Dương Hạo, Tiêu Hải Đào, hai vị tống sứ đến Thải Thạch Phàn theo lời mời của Hoàng Phủ. Chuyến đi này không phải theo yêu cầu của quan, nhưng vẫn có những người có trách nhiệm tháp tùng đi theo như Dạ Vũ và Đại Hồng Lư.
Vốn dĩ Hoàng Phủ Kế Huân muốn mời Dương Hạo đến vùng núi non du hý một phen, bởi lúc này khắp núi là rừng phong lá đỏ tựa như lửa Hỏa Diệm sơn, cảnh tượng đẹp mê hồn người, hơn nