệ dì cháu của họ cũng chẳng sâu sắc hơn người họ hàng xa Chu Tổ Sinh là bao.
Anh chỉ sinh ra ở Hàng Châu, sống ở đó vài năm khi còn nhỏ sau đó thì theo mẹ đến khu Cảng. Cho đến năm ngoái, anh và Chu Thanh Ngô cũng đã gần 10 năm không gặp nhau.
Lần này gặp lại chẳng qua cũng vì bệnh tình của mẹ anh.
“Sau khi chuyện này kết thúc, dì út sẽ về khu Cảng cùng cháu một chuyến để làm thủ tục ở trường học và cơ quan.” Chu Thanh Ngô lại nói.
Có lẽ trong mắt Chu Thanh Ngô, từ đầu đến cuối anh vẫn là người thân của bà ấy.
Nhưng trong mắt Kỷ Hoài Chu, điều này chẳng khác nào sự bố thí đối với một con mèo hoang lang thang.
“Giáo sư Chu.” Kỷ Hoài Chu gọi một cách xa lạ rồi vẫn không nhanh không chậm mở lời: “Đừng tuỳ tiện cho một con mèo hoang ăn”.
Anh nhắm mắt, giọng điệu có chút lạnh lùng xen lẫn phần lười biếng: “Thực ra nó rất tự tại, nếu dì cứ muốn cho nó ăn một bữa, mới thật sự khiến nó trông đáng thương đấy.”
Chu Thanh Ngô là giáo sư Tâm lý học tại một trường Cao đẳng ở Hàng Châu nên không khó để bà ấy hiểu được ý anh: “Mèo hoang cũng là mèo, nếu là con người thì ai lại nhẫn tâm nhìn nó phải lang thang cơ chứ.”
Kỷ Hoài Chu nhếch mép nở nụ cười mỉa mai, không tiếp lời.
“Đúng rồi, dì út đang cân nhắc về việc nhận nuôi một cô con gái”. Chu Thanh Ngô dừng ngang chủ đề trước đó, hỏi: “A Quyết, cháu có thích em gái không?”
Minh Đình đang lái xe, nghe thấy vậy thì nở nụ cười trên khuôn mặt điển trai: “Sắp có con gái rồi mà sao anh – người làm bố, lại không hề hay biết thế?”
Chu Thanh Ngô buồn cười liếc sang phía chồng mình: “Anh vội gì chứ? Còn chưa gặp được cô bé hợp duyên mà”.
Từng cơn đau âm ỉ muộn màng lan ra từ các khớp xương, Kỷ Hoài Chu từ từ mở mắt, trong bóng tối mờ ảo nhìn thấy bàn tay mình đang quấn băng gạc trắng toát.
Anh nắm chặt tay, cảm thấy các ngón tay không được linh hoạt lắm rồi lại thả lỏng ra.
Em gái….
Anh nhìn vết thương tự chuốc lấy ở bàn tay, thầm nghiền ngẫm hai chữ này trong lòng, cảm thấy sự hoang đường và mỉa mai như ngày thể hôm qua tái hiện lại.
Đã bắn anh một phát súng, chẳng lẽ còn muốn anh tự mình lắp viên đạn thứ hai vào băng đạn rỗng nữa sao.
Một cuộc gặp gỡ vốn dĩ nên kết thúc, thế nhưng gương mặt Hứa Chức Hạ lại vô cớ hiện lên trong đầu Kỷ Hoài Chu.
Cái bánh mochi nhỏ bị anh bỏ lại Sở Cảnh sát Yau Ma Tei đang bám vào cửa kính, ánh mắt đăm đăm nhìn về phía anh.
——Đừng tùy tiện cho một con mèo hoang ăn.
——Nếu bạn cứ muốn cho nó ăn một bữa thì mới thật sự khiến nó trông đáng thương.
Cho nó ăn một bữa rồi bỏ đi, có khi còn tàn nhẫn hơn.
