Một người luôn âm trầm như Dương Hạo đột nhiên lại rầm rộ tổ chức hôn sự, chỉ có điều cái gọi là "luôn âm trầm" chỉ là cảm giác bằng lòng của hắn. Quan thân bách tính Khai Phong luôn cảm thấy rằng vị quan nhi làm việc gì cũng hấp tấp, rầm rộ, tuyệt đối không phải là kẻ âm trầm.
Dương Hạo lấy một vợ và nạp hai thiếp, nghi thức ba mĩ nhân quy phòng được đồng thời tổ chức. Vị thê này họ Đường tên Diễm Diễm, Dương Hạo sớm đã loan tin khắp nơi, người trong toàn thành đều biết vị Đường Diễm Diễm này là đại tiểu thư của Đường gia Tây Bắc. Còn một trong hai vị thiếp kia nguyên là đệ nhất hành thủ Biện Lương Ngô Oa Nhi, đây chỉ là bổ sung nghi thức, người bên cạnh sớm đã biết nàng ta đã được Dương Hạo nạp phòng rồi. Còn một vị thiếp khác lại là Lâm Âm Thiều, dò hỏi kĩ lưỡng mới biết đó chính là trạng nguyên Diệp bảng trong cuộc thi hoa khôi lần thứ nhất. Hồng hoa lục diệp đều ở bên cạnh, ai lại không ngưỡng mộ tán thưởng Dương Hạo có diễm phúc tề nhân chứ.
Trong hôn sự này của Dương Hạo, ngay cả một quan viên trong quan trường hắn cũng không mời, người tham gia hôn lễ duy chỉ có tứ đại bang chủ tào vận Biện Lương và các thuộc hạ. Hắn tổ chức một bữa tiệc rất khoa trương tại Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu. Điều hắn sợ chính là Đường gia ngăn cản hoặc Tấn vương gia quấy nhiễu từ bên trong. Nhưng rất lạ là Đường gia ngay cả một chút động tĩnh cũng không có, còn bên Tấn vương thì kì thực hoàn toàn không biết Đường gia muốn kết thân với mình, đương nhiên cũng không có cử động gì.
Dương Hạo rất cẩn thận, hắn vốn nghĩ hôn sự này không biết sẽ phải trải qua bao nhiêu sóng gió, không ngờ lại bình yên tổ chức thành. Diệu Diệu nhận được một tờ hôn thư, tuy chưa viên phòng, nhưng thân phận đã được xác lập, Diệu Diệu vô cùng vui mừng, nhưng nàng lại không biết Dương Hạo là có ý định khác.
Ngô Oa Nhi và Đường Diễm Diễm sớm đã cùng thương nghị ngầm với Dương Hạo, đợi khi hắn vừa đi thì hai người sẽ mang theo của cải âm thầm đi theo, đầu tiên là phải dàn xếp thỏa đáng, sau đó sẽ đi về Đường quốc hội họp với hắn, để ba người có thể "cùng chết". Còn về phía Diệu Diệu, nàng đã có tờ hôn thư này thì chính là thiếp thất theo pháp định của hắn, nếu như hắn xảy ra chuyện thì Diệu Diệu sẽ trở thành người thân duy nhất trên đời của Dương Hạo, sẽ có quyền thừa kế tất cả tài sản của hắn.
Dương Hạo sắp xếp thỏa đáng "hậu sự", buổi sáng ngày hôm sau liền lên kim điện chào từ biệt quân vương. Triệu quan gia ở trên điện bảo hắn có thể tùy cơ ứng biến, hành động chủ yếu của hắn trong chuyến đi này là đến Đường quốc thăm dò tình hình quân thần Đường triều, nắm vững địa lý Đường quốc để Tống quốc có thể chuẩn bị tốt cuộc thảo phạt Đường quốc, biến Đường quốc thành đất của Trung Nguyên.
Để cho hắn có thể thuận tiện hành sự, quan gia cho hắn tự lựa chọn người đi cùng, Triệu Khuông Dận còn phái thêm hồng lư tự Tiêu Hải Đào làm tuyên phủ phó sứ, rút một số lính trinh thám từ hoàng thành ti ra, ngoài ra còn điều động một đội quân hơn một trăm người từ cấm vệ quân làm nghi trượng cho hắn. Những cấm vệ quân này đều là những đại hán cao tám thước trở lên, thân hình vạm vỡ khôi ngô, võ thuật cao cường, do một vị chỉ huy sứ tên Trương Đồng Chu dẫn đầu.
