8.
Cả hai cùng ở lì trong hang đá suốt một đêm.
Hắn thì lo sửa chữa, thay thế những “lông vũ” bị gãy khi ngã; còn A Sửu thì rà soát từng ghi chép trên vách đá và lá cây, cố tìm ra điều gì mình đã sơ sót. Con chó hoang vẫn nằm lim dim ở cửa hang.
Đến tận khi trời sáng, hắn tỉnh giấc sau cơn mơ màng, phát hiện A Sửu vẫn ngồi trước vách đá, trong tay cầm một chiếc lá, viết lia lịa điều gì đó.
Đứa nhỏ này chắc đã thức suốt đêm. Hắn vẫn còn nửa chiếc bánh khô, đang định mang cho nàng bé thì ,
“Cháu biết rồi!” Nàng bé bỗng hét lên một tiếng, cả người gần như bật dậy.
“Hả? Biết cái gì rồi?” Hắn bị nàng làm giật mình.
“Cháu biết vì sao thúc lại rơi xuống rồi!” Đôi mắt nàng sáng rực vì phấn khích: “Cháu đã bỏ sót một chi tiết! Chỉ cần bổ sung chỗ đó, cánh của chúng ta thật sự sẽ bay được!”
“Bỏ sót chi tiết gì cơ?”
“Cháu đi tìm ngay đây! Phúc Tinh thúc ở lại giúp cháu sửa nốt phần còn lại nhé, đợi cháu quay lại, chúng ta có thể thử bay lần nữa!”
Nói rồi, nàng phóng vút ra khỏi hang như thể sắp bay đi thật. Không đợi hắn kịp lên tiếng, nàng lại ló đầu vào, cười hì hì: “Chỉ còn thiếu bước này thôi, lần sau thúc chắc chắn sẽ không lăn xuống dốc nữa. Đợi cháu nhé!”
“Biết rồi.” hắn đảo mắt, mông vẫn còn đau âm ỉ vì đã lăn vài vòng.
Con chó hoang cũng chạy theo nàng, chắc nó cũng sốt ruột muốn xem thêm một màn biểu diễn của loài người… Con chó này đúng là nhiều tâm tư. Thực ra hắn cũng có linh cảm, đôi cánh hoàn hảo và cuộc đời mới kia, chỉ còn cách một bước mà thôi.
Tâm trạng hắn chưa từng tốt đến vậy, vừa gọt nan tre vừa khe khẽ ngân nga.
Chờ mãi, từ sáng sớm đến trưa, từ trưa đến chiều, cho đến khi trời tối đen, mà A Sửu vẫn chưa quay lại. Nửa chiếc bánh từ lâu đã ăn hết, bụng sôi ùng ục.
Qua nửa đêm, hắn giật mình tỉnh giấc từ trong cơn thiếp ngủ, vẫn không thấy bóng dáng A Sửu đâu. Nàng đi đâu chơi vậy? Nàng vốn có thói quen hóng chuyện, nhưng dù có chuyện gì cũng đâu thể hóng suốt một ngày một đêm?
Hắn vươn vai, bước ra khỏi hang. Trời lúc này se lạnh, trăng sáng như bạc, con đường núi đen ngòm chẳng có lấy một dấu hiệu cho thấy có người đang quay lại.
Qua những bụi cỏ hoang rối rắm và cành cây chằng chịt, ánh đèn trong thành lập lòe như sao lấp lánh. Vài tiếng côn trùng kỳ lạ vang lên khiến hắn bỗng thấy lòng bồn chồn. Từ sau khi hắn bị giam, A Sửu chưa bao giờ rời xa hắn lâu đến thế. Nàng cũng chẳng nói đi đâu hay làm gì. Nếu trời tối mò về mà rơi xuống hố thì sao?
Trong đầu hắn đã bắt đầu dệt ra đủ loại tai nạn. Nghĩ càng nhiều lại càng bất an, hắn bèn lấy bó đuốc từ trong hang, chống gậy cẩn thận xuống núi. May mà từ hang xuống núi không xa lắm, đường cũng không khó đi, nếu không với cái thân thể phiền phức này của hắn, chắc lại phải lăn thêm vài vòng.
Cuối cùng cũng xuống được chân núi bình an, chỉ cần đi vòng qua hồ nước là có thể thấy con đường dẫn đến cổng thành. Mấy ngày nay, tuyến đường này hắn đã đi đến thuộc lòng.