Kỷ Hoài Chu lại rơi vào im lặng.
Mãi đến khoảnh khắc này, trong bóng đêm không một ai hay biết, ánh mắt của anh mới thật sự mang vài phần sâu sắc của một kẻ nhận ra đồng loại.
–
Cô nhi viện Thánh Gio-ro ở đường Bạc Phù Lâm là một trường học Giáo hội do người Anh thành lập từ thời kỳ Anh cai trị. Sau khi quốc gia khôi phục, thực hiện chủ quyền đối với khu Cảng, trường học đã ngừng hoạt động do thay đổi chính sách.
Khi đó, để tiếp nhận những đứa trẻ vô gia cư, chính phủ đã cải tạo nơi này thành cô nhi viện. Ngày nay, đây là một phúc lợi viện chuyên nhận nuôi trẻ nhỏ, đồng thời cung cấp dịch vụ giáo dục. Những đứa trẻ ở đây, có đứa là song phi*, có đứa là trẻ mồ côi và cũng có một phần là trẻ lai Anh được gửi nuôi.
(*Song phi: Đây là một thuật ngữ đặc trưng ở Hồng Kông/khu Cảng, chỉ những đứa trẻ sinh ra ở khu Cảng nhưng cả bố và mẹ đều không có quyền cư trú tại đó.)
Hứa Chức Hạ chính là đứa trẻ song phi bị bỏ rơi, được cô nhi viện đưa về từ viện phúc lợi Kinh Thị một năm trước.
Cô nhi viện Thánh Gio-ro vẫn còn lưu giữ phong cách kiến trúc phức tạp của một pháo đài kiểu Anh, mặt đứng xây bằng gạch đỏ, trong mỗi hốc tường giữa hai ô cửa sổ lồi đều sừng sững một pho tượng nhà hiền triết, cây thánh giá tượng trưng cho tình yêu cùng sự cứu rỗi được đặt trên đỉnh tháp tròn.
Sân trong được bao bọc bởi bốn bức tường thành phức hợp, có chiều sâu và chiều ngang đều rất rộng rãi. Gần khu phòng học có trồng một cây hoa anh đào Somei Yoshino.
Khi Hứa Chức Hạ được Chu Tổ Sinh đưa về cô nhi viện, tán cây của nó vẫn còn trơ trụi. Giờ đây, hai tháng trôi qua, cây đã bước vào thời kỳ tàn phai. Những cánh hoa màu hồng nhạt rơi xuống mỗi ngày tựa như tuyết trắng, phủ lên lớp vỏ cây nâu trơn bóng, hễ có gió lại có vài cánh bay vào ô cửa sổ phòng học.
Hôm nay nhiệt độ rất cao, cửa sổ phòng học đóng kín, máy lạnh bật hết công suất.
Bàn học được ghép từ hai chiếc bàn gỗ nguyên tấm cỡ lớn, các bạn nhỏ vây quanh bàn, ngồi thành một vòng tròn trên những chiếc ghế đẩu nhỏ.
Hứa Chức Hạ cũng mặc đồng phục của cô nhi viện, tất cao ngang bắp chân, quần short kẻ sọc kiểu Anh trên gối, áo polo tennis được sơ vin gọn gàng vào cạp quần.
Cô ngồi ở góc bàn học, xung quanh có tiếng thì thầm và cả tiếng cười đùa, những đứa trẻ khác đều xúm lại thì thầm to nhỏ, không một ai nói chuyện với cô.
Bởi vì cô là một bé câm.
Nhưng cô không phải thật sự bị câm, cô là đứa trẻ duy nhất đến từ nơi khác ở cô nhi viện. Mà thái độ chung ở khu Cảng lúc bấy giờ, thường không hề thân thiện đối với người nói tiếng phổ thông, đặc biệt là ở cô nhi viện, rất dễ trở thành đối tượng bị những đứa trẻ khác bắt nạt.
Vì điều đó nên Hứa Chức Hạ lại càng không dám mở miệng. Dần dà cô gần như sắp quên mất khả năng nói của mình.