Khi ra khỏi đại nội hoàng cung, Dương Hạo lại bị Trình Đức Huyền đang đứng đợi ở cửa cung kéo đến Nam nha. Dương Hạo trong lòng không yên ổn, vốn nghĩ Triệu Quang Nghĩa chịu đựng đến bây giờ mới ra tay, không ngờ khi gặp Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa lại đẩy vẻ tươi cười, không chút giận dữ, hoàn toàn không nhắc đến việc hắn thành thân, chỉ nói đến việc hắn phạt hành.
Dương Hạo không hiểu rõ chân tướng, nhưng thấy hắn thể hiện như vậy, thì cũng thấy yên lòng lại. Nếu như vị vương gia này giữ cái thái độ "quân tử báo thù mười năm chưa muộn", thì hắn cũng không sợ. Lầm này hắn đi giống như giao long vào biển, một khi đã ra biển thì sẽ không có ngày gặp lại, Triệu Quang Nghĩa có âm mưu quỷ kế gì thì đều không thể dùng được.
Theo như người bên cạnh thì lúc này lại nhìn ra Tấn vương lễ hiền hạ sĩ như thế nào, biết làm người như thế nào. Cho dù bây giờ Triệu Phổ đã đổ, trong triều Triệu Quang Nghĩa là độc đại, cái tên khâm sai Dương Hạo bây giờ cũng chỉ thuộc vào hàng nha nam nhàn rỗi, đối với Triệu Quang Nghĩa không có tác dụng gì nữa, nhưng Triệu Quang Nghĩa lại vẫn quan tâm thân thiết đến hắn, ngược lại hẳn với Ngụy vương. Dương Hạo đã từng làm phó sứ cùng với hắn đến Giang Nam tuần hành, vậy mà lúc này hắn lại hoàn toàn không có thể hiện gì, có phần giống như khúc gỗ.
Từ biệt Tấn vương, điểm lại cấm quân, mang theo mật thám mà hoàng thành ti sai đến, Dương Hạo và tuyên phủ phó sứ Tiêu Hải Đào hẹn Sử bộ thượng thư Đường quốc Từ Huyễn ở lễ binh viện, đang định cùng đến bến thuyền để rời đi thì đại hồng lư tự, kẻ luôn mang danh bạo bệnh Chương Đài Liễu chạy đến, ngồi cùng kiệu với hắn, trong kiệu nói mấy lời ân cần dạy dỗ.
Dương Hạo còn tưởng rằng vị đại hồng lư tự có chuyện gì cấp bách, nghe hắn nói một tràng mới biết hóa ra hắn toàn nói về việc phải chú ý khi làm sứ thần ngoại giao. Xuất sứ là đại biểu cho triều đình, nhất cử nhất động đều phải cẩn thận, đề phòng thất lễ, quá tự nhiên thì không được, còn nếu quá khiêm nhường thì cũng sẽ tổn hại quốc thể, đại loại là các việc như thế, việc nào Dương Hạo cũng gật gật đồng ý.
Chương Đài Liễu lại nói: "Tả khanh sứ, lần này đi phàm chuyện gì cũng phải tùy cơ ứng biến, cần cẩn thận. Có những lúc ngôn từ của ngài không có chỗ nào thất lễ, nhưng đối phương vẫn có thể gài bẫy làm cho ngài mất mặt. Nếu như không cẩn trọng sẽ giống như Đào thượng thư năm xưa, rơi vào vòng vây của người ta, rồi để cả thiên hạ chê cười."
Dương Hạo có chút ngạc nhiên, thượng thư đương triều họ Đào chỉ có một vị, chính là hàn lâm học sĩ thừa chỉ, hộ bộ thượng thư Đào Cốc, nhưng vị này đã từng đi sứ Đường quốc sao? Lại còn có chỗ thất lễ bị người khác chê cười nữa ư?
Dương Hạo vội vàng hỏi, Chương Đài Liễu liền nói: "Đào thượng thư khi ở tiền triều Thế Tông hoàng đế đã là hàn lâm học sĩ, nếu như ông ta không xảy ra chuyện xấu hổ thì sao bây giờ chỉ là một hộ bộ thượng thư hữu danh vô thực chứ? Đáng nhẽ ông ấy sớm đã phải là tể tướng rồi. Nguyên nhân chính là khi ông ấy làm hàn lâm học sĩ tiền triều đã từng xuất sứ Đường quốc, lại trúng phải kế của người ta, làm cho thân bại danh liệt."