Rừng cây bên hồ thưa thớt, chỉ cần xác định đúng hướng là đi qua được ngay, chỉ có điều phải cẩn thận không để cành cây móc vào quần áo hay vấp phải rễ cây. Nhất là với cây gậy, vĩnh viễn không tiện bằng chân. Bốn bề yên tĩnh, ngoài tiếng sóng nước lăn tăn thì không còn âm thanh nào khác. Tiếng nước ban đêm nghe có vẻ rất khác ban ngày, nghe lâu lại giống như có ai đang thút thít khóc, khẽ nức… nghẹn ngào…
Càng nghe, hắn càng thấy là lạ, giống như thật sự có ai đó đang khóc?
Nơi này hẻo lánh, hiếm có người qua lại, lại là giờ khắc u ám không ánh sáng, người bình thường chắc đã sợ đến mức bỏ chạy rồi. Nhưng hắn thì sợ gì chứ, dù đang ngồi tù, ông vẫn là một con Đế Hôi, lũ yêu tà quỷ quái nào có lọt nổi vào mắt hắn.
Hắn dừng chân lắng nghe, cuối cùng xác định được hướng phát ra tiếng khóc, bèn vội vã vạch cành cây chắn đường rồi bước tới. Rất nhanh sau đó, hắn đã tìm thấy vật phát ra tiếng khóc, là con chó hoang.
Nó nằm thoi thóp phía sau một thân cây gần bờ hồ, khóe miệng rỉ máu, trên bộ lông trắng bẩn thỉu có mấy dấu chân hằn rõ. Lòng hắn trĩu nặng, vội chạy tới xem xét thì phát hiện nó bị thương rất nặng, gần như chỉ còn thở thoi thóp.
“Sao lại ra nông nỗi này? Ai làm mày bị thương?” Lúc này hắn đã chẳng còn phân biệt nó là chó hay không nữa: “Mày không đi theo A Sửu sao? Con bé đâu rồi?”
Con chó hoang khẽ rên lên, lảo đảo đứng dậy, lộ ra món đồ nó giấu dưới bụng. Dưới ánh trăng yếu ớt, một vật nhỏ lấm máu khẽ lóe sáng.
Hắn nhặt lên xem kỹ, đây… chẳng phải là tấm lệnh bài mà cậu công tử họ Uông đeo bên hông đó sao? Vàng viền ngọc, hoa văn tinh xảo, mặt chính còn khắc rõ ràng một chữ “Uông”.
Nhưng sao thứ này lại xuất hiện ở đây?
Bịch! Con chó hoang ngã vật xuống đất, dù là trong giây phút cuối đời, cái đầu chó của nó vẫn cố chấp quay về phía mặt hồ.
Hắn đưa tay thử hơi thở của nó, trong lòng nghẹn lại, nhưng cảm giác đau lòng ấy rất nhanh đã bị một nỗi lo ngại, thậm chí là sợ hãi khác trùm lên.
Hắn bật dậy, đến gậy cũng không cần nữa, vừa lăn vừa bò lao ra mép hồ. Giữa tiếng tim đập dồn dập như trống trận, hắn trợn to mắt, lướt nhanh qua từng tấc mặt nước mà mình nhìn thấy.
Lớp mây mỏng che ánh trăng như hiểu ý mà lặng lẽ tan đi. Trong ánh sáng dần trở nên sáng sủa, một vật hoa hòe lòe loẹt nổi lềnh bềnh trên mặt nước không xa, chẳng phải là bộ áo hoa A Sửu vừa kiếm được dạo trước đó sao? Dù không vừa người, nàng vẫn tự tay sửa lại để mặc, thích đến nỗi không nỡ cởi ra. Hắn còn từng trêu nàng mặc cái áo này trông hệt như một con chim sẻ sặc sỡ lắm lời.
Hắn dụi mắt thật mạnh, cuối cùng cũng xác nhận được, đúng là bộ quần áo A Sửu đã mặc khi rời khỏi hang.
Cái thân thể này… có biết bơi không? Hắn còn chưa nghĩ xong, cả người đã không chút do dự mà nhảy thẳng vào hồ nước lạnh buốt.
Việc bơi qua bên đó vô cùng vất vả, nhất là trong tình trạng chỉ còn một nửa bàn chân. Nước hồ tràn vào miệng mang theo mùi bùn tanh khó chịu đến mức buồn nôn, nhưng hắn chẳng màng gì nữa, chỉ biết bơi, ra sức bơi, dẫu có chết đuối cũng phải bơi tới nơi.