Mỗi khi các bạn nhỏ cùng nhau chơi đùa, Hứa Chức Hạ luôn lặng lẽ cúi đầu ngồi lẻ loi một mình, khe khẽ bóp ngón tay, tự chơi một mình.
Hai tháng trước, tại Sở Cảnh sát Yau Ma Tei, Hứa Chức Hạ bị sốt cao hơn ba mươi chín độ. Sau khi truyền dịch hạ sốt, ngày hôm sau Chu Tổ Sinh đã đích thân đưa cô trở về cô nhi viện.
Trước khi đi, chị bác sĩ cảnh sát đã giúp cô hâm nóng chiếc bánh mì heo con còn sót lại trong túi thức ăn. Nhưng Hứa Chức Hạ không ăn mà chỉ ôm khư khư, cứ như thứ cô đang ôm là một bảo vật vô cùng quý giá.
Viện trưởng Lương rất kính nể Chu Tổ Sinh, vì Chu Tổ Sinh nên bà ta không trách mắng Hứa Chức Hạ như những lần trước. Sau khi Chu Tổ Sinh rời đi, bà ta mới liếc nhìn cô rồi quay số gọi điện thoại.
“Lúc đó bà còn cam đoan chắc nịch với tôi rằng con nhỏ bị câm là do tâm bệnh thôi, rồi sẽ mở miệng nói chuyện. Kết quả thì sao, ngốc nghếch chẳng biết khóc, cả ngày cứ như một con quỷ xui xẻo!”
“Cái này thôi thì đã đành, nhưng con nhỏ còn bị kích động cắn người nữa chứ, nó cắn chảy cả máu tay ông nhà tôi đấy!”
Giọng điệu chất vấn đầy giận dữ của người phụ nữ không ngừng truyền ra từ điện thoại.
Viện trưởng Lương chỉ có thể gượng cười, an ủi: “Bà Hoàng, thật sự xin lỗi bà……”
Dù không hiểu những lời bọn họ nói nhưng Hứa Chức Hạ vẫn biết bọn họ đang trách mắng mình. Cô nhận ra giọng nói trong điện thoại chính là người phụ nữ thứ ba đã nhận nuôi cô.
Giọng nói của người phụ nữ cũng quái gở và hung hãn giống tính cách bà ta. Hứa Chức Hạ cũng muốn nghe lời, nhưng cặp vợ chồng đó chỉ nói tiếng Quảng Đông, còn cô thì nghe không hiểu. Ban đầu, khi sự mới mẻ vẫn còn, người phụ nữ này còn giả vờ dịu dàng với cô, nhưng chẳng mấy chốc đã chán chường. Bà ta xé bỏ chiếc mặt nạ, lộ ra bộ mặt thật ghét bỏ và chán ghét.
Món đồ chơi mới đã chơi chán thì không muốn nữa, việc oán giận rồi đánh đập mắng chửi cũng không phải là chưa từng xảy ra.
Những câu đối thoại không đầu không đuôi cứ từng câu từng câu đổ vào tai, Hứa Chức Hạ nhìn chằm chằm vào đôi giày bẩn của mình, đứng yên tại chỗ không dám nhúc nhích. Túi thức ăn cô ôm trong lòng, vẫn còn ấm áp.
Tiếng động chạy đuổi nhau vang lên ngoài hành lang, Hứa Chức Hạ còn chưa kịp nhìn thấy người, một luồng gió đã lướt qua bên chân cô.
Quả bóng đá đập vào cánh cửa tạo ra một tiếng “Rầm” thật lớn.
Hứa Chức Hạ sợ hãi run lên bần bật, khi quả bóng bật lại và lăn qua chân cô, cô vẫn còn thấy kinh hồn bạt vía.
Sau đó, cô nhìn thấy cậu bé lai Anh lớn hơn cô hai tuổi đó.