Chương Đài Liễu tỉ mỉ kể lại chuyện, Dương Hạo mới hiểu được căn nguyên. Lúc đó Đường quốc vẫn là do phụ thân của Lý Dục Lý La làm hoàng đế, còn Triệu Khuông Dận lúc đó mới chỉ là một vị quan triều Chu, đồng điện xưng thần với vị đại học sĩ Đào Cốc này. Đào Cốc phụng mệnh Thế Tông hoàng đế xuất sứ Nam Đường, lúc đầu khi đến Đường quốc, không hề nói cười, đầy vẻ nghiêm trang, người người đều biết hắn là một quân tử đạo đức nên đối xử rất nghiêm túc kính cẩn với vị sứ thần Đại Chu này.
Lúc đó người phụ trách tiếp đón Đào Cốc chính là đại thần Đường quốc nổi tiếng "phóng đãng" Hàn Tái Hi. Hàn Tái Hi lại tỏ vẻ coi thường sứ giả bày, hắn đã giở trò với Đào Cốc. Đào Cốc sáng sớm nào cũng đi tản bộ trong dịch quán mà hắn ở. Có một hôm hắn đột nhiên phát hiện có một nữ nô tì mới đến. Nữ nô này tuy chỉ là một hạ nhân quét dọn trong viện, quần áo rách rưới, cả người là vẻ bần hàn, thoa cài tóc cũng là dùng một cành trúc nhỏ gọt mỏng đi, dáng vẻ cân đối, nhưng khuôn mặt dáng điệu lại vô cùng bất tục.
Đào Cốc rất kinh ngạc, cảm thấy một nhân vật như vậy không nên làm hạ nhân, liền dừng lại hỏi han vài câu với nàng, lúc này mới biết người thiếu phụ này họ Tần tên Nhược Lan, vốn cũng là thư hương môn đệ (người có học), vì chồng bị bệnh mà chết, không có chỗ nương nhờ nên mới phải vào dịch quán tìm một công việc tạm thời để qua ngày.
Trời còn thương xót cỏ cây huống hồ là con Giang Nam. Đào Cốc thấy một người xinh đẹp như vậy không khỏi có lòng thương tiếc, thường xuyên chăm sóc cho nàng. Qua lại nhiều lần, vị Đào đại nhân này đã nảy sinh tư tình với vị thiếu phụ xinh đẹp. Có một buổi tối, vị thiếu phụ này không rời khỏi dịch quán mà lại bước vào phòng ngủ của Đào Cốc.
Cái cảm giác lưu luyến bịn rịn thật là khó chịu, Đào Cốc biết làm vậy sẽ phải gánh hậu quả, nhưng lại không thể buông được.
Một đêm tình không đủ liền tình đêm đêm. Từ đó hai người cùng ở với nhau như phu thê. Khi tình nồng thắm, Đào Cốc đã đồng ý với lời thỉnh cầu của nàng, còn vì nàng mà viết một bài thơ để làm vật chứng cho tình yêu. Bài thơ đó viết: "Hảo nhân duyên, ác nhân duyên, nại hà thiên, chích đắc bưu đình nhất dạ miên. Biệt thần tiên, tỳ bà bát tẫn tương tư điều, tri âm thiểu, đãi đắc loan yêu tục đoạn huyền. Thị hà niên?"
Qua mấy ngày, chủ của Đường quốc, Lý La mở yến tiệc trong cung mời Đào Cốc. Lý La bảo mĩ nhân tiếp rượu, Đào đại học sĩ giả vờ gượng ép, làm ra vẻ chính nhân quân tử, miệng thì liên tục từ chối, làm cho Lý La rất mất hứng.
Hàn Tái Hi đứng bên cạnh cười lạnh một tiếng, vỗ tay ba cái, lạc khúc liền vang lên, một mĩ nhân xinh đẹp từ sau bức màn uyển chuyển bước ra, giọng thanh thoát cất tiếng hát: "Hảo nhân duyên, ác nhân duyên, nại hà thiên, chích đắc bưu đình nhất dạ miên. Biệt thần tiên, tỳ bà bát tẫn tương tư điều, tri âm thiểu, đãi đắc loan yêu tục đoạn huyền. Thị hà niên?"
Đào Cốc vừa nghe thấy mặt liền tái nhợt, ca từ này chính là lúc hắn tình nồng trên gối đã viết cho thiếu phụ góa bụa. Một lúc liền định thần nhìn lại, ca nữ xinh đẹp đó chẳng phải là người thiếu phụ đã đầu ấp tay gối mấy đêm trước với hắn – Tần Nhược Lan hay sao?