Cuối cùng, khi bàn tay hắn chạm đến thân thể kia, chẳng biết đã trôi dạt trong hồ bao lâu, rồi cố sức lật người đó lại để nhìn rõ mặt, thì lần đầu tiên trong suốt tám trăm năm sống, hắn mới thực sự thấu hiểu thế nào là trời giáng sét đánh, là từng sợi lông tơ dựng đứng vì lạnh buốt, là nỗi tuyệt vọng khiến cả nhịp tim cũng ngừng lại.
A Sửu trong lòng hắn hai mắt nhắm nghiền, đôi tay yếu ớt bị làn nước đẩy tới đẩy lui. Ánh trăng rọi xuống gương mặt không còn sức sống ấy tựa như phủ lên một lớp sương trắng mãi chẳng thể xua tan.
Hắn phát điên, ôm chặt lấy nàng, liều mạng bơi về phía bờ. Chỉ mong nhanh hơn, lại nhanh hơn một chút, biết đâu vẫn còn kịp cứu lấy nàng.
Cuối cùng khi hắn lê được cái thân thể nặng nề như đổ chì của cả hai người lên đến bờ, hắn gắng hết sức mình, vốn đã rã rời đến gần như sụp đổ, làm theo phương pháp cấp cứu mà hắn từng thấy người khác áp dụng: ra sức ép bụng nàng, vỗ mạnh lên tim nàng, gọi to tên nàng.
Nhưng tất cả đều vô ích.
A Sửu chết rồi.
Ban ngày nàng còn cười hì hì nói với hắn đợi nàng về.
Hắn thở hổn hển, đờ đẫn ngồi xuống cạnh nàng.
Phía chân trời bắt đầu le lói ánh sáng. Mặt hồ dần rút đi vẻ âm u nặng nề chỉ có trong đêm tối, như thể chưa từng có chuyện gì xảy ra. Một ngày mới lại rạng rỡ bắt đầu.
“Chỉ còn một bước nữa thôi mà...” Hắn đột nhiên lẩm bẩm, rồi đấm mạnh một cú vào ngực mình.
Từ thể xác đến linh hồn, chưa bao giờ hắn thấy hối hận đến vậy. Cảm giác ấy như thể người không thể hoàn thành nguyện vọng là hắn chứ không phải nàng, nỗi đau không sao diễn tả bằng lời, tựa như vết máu rơi vào nước, từ một điểm loang ra thành mảng lớn, rồi tràn ngập thành biển cả mênh mông.
…
Trong hang, đôi cánh suýt nữa đã sửa xong nằm lặng lẽ trên giá gỗ, như thể đã biết trước mình vĩnh viễn chẳng thể được hoàn thành.
A Sửu nằm gần đó nhất, trên người đắp áo khoác của Phúc Tinh. Phúc Tinh nằm bên cạnh A Sửu, con chó hoang nằm bên cạnh Phúc Tinh. Mặt mũi ai nấy đều được lau sạch sẽ, an nhiên như đang chìm trong giấc ngủ say. Cửa hang bị một luồng lực không thuộc về con người phong chặt đến mức sấm sét hay thần hỏa cũng không tài nào phá nổi.
Và trong một buổi sáng tưởng chừng bình thường ấy, một tiều phu đi ngang qua núi hoang đã tận mắt chứng kiến một cảnh tượng kỳ dị nhất đời mình.
Ông hoảng hồn bỏ chạy, hồn vía từ trên mây lao thẳng xuống núi, ngay cả bó củi đã đốn cũng không dám quay lại lấy. Về đến nhà, ông kể lại những gì tận mắt nhìn thấy vào sáng sớm nay cho người thân, bạn bè, hàng xóm nghe, nhưng không ai tin cả. Chỉ có một thư sinh ưa ghi chép những chuyện ly kỳ nghe được, cảm thấy thú vị, bèn tiện tay ghi lại vào thủ bút của mình.
Nhiều năm sau, trong vô số sách chép chuyện kỳ dị lưu truyền khắp phố chợ, xuất hiện một dòng ghi chép không mấy nổi bật: “Tháng nọ năm nọ, ta vào núi hoang đốn củi, thấy một con rắn lớn chui ra khỏi hang, vảy đỏ giẫm lửa, tựa như rồng thần đi về phía tây.”
Nếu đã là Đế Hôi, vậy thì hãy đi làm những việc mà Đế Hôi nên làm.
Trước khi rời hang, hắn đã nghĩ như vậy.