Cậu ta cao hơn cô, to con hơn cô, đôi mắt thiên bẩm mang sắc tố khác lạ nhìn nghiêng, nơi khóe mắt hiện lên vẻ lạnh lùng âm u.
Hứa Chức Hạ bắt đầu run rẩy, nơm nớp lo sợ nhìn cậu ta tiến đến gần.
“Felix!”
Viện trưởng Lương bịt điện thoại lại, hạ giọng trách mắng cậu bé vì tội đá bóng trong ký túc xá, nhưng giọng điệu bà ta lại hoàn toàn không hề trách móc, chỉ có sự bất lực. Vừa dứt lời, bà ta lại quay đầu đi, tiếp tục tươi cười xoay xở với người trong điện thoại.
Felix cũng không quan tâm, nghênh ngang đi về phía phòng dành cho học sinh nam.
Hứa Chức Hạ co rúm lại bên tường, rụt đầu xuống, cậu ta càng đi gần cô càng cúi gằm thấp hơn. Khi cậu ta đi ngang qua, ánh sáng trước mặt cô bỗng vụt tắt, một vùng bóng tối bao phủ xuống.
Một bàn tay không hề báo trước vươn tới, giật lấy chiếc túi đồ ăn trong lòng cô.
Hứa Chức Hạ hoảng sợ vô thức ôm chặt túi đồ ăn nhưng cô không mạnh như Felix. Cô xoay nửa người cũng không giữ được, bị đẩy mạnh một cái, ngã “Phịch” xuống đất.
Chân cô còn bị cậu ta đạp cho một cú, đau đến mức cô chỉ còn biết thút thít, ngay cả tiếng đau cũng không thốt ra được.
Felix ôm quả bóng chạy vào phòng ngủ.
Hứa Chức Hạ nhìn thấy cậu ta ngồi xổm trên giường, cúi đầu cắn chiếc bánh mì heo con vừa giật được của cô, cắn từng miếng lớn, má phồng lên nhồm nhoàm nuốt chửng.
Viện trưởng Lương vẫn giữ điện thoại bên tai, chứng kiến cảnh này cũng chỉ đau đầu xoa xoa nơi thái dương, mặc kệ cậu ta. Rõ ràng bà ta luôn thiên vị Felix và đây là bí mật công khai ai cũng biết.
Hứa Chức Hạ là người cảm nhận rõ nhất điều đó, vì cô luôn bị Felix bắt nạt.
Cô đau lòng nhìn chiếc túi đồ ăn bị xé rách tả tơi trên mặt đất, buồn bã không thốt nên lời. Lúc ngã xuống cô chống tay quá mạnh khiến cổ tay đau nhói, nhưng cô không khóc, chỉ khi chiếc túi đồ ăn bị giật đi cô mới đỏ hoe mắt.
Cô đã ôm nó từ tối hôm qua tới tận bây giờ mà vẫn luôn không nỡ ăn.
Viện trưởng Lương sẽ không đến đỡ cô, Hứa Chức Hạ xoa bắp chân, phủi lòng bàn tay rồi lại tự mình vụng về đứng dậy.
“Tôi có số kiếm tiền, chứ không có số nuôi con nhỏ đó! Tôi biết trước mình không thể nhận nuôi con nhỏ đó được mà, cứ coi như số tôi xui xẻo đi!” Người phụ nữ trong điện thoại vẫn chưa ngừng hung hăng ép người: “Chẳng có gì để nói nữa, cái miệng bà chẳng có một lời nào thật hết!”
Đầu dây bên kia trực tiếp cúp máy, câu nói lấy lòng vừa định thốt ra của viện trưởng Lương đành nuốt ngược vào bụng, bà ta ngay lập tức không còn giả vờ nữa, lầm bầm chửi thề một tiếng khó nghe vào điện thoại.