Hóa ra nàng ta hoàn toàn không phải là thiếu phụ ở góa, mà là một ca kĩ của phủ Hàn Tái Hi. Bài thơ tình mà sứ tiết Chu quốc xuất sứ thông gian với thiếu phụ ở góa lại được vang lên ở quốc yến, làm cho Đào Cốc xấu hổ không có đất để chui xuống. Từ lúc đó hắn không thể ngẩng mặt trước người Đường. Khi hắn về nước, người Đường chỉ phái mấy tiểu lại bưng một hũ rượu nhạt ra bờ sông tiễn hắn, thể hiện sự khinh thường cực độ đối với hắn.
Đào Cốc xấu hổ, nhẫn nại quay trở về Khai Phong, vốn tưởng rằng sự nhục nhã của mình đã kết thúc, ai ngờ đây mới chỉ là bắt đầu. Hắn cho rằng sẽ chỉ bị tiêu tan tiền tài, ai ngời tin tức đã nhanh chóng về tới Chu quốc, khi hắn trở về Khai Phong, hắn đã cảm nhận sâu sắc sự oán trách của mọi người với sự thiếu đạo đức của hắn.
Vì chuyện này mà Đào Cốc tuy tài học đầy mình, nhưng trên con đường thăng tiến luôn gặp phải trở ngại. Từ khi có bài học phản diện này, người Chu mỗi lần xuất sứ Đường quốc, quả thật ai cũng rất thanh liêm, tuyệt đối không nhận hối lộ, làm chuyện bậy, nữ sắc càng tuyệt đối không chạm tới, họ sợ sẽ dẫm lại vết xe đổ của người xưa. Bây giờ triều Chu đã trở thành triều Tống, tể tướng phóng đãng Hàn Tái Hi cũng đã bệnh chết hai, ba năm trước, nhưng quy củ này vẫn không thay đổi. Cho nên chỉ cần có người xuất sứ Đường quốc thì cái kẻ xui xẻo Đào Cốc này lại bị lôi ra, làm bài học nhắc nhở mọi người phải cẩn thận.
Lão già Chương Đài Liễu cảm thấy Dương Hạo là một kẻ khác lạ trong triều đình Đại Tống. Người ta thường nói: "nhất mệnh, nhị vận, tam phong thủy, tứ tích âm đức, ngũ đọc sách." Người ta vận khí tốt, tường thành cũng không ngăn nổi, còn mình, một kẻ đọc sách đã lớn tuổi như thế này mà lại không thể bì được với hắn, tên thuộc hạ này sớm muộn cũng sẽ trèo lên đầu mình. Cho nên hắn không từ gian khổ mà chạy tới ân cần dặn dò, vừa là vì quốc thể, vừa là để thể hiện sự thân tình.
Dương Hạo nghe hết câu chuyện thì kiệu cũng tới bến thuyền. Dương Hạo chắp tay chào tạm biệt đại hồng lư hồi phủ, hắn mỉm cười: "Dám chắc vị Chương Đài Liễu này cả đường đưa tiễn chính là vì nhắc nhở ta cẩn thận với viên đạn bọc đường của Đường quốc.
Ha ha ha, ta còn sợ người ta đến quyến rũ ta sao? Không có người đến cấu xé ta, ta còn phải chủ động gây họa thị phi ấy chứ. Lần này đi sứ Đường, ta đây là đi chết mà. Chương đại nhân, xin lỗi, Dương mỗ đã phụ lòng tốt của ngài rồi."
***
Trường Giang mấy nghìn dặm bắt nguồn từ Thanh Hải, chảy qua Tam Hiệp, bắt qua Giang Hán, thông với Ngô Việt, khí thế hừng hực, sóng xiết cuồn cuộn. Hạ du Trường Giang mênh mông sâu không thấy đáy, chỉ có hai bến đò, một là bến Thái Thạch, một là bến Qua Châu.
Giữa hai bến này lại có một Kim Lăng thiên cổ Nhất Giang Vũ Thành.
Kim Lăng lấy núi làm thành, lấy Trường Giang làm rãnh trời. Cái thế hiểm dựa sông núi làm cho một số người vừa nhìn đã dậy lên khí độ vương giả, coi đây là đất đóng đô. Nhưng những vương triều đã định đô ở đây người nào cũng đoản mệnh. Nghe nói đó là vì phong thủy của Kim Lăng quá tốt, sớm đã bị người ta phá hỏng.
Nghe nói thời chiến quốc, có một phương sĩ (chỉ những người cầu tiên học đạo) đã nhìn ra mảnh đất này vương khí cực thịnh, đã hiến kế giấu vàng để trấn vương khí, cho nên Sở Uy Vương lệnh cho người điêu khắc một người bằng vàng, giấu bên dưới cầu Bảo Tháp của Sư Tử Sơn trong thành Kim Lăng bây giờ, sau có còn xây một kim lăng để trấn vương khí, từ đó nơi đây có cái tên Kim Lăng này.
Khi Tần Thủy Hoàng tuần du Vân Mộng, phương sĩ trường sinh với đạo thuật cực cao của hắn một lần nữa đã nhìn ra nơi đây có vương khí rất mạnh, liền bẩm báo lại với Tần Thủy Hoàng. Sự quyết đoán của Tần Thủy Hoàng mạnh hơn nhiều Sở Uy Vương, cái gì mà chôn người bằng vàng, cái gì mà trấn vương khí? Tần Thủy Hoàng cười lạnh một tiếng, trực tiếp sai người cắt đứt long mạch của Phương Sơn, lại dẫn sông Hoài xuyên qua thành Kim Lăng để trôi hết vương khí.
Từ đây Phương Sơn bị cắt đứt, sông Hoài xuyên qua, tảng đá hổ cứ long môn đã bị mất đi khí bá vương. Dòng sông Hoài tĩnh lặng chảy qua hơn mười dặm.
Nhưng những quân chủ không tin vào điềm gở cũng có, hơn nữa địa giới Giang Đông quả thực cũng không tìm ra được nơi nào thích hợp hơn Kim Lăng để làm đô thành, cho nên Đường quốc vẫn dựng đô ở đây. Bây giờ đã truyền tới ba đời, đã đến tay Lý Dục. Lý Dục e ngại thế lực của Đại Tống, đã tự tước bỏ đi cái tên Nam Đường quốc, mà trở thành thần tử của Đại Tống, đổi tên thành Giang Nam quốc chủ, khí thế của vương giả này đã mất đi một nửa.
Tin tức Lý Tòng Thiện xuất sứ Tống quốc, lại bị giam lỏng ở Khai Phong đã được truyền về, Lý Dục hay tin liền vô cùng kinh hãi. Chưa đợi tuyên phủ khâm sai Tống quốc đến đã hạ lệnh gọi Triệu Khuông Dận là hoàng đế, hắn xưng quốc chủ, trung thư môn hạ đổi thành hữu tả nội sứ, thượng thi tỉnh thành ti hội phủ, ngự sử đài đổi thành ti hiến phủ, triều lâm viện đổi thành tu văn quán, khu mật viện đổi thành quang chính viện, hồng lư tự hạ thẳng xuống lễ tân viện, lập tức dỡ bỏ biển, đổi thành biển của nha môn theo chế độ mới.
Mấy đệ đệ đã phong vương cũng nhất loạt đổi thành công. Lý Tòng Thiện phong làm Sở quốc công, Lý Tòng Tỏa phong thành Giang quốc công, Lý Tòng Khiêm phong thành Ngạc quốc công. Khi con thuyền lớn mà Dương Hạo và Từ Huyễn đi dừng ở bến Qua Châu thì Lý Dục đang chỉ huy người bắc thang trèo lên phía trên của cung điện, dùng búa để đập hết những hình thiên nga, long phượng đi, cải chế thì phải cải chế triệt để.
Lý Dục đang bận rộn thì một nội thị luống cuống chạy tới, thì thầm to nhỏ mấy tiếng với hắn. Lý Dục nghe xong mày liền nhíu lên, chần chừ một lúc, đành thở dài một tiếng rồi phất áo bước ra khỏi Thanh Lương điện.
Vừa bước ra khỏi Thanh Lương điện thì có một mĩ nhân mặc y phục trong cung liền chạy tới trước mặt hắn, khóc lóc thảm thiết, quỳ xuống và liên tục nói: "Quan gia, quan gia, người nhất định phải cứu Trịnh vương nhé, bây giờ ngài ấy ở Tống quốc không biết sống chết như thế nào, thần thiếp vô cùng nóng ruột. Quan gia, ngài ấy là huynh đệ của người, quan gia nhất định phải cứu ngài ấy nhé."
Lý Dục lúng túng không biết phải làm thế nào, áo bào bị vị phu nhân đó giữ chặt, không thể dứt ra. Hắn đành phải cúi xuống đỡ phu nhân đó dậy, an ủi mấy câu: "Nàng mau đứng dậy đi, mau đứng dậy đi, làm như thế này chẳng ra thể thống gì cả. Trẫm đã ra quốc thư khẩn cầu với Tống đế, Tống đế chắc sẽ thả Tòng Thiện về nước, nàng không phải lo lắng đến thế đâu."