Viện trưởng Lương liếc nhìn Hứa Chức Hạ, nói bằng giọng phổ thông pha Quảng Đông, trút giận lên cô: “Tôi đã phí hết công sức đưa cô ra ngoài, cô lại chẳng biết tranh thủ, còn gây thêm họa cho tôi! Đây đã là nhà thứ ba rồi đấy, nếu còn bị từ chối nhận nuôi nữa, đừng hòng có ai thèm cô nữa!”
Gót giày giẫm mạnh xuống sàn gạch, phát ra tiếng “Cộp” giận dữ.
Sau khi viện trưởng Lương rời đi, Hứa Chức Hạ lặng lẽ vào phòng dành cho nữ ở bên cạnh. Trong ký túc xá của cô nhi viện, những chiếc giường nhỏ xếp thành hàng, chật chội đến mức lối đi chỉ đủ cho một người di chuyển.
Hứa Chức Hạ cẩn thận ngồi vào chiếc giường nhỏ trong góc của mình.
Mây đen không biết từ lúc nào đã che khuất mặt trời, lại sắp mưa rồi.
Hứa Chức Hạ lúc 5 tuổi giống như bầu trời tối tăm bên ngoài kia.
Nhưng cô chưa bao giờ khóc.
Dù ở viện phúc lợi Kinh Thị hay cô nhi viện ở khu Cảng đi chăng nữa, cô cũng chưa từng rơi một giọt nước mắt, mỗi ngày đều rất ngoan, vô cùng ngoan ngoãn chờ đợi.
Cô luôn nghĩ rằng chỉ cần mình nghe lời thì một ngày nào đó mẹ sẽ đến đón cô.
–
Lúc ấy cô bị sốt đến mức mơ màng, sau này mỗi khi nhớ lại những chuyện xảy ra trong hai ngày lang thang ngoài đường, mọi thứ hệt như một giấc mộng giữa ban ngày. Tỉnh lại rồi, cô vẫn mắc kẹt trong chiếc lồng giam, mọi thứ đâu lại vào đấy.
Bây giờ, Hứa Chức Hạ ngồi trong căn phòng học lạnh lẽo này, hơi lạnh phả ra ào ạt, xương cốt cô cũng buốt giá đến tê dại.
Viện trưởng Lương với vẻ mặt nghiêm nghị xuất hiện ở cửa, trong lớp học bỗng chốc yên lặng, tất cả các bạn nhỏ đều sợ bà ta ngoại trừ Felix.
Người bảo mẫu bưng theo khay, đi theo viện trưởng Lương vào lớp, đặt đồ ăn nhẹ buổi chiều lên bàn học. Khay được đặt ngay trước mặt Hứa Chức Hạ, bên trong là những chai sữa tươi.
Đúng lúc này, viện trưởng Lương lại bị người trợ lý gọi ra ngoài, không biết nghe thấy điều gì mà bà ta bỗng nhiên bùng lên sự nhiệt tình đã lâu không thấy.
“Ôi chao, bà Chu đến rồi à! Tôi ra ngay, ra ngay đây!” Viện trưởng Lương lẩm bẩm trong miệng, nhanh chân bước về phía văn phòng với khuôn mặt tươi cười, rõ ràng đối phương là một nhân vật có tiếng tăm.
Viện trưởng Lương vừa đi, Felix đã giật lấy một chai sữa. Hành động của cậu ta như mở khóa cho những đứa trẻ khác, tất cả đều xúm lại, chen chúc nhau tranh giành lấy sữa.
Hứa Chức Hạ bị đứa bên trái đẩy, đứa bên phải chen rồi bị kẹp ở giữa đến mức suýt thì nghẹt thở. Chờ bọn họ giành giật xong xuôi, từng đứa từng đứa trở về chỗ ngồi, không khí xung quanh mới dần tan ra.
Tất cả mọi người đều đã lấy xong, quay về ngồi tại chỗ ngồi của mình uống.
Trong khay còn lại một chai cuối cùng.
Hứa Chức Hạ nhìn chằm chằm chai sữa ở ngay trước mắt, dừng lại vài giây, cuối cùng cũng giơ hai tay lên, chậm rãi vươn tới. Tay cô vừa chạm vào thân chai, cái chai đột ngột bị một lực mạnh lấy mất.