Vị phu nhân quỳ dưới đất này chính là vương phi của Trịnh vương Lý Tòng Thiện, nghe nói tướng công bị giam lỏng ở Tống, không được về triều, nên không khỏi lo lắng sốt ruột, vội vàng chạy đến cung để kiến giá. Vương phi của Trịnh vương nước mắt ngắn nước mắt dài, Lý Dục đỡ nàng dậy, lại nói: "Còn nữa, sau nhất định không được gọi trẫm là quan gia nữa, chỉ có thể gọi là quốc chủ thôi. Trịnh vương cũng không được gọi, gọi là Sở quốc công, nhớ đấy, nhớ đấy."
Trịnh vương phi gạt nước mắt nói: "Quan… quốc chủ, hoàng đế Tống quốc nếu đã giam cầm Trịnh… Sở quốc công thì sao có thể dễ dàng thả được. Là quốc chủ đã phái phu quân của thần thiếp đi, bây giờ ngài ấy không về được, thiếp chỉ có thể đến cầu khẩn quốc chủ thôi. Nếu như phu quân của thần thiếp có mệnh hệ gì thì thần thiếp cũng không thể sống nổi. Quốc chủ nhất định phải cứu tính mạng của ngài ấy."
Lý Dục mặt đỏ tía tai, dùng lời ngọt để trấn an: "Không cần lo lắng, ta nhất định sẽ nghĩ cách, nhất định sẽ nghĩ ra cách. Bây giờ sứ tiết Tống quốc sắp đến rồi, ta phải đi làm quốc lễ, bây giờ không tiện nói chuyện, có chuyện gì đẻ sau hẵng tính tiếp."
Trịnh vương phi nói: "Khiển sứ người Tống đến sao? Quốc chủ, chúng bất nhân thì ta bất nghĩa, hay quốc chủ cũng giam lỏng sứ tiết của chúng, bảo Tống triều lấy phu quân của thần thiếp để trao đổi."
Lý Dục dậm chân nói: "Đúng là nữ nhân thiển cận, nếu như vậy chẳng phải là chuẩn bị gặp nhau bằng đao kiếm hay sao?"
Thấy Trịnh vương phi ngẩn ra, Lý Dục lại thở dài một hơi, lẩm bẩm: "Còn cần phải giam lỏng hắn sao? Tuyên phủ… tuyên phủ, cũng biết Tống sứ này muốn tuyên phủ đến bao giờ mới được coi là tuyên phủ kết thúc để trở về nước. Ôn thần muốn tống mà cũng không tống didc, nàng lại còn muốn trẫm giữ hắn lại sao?"
Trịnh vương lúng túng nói: "Vậy… vậy phải làm như thế nào mới được?"
Lý Dục dung hòa lại vẻ mặt, nói: "Nàng cứ hồi phủ đi, đừng quá lo lắng, trẫm sẽ nghĩ ra cách. Tòng Thiện là huynh đệ máu mủ của trẫm, trẫm sao có thể không cứu nó?"
Sau khi dùng một loạt những lời ngon ngọt an ủi, khuyên nhủ Trịnh vương phi đang khóc lóc hồi phủ, Lý Dục đứng ở trước Thanh Lương điện, lẩm bẩm tự nói: "Triệu Khuông Dận phong Tòng Thiện là Thái Ninh tiết độ sứ, phong phủ đệ ở Lương Dương, chỉ ở lại kinh sư lĩnh bổng lộc, không cần phải lập chức. Lại phong mẫu thân của Tòng Thiện – Lăng thị làm đại phu nhân Ngô quốc, những người đồng hành với nó đều được ban thưởng gia phong. Đây chẳng phải là làm cho ta xem sao, muốn ta đầu hàng Đại Tống hắn.
Nhưng ta vốn là quân vương của một nước, bây giờ đã tự hạ mình làm vương, xưng thần với Tống, làm như vậy vẫn chưa đủ sao? Không biết Triệu Khuông Dận có cái mồm to đến mức nào nữa? Hắn cũng nên biết đủ chứ. Ừm… hắn nên biết đủ, bên ta vẫn còn mấy mươi đại tinh binh, vượt xa Thục Hán, Triệu Khuông Dận hắn cũng không thể không kiêng kị chút nào. Đợi khi sứ tiết Khiết Đan đến rồi, ta sẽ để cho hắn biết Đường quốc ta với Khiết Đan có quan hệ mật thiết, đến lúc đó Tống triều e sợ bị địch đánh hai mặt, tất sẽ thả cho Tòng Thiện trở về, nhất định sẽ là như thế!"
***
"Nương nương người xem, mặc Hồ phục tà ngắn cổ gập này vào, lại phối thêm những trang sức mà quan gia đã đích thân thiết kế, phải chăng có mùi vị khác?"
Hai mĩ nhân đứng trước gương, trong đó một người mặc Hồ phục tà ngắn, cổ áo lật được làm bằng lông hồ ly trắng, mắt ngọc mày ngà, đầy vẻ chói lóa, thần thái hiền dịu, giọng nói mượt mà, đó chính là Tiểu Chu hậu. Còn người kia mặc một bộ y phục màu xanh ngọc, có dáng vẻ phiêu diêu thoát tục, đôi mắt long lanh như sóng mùa thu.
Hai người đều có dáng vẻ vô cùng thon thả, cân đối. Tiểu Chu hậu vốn là một thiếu phụ nho nhã xinh đẹp, giờ lại mặc Hồ phục này vào lại có thêm vài phần anh tuấn, xem ra rất giống một cô nương mười bảy, mười tám chưa từng xuất giá.
Tiểu Chu hậu không khỏi tươi cười nói: "Quả nhiên Minh Nhi muội tử thật khéo tay. Kiểu cách y phục may rất đẹp, hơn nữa mặc vào lại vô cùng vừa vặn. Đợi quan gia hồi cung, sẽ làm cho ngài ấy ngạc nhiên. Nào, chúng ta đánh cờ đi."
Hai mĩ nhân cùng đi tới một bên, ngồi xuống bệ, bàn cờ đã được bày sẵn. Thiếu nữ mặc y phục màu ngọc bích vừa sắp cờ vừa nói: "Nghe nói quan gia đã đến xưng thần với Tống triều, đổi đế thành vương, sợ rằng cách gọi quan gia này từ giờ về sau cũng sẽ không thể xưng được nữa."
Tiểu Chu hậu cười không cho là thật, nói: "Minh Nhi nghĩ quá rồi, chẳng qua chỉ là đổi cách xưng hô thôi mà, Nam Đường ta vẫn là Nam Đường, có gì khác biệt chứ. Mà có đổi tên thì chúng ta xưng ở trong cung, Tống triều sao có thể biết được chứ?"
Minh Nhi thở dài một tiếng, lắc đầu không nói.
Tiểu Chu hậu nhíu mày lên, có chút kinh ngạc nhìn nàng ta, hỏi: "Minh Nhi, có chuyện gì vậy?"
Minh Nhi thở dài nói: "Minh Nhi chỉ là lo lắng, lo lắng Tống đế sẽ không chịu buông tha."
Tiểu Chu hậu ngạc nhiên nói: "Sao lại thế được? Phải biết rằng Đường quốc không những có Trường Giang tam hào yểm hộ, lại còn có mười mấy vạn dũng sĩ Giang Đông muốn đánh là có thể đánh ngay, chúng có thể làm được gì ta chứ? Đường quốc ta đã xưng thần với chúng, Trung Nguyên nhất đế, duy chỉ có hắn Triệu thị mà thôi, bá nghiệp đế vương đã vào tay hắn, hắn còn muốn gì nữa chứ?"
Minh Nhi muốn nói lại thôi, Tiểu Chu hậu thấy vậy liền nói: "Minh Nhi muội muội, chúng ta quen biết nhau tuy thời gian có ngắn nhưng hai bên đều rất tâm đầu ý hợp, ta xem muội như tỷ muội người thân, có lời gì muốn nói muội cứ nói thẳng ra, cho dù có chỗ nào không thỏa đáng thì bổn cung cũng sẽ không trách đâu." Nói rồi Tiểu Chu hậu xua xua tay, bảo mấy nội thị cung nhân lập tức lui ra khỏi điện. Nguồn tại http://TruyenGGG.Com
Minh Nhi này họ Mạc tên Dĩ Minh, Mạc Dĩ Minh Mạc cô nương là cháu gái xa của tiết độ sứ trấn hải Lâm Nhân Triệu, khi mệnh phụ quý nữ nhập cung làm Ngụy hoàng hậu, phu nhân Lâm Nhân Triệu đã đưa nàng ta tới đây. Cô nương này dáng vẻ yêu kiều, ăn nói lễ phép, rất được lòng Tiểu Chu hậu, qua lại nhiều hai người đã trở thành bằng hữu thân thiết trong chốn khuê phòng.
Mạc Dĩ Minh nhìn xung quanh, che mồm nhỏ tiếng nói: "nương nương ở trong thâm cung không biết chuyện trong thiên hạ. Nương nương có biết dã tâm của Triệu Khuông Dận vô cùng lớn, không những chí ở thiên hạ, mà hơn nữa lại là một kẻ vô cùng háo sắc không?"