Chỉ trong chớp mắt, tay cô lại trống rỗng.
Felix vặn nắp chai sữa vừa giật được, ngửa cổ tu ừng ực hết sạch, trong khi đó chiếc chai rỗng của cậu ta đang lăn lóc trên mặt bàn.
Phản kháng là phải chuốc thêm đau khổ vô ích, Hứa Chức Hạ không dám, ngay cả biểu cảm chán nản cô cũng không dám lộ ra.
Trong không khí thoang thoảng mùi sữa tươi đậm đà, tất cả mọi người đều có sữa để uống. Hứa Chức Hạ lén lút nuốt nước bọt, im lặng không nói một lời ôm lấy chiếc khay nặng trịch, thân hình không vững bước đi, đặt nó lên bàn tái chế ngoài cửa.
Vừa trở về chỗ ngồi, Hứa Chức Hạ định ngồi xuống thì Felix đã sút bay chiếc ghế đẩu nhỏ của cô, khiến cô ngã phịch xuống đất.
Hứa Chức Hạ sợ hãi ngẩng đầu, chạm phải đôi mắt mang sắc tố khác lạ của Felix. Thấy khuôn mặt vốn luôn chết lặng của cô bị dọa đến tái mét, Felix đắc ý vì trò nghịch ngợm thành công, cậu ta nhếch môi cười đầy nham hiểm.
Những đứa trẻ trong cô nhi viện ít nhiều đều thiếu đi tâm lý khỏe mạnh, bọn họ khó có thể cười đùa lớn tiếng như những đứa trẻ bình thường. Nhìn thấy cảnh này, bọn họ cũng quen rồi, chỉ đứng nhìn bằng ánh mắt thờ ơ lạnh lùng.
Sống ở cô nhi viện lâu ngày, Hứa Chức Hạ dần hiểu ra, ánh mắt đó gọi là bài trừ dị loại.
Hứa Chức Hạ lại tự mình cứng nhắc bò dậy như lần trước.
May mắn đó là chiếc ghế đẩu thấp, cô không bị đau lắm, nhưng cô vẫn thấy hoảng sợ. Không dám ngồi nữa, cô rụt rè dựng ghế lại rồi một mình trốn vào góc phòng học đứng.
Cô chống hai cánh tay lên khung cửa sổ gạch đỏ, cằm tựa lên mu bàn tay, vẻ mặt buồn bã, ánh mắt mờ mịt.
Nỗi bất hạnh lớn nhất của con người không phải tuyệt vọng, mà là quen với tuyệt vọng.
Mà cô đã không còn biết khóc nữa.
Cửa sổ không cao lắm, gần ngang cằm cô. Với chiều cao của mình, cô vừa vặn có thể nhìn thấy cảnh vật bên ngoài được bao quanh bởi bức tường gạch đỏ.
Trời trong xanh, có gió, ở những nơi có bóng râm cánh hoa anh đào Yoshino đang bay lượn, thỉnh thoảng lại đậu xuống mặt kính cửa sổ rồi rơi xuống.
Bây giờ là mùa Xuân hay mùa Hè nhỉ, có lẽ đều không phải…
Hứa Chức Hạ thẫn thờ dựa cả người vào cửa sổ.
Trong khoảnh khắc cô đơn đó, cô nhìn thấy một đôi mắt.
Cậu thiếu niên đứng dưới gốc cây anh đào Yoshino kia, mặc áo khoác gió màu đen và quần dài thường ngày, không còn là bộ đồng phục màu xanh đậm nữa.
Anh vẫn giữ mái tóc đuôi sói, đeo chiếc khuyên tai kẹp.
Thân hình cao ráo gầy guộc nhưng cường tráng dựa hẳn vào thân cây, anh khoanh tay lại, lười biếng nhai kẹo cao su, có nhịp có dừng.
Tầm mắt anh đồng thời liếc ngang qua, hướng về phía cô.
Khi những cánh lá huy hoàng rơi rụng hết, mạch sống của sinh mệnh mới hiện ra rõ ràng—— Rất lâu sau này, mỗi khi Hứa Chức Hạ đọc được câu thơ này, cô đều nhớ về ngày hôm đó, về khoảnh khắc cô nhìn thấy anh.
Và cả ánh mắt khi anh nhìn về phía cô……
Một người bên trong, một người bên ngoài căn phòng, Hứa Chức Hạ đờ đẫn đối mặt cùng anh.
Anh lười biếng nâng một cánh tay lên, lòng bàn tay đeo chiếc đồng hồ cơ ngửa lên trên, vẫy nhẹ, ra hiệu cho cô bước ra.
Mặt kính cửa sổ đột nhiên phản chiếu ánh sáng thành từng vòng loá mắt.
Trong chớp mắt, Hứa Chức Hạ lầm tưởng trước mắt cô không phải là cửa sổ phòng học ở cô nhi viện, mà là cánh cửa kính ở Sở Cảnh sát nơi cô từng trơ mắt nhìn anh rời đi.
Dõi mắt trông chờ mỏi mòn, cuối cùng anh đã trở về, không bỏ cô lại một mình.
Xuyên qua hành lang chật hẹp, cô đẩy cửa ra, hơi nóng ấm áp ập vào mặt, nuốt trọn sự lạnh lẽo âm u bên trong tòa nhà. Đứng dưới ánh mặt trời, ánh nắng rực rỡ ùa đến, sự sáng ngời chiếm trọn tầm mắt.
Hứa Chức Hạ bước từng bước nhỏ thăm dò cẩn thận, mãi lâu sau mới chậm rãi đi đến trước mặt anh.
Chiều cao của cô chỉ gần chạm đến thắt lưng anh. Khi nhìn lên anh, cô phải ngước mặt rất cao, ánh mắt mơ hồ đến mức giống như một ngọn núi mùa Thu lá khô rụng hết, bỗng nhiên bị sương đêm bao phủ.
Sự xuất hiện của anh quá đỗi khó tin.
Kỷ Hoài Chu nghiêng đầu, rũ mắt đánh giá cô.
Cô không còn cái khí thế mặt dày mày dạn đòi đi theo anh như hai tháng trước nữa. Bước chân cô chậm chạp cứ như đang tiến gần đến một người xa lạ.
Quên anh rồi sao?
Nhưng đã ăn không hai cái bánh mì heo con của anh mà.
Dưới gốc cây ánh sáng và bóng tối đan xen, Kỷ Hoài Chu nhàn nhạt “Này” khẽ về phía cô, vẻ chán chường chẳng có gì làm, giọng điệu vẫn không hề ôn hòa.
“Còn muốn về nhà với tôi không?”
Khi nói câu này, anh không hề mang theo cảm xúc đặc biệt nào, thế nhưng câu nói lại thắp lên một ngọn lửa nhỏ trên ngọn núi mùa Thu của cô. Ánh sáng của ngọn lửa này đủ sức ôm trọn lấy cô.
Nhưng có lẽ vì trời đã tối quá lâu, Hứa Chức Hạ không dám tin là thật.
Kỷ Hoài Chu biết cô không phải là người câm, nhưng dù sao cũng rảnh rỗi. Anh dùng chân phải như có như không rung theo điệu, kiên nhẫn chờ cô lên tiếng, thế nhưng cô cứ đờ đẫn đứng đó, không hề hé răng.
“Gật đầu cũng không biết sao?” Kỷ Hoài Chu hối thúc một cách nhàn nhạt.
Hứa Chức Hạ đờ đẫn nhìn chằm chằm vào anh, không phản ứng.
Anh lại giơ tay ra hiệu bảo cô bước lại gần hơn, nhưng cô vẫn đứng im không nhúc nhích.
Lúc này Kỷ Hoài Chu chợt nhớ lại những đoạn ký ức ở Sở Cảnh sát, anh nhận ra điều gì đó. Anh khẽ rũ mi, nhếch môi cười nhạt: “Nghe bọn họ kể về bộ dạng của anh trai, nên sợ hãi không dám nữa sao?”
Anh tiến lên một bước, quỳ gối phải xuống trước mặt cô, chống khuỷu tay lên đầu gối: “Em sợ tôi à?”
Ánh sáng xuyên qua tán cây anh đào Yoshino chiếu xuống, tạo thành một vòng bóng mờ nhạt chiếu trên mí mắt anh. Anh cười cà lơ phất phơ, trưng ra vẻ mặt muốn ăn đòn.
“Anh trai đúng là loại người mà bọn họ đã kể đấy.”
Hứa Chức Hạ không hề chớp mắt nhìn anh, vết thương của anh đã lành, không còn để lại dấu vết gì. Dưới ánh sáng rực rỡ ở khoảng cách gần, Hứa Chức Hạ thấy rõ đồng tử của anh ánh lên một màu xanh lam tối.
Đôi mắt xanh đen làm cho nhãn cầu vốn trong trẻo lạnh lẽo như hạt thủy tinh của anh càng thêm phần xinh đẹp.
Rõ ràng anh đang cười nhưng cô lại cảm thấy có chút u ám.
Hứa Chức Hạ lại nghe thấy anh nói một cách không hề liên quan: “Đừng lo, lần này tôi đi rồi sẽ không quay lại nữa đâu.”
Anh đứng dậy quay lưng đi, cứ như là sắp rời khỏi đây. Lúc này, Hứa Chức Hạ mới chậm nửa nhịp thoát ra khỏi cảm giác không chân thật.
Hứa Chức Hạ nhẹ nhàng kéo tay anh.
Kỷ Hoài Chu quay lại, bắt gặp ánh mắt trong veo của cô.
Bàn tay của cô bé lạnh ngắt, mang theo sự mềm mại cứ như không có xương, cả hai tay đều nắm lấy ngón tay anh với một lực vừa muốn dựa dẫm lại vừa thận trọng.
Những lời lẽ hăm dọa trước đó của anh, dường như cô hoàn toàn không hề nghe lọt tai.
Trong khoảnh khắc ánh mắt giao nhau, Hứa Chức Hạ ngoan ngoãn gật đầu.
Ánh mặt trời chan hòa rọi xuống, chiếu rõ từng sợi tóc đen tuyền sạch sẽ của Kỷ Hoài Chu và cả lớp lông tơ mỏng trên vành tai hơi trong suốt của Hứa Chức Hạ dưới ánh sáng.
Xung quanh là những cánh hoa trắng hồng bay lả tả, dưới đất là hai bóng hình chắp vá đang nhìn nhau.
Nhận được lời hồi đáp chậm trễ của cô, vẻ mặt Kỷ Hoài Chu khó đoán. Một lúc sau anh quay mặt đi, cúi người nhặt ly đồ uống đặt trên chiếc ghế dài bên cạnh, đưa đến trước mặt Hứa Chức Hạ.
Đó chính là ly Chocolate nóng mà cô đã không được uống ở quán nước hôm nọ.
“Ngọt muốn chết.” Anh dùng thân ly còn hơi ấm gõ nhẹ vào trán Hứa Chức Hạ, không hề lộ vẻ gì: “Uống không, không uống thì vứt đi.”
Ly Chocolate nóng kia thơm hơn bất kỳ chai sữa nào trong phòng học.
Khoảnh khắc đó, Hứa Chức Hạ đã phân biệt được đâu là Xuân đâu là Hè. Gió nóng rực thổi qua, dường như tất cả ánh mặt trời trên thế gian đều đang tan chảy xung quanh cô.
Mẹ nói, nếu gặp được người tốt thì hãy theo người ta về nhà.
Cô muốn theo anh về nhà.