Tiểu Chu hậu ngạc nhiên nói: "Không phải chứ? Bổn cung nghe nói phi tần của Triệu Khuông Dận rất ít, không phải là kẻ đam mê tửu sắc?"
Nói đến đây, nàng đột nhiên hừ nhẹ một tiếng, có chút không vui nói: "Phi tần của Triệu Khuông Dận so với hoàng đế Đường quốc ta còn ít hơn bảy, tám phần. Nếu hắn đã bị coi là háo sắc thì vị quan gia của chúng ta phải gọi là gì?"
Mạc cô nương bĩu môi ra, khinh thường nói: "Điều đó không có nghĩa là hắn không háo sắc. Chỉ là người này tầm mắt quá cao mà thôi. Người nói xem, nếu hắn không háo sắc tại sao lại có nhiều phi tần để chọn như thế mà lại nạp Hoa Nhị phu nhân Thục quốc nhập cung chứ? Người ta đã có chồng rồi, chồng lại từng là quân vương của một nước, lại đã đầu hàng Tống, là Tống thần. Làm gì có cái đạo lý quân đoạt thần thê chứ, nếu hắn không háo sắc sao có thể bất chấp lễ nghĩa như vậy?"
"Minh Nhi nghe ai nói vậy?"
"Minh Nhi ở trong dân gian, có thể nghe được rất nhiều tin tức mà nương nương không thể nghe thấy. Nghe nói Triệu Khuông Dận đã từng hạ quyết tâm, thứ nhất là bình định Trung Nguyên, có được tứ hải, hai là có thể chiếm được hai đại mĩ nhân trong thiên hạ, như thế sẽ không phụ cuộc đời này."
Nữ nhân đều có lòng thích cái đẹp. Tiểu Chu hậu luôn tự phụ với sắc đẹp của mình, vừa nghe thấy lời này lập tức nổi sự hiếu kì, hỏi: "Là hai vị mĩ nhân nào cơ?"
Minh Nhi nói: "Một là Hoa Nhị phu nhân của Thục quốc, người kia chính là nương nương người đấy."
Tiểu Chu hậu nghe xong kinh ngạc nói: "Sao lại có chuyện này được?"
"Ham muốn của nam nhân một là quyền, hai là sắc. Triệu Khuông Dận có dã tâm như vậy có gì là lạ chứ? Năm đó Tào Mạnh Đức nhất thế kiêu hùng không phải cũng đã có một sủng nguyện chính là "ta nguyện thứ nhất quét sạch tứ hải, để thành nghiệp đế; thứ hai nguyện đạt được nhị kiều Giang Đông, chết cũng không hối tiếc" hay sao?"
Tiểu Chu hậu trong lòng rối bời nói: "Tống đế lại là một con người như vậy sao?"
Minh Nhi thở dài nói: "Nếu không phải là như vậy thì tại sao Thục đế Mạnh Thác đang khỏe mạnh như vậy mà vừa đến Khai Phong, nhận gia phong Thái Sư kiên Trung Thư Lệnh Tần quốc công thì chỉ bảy ngày sau đã bị bạo bệnh một cách ly kỳ rồi chết? Tất cả âm mưu chính là vì Hoa Nhị phu nhân. Thục thái hậu rõ ràng biết con trai chết một cách kỳ lạ, nhưng không thể làm gì được. Bà ta vốn là người Bắc Hán, liền thỉnh cầu Triệu Khuông Dận cho trở về cố hương để mong thoát họa.
Một vị phu nhân già yếu còn có thể có uy nghiêm gì nữa, vậy mà Triệu Khuông Dận vẫn không thả bà ta đi, lại còn vờ vịt nói rằng đợi khi hắn diệt Bắc Hán xong sẽ đích thân đưa bà ta về cố hương. Thục thái hậu tự biết khó tránh khỏi kiếp nạn vì vậy mới tuyệt thực mà chết. Nếu không, người nghĩ mà xem, bà ta vốn muốn thỉnh cầu trở về cố hương, sao lại đột nhiên có ý muốn chết? Quan gia nếu như không sớm tính mưu thì… tha cho muội muội có lời bất kính, sợ rằng… sẽ có một ngày quan gia sẽ bước theo gót của Mạnh Thác."
"Bộp!" Quân cờ rơi xuống bàn cờ, Tiểu Chu hậu mặt biến sắc.
Minh Nhi mỉm cười, không nói nhiều lời nữa. Cơm phải ăn từng miếng một, thuốc phải uống từng ngụm một, đầu tiên là phải làm cho vị Tiểu Chu hậu này tâm trí rối loạn, rồi từ từ thông qua nàng ta để ảnh hưởng đến vị hoàng đế kém cỏi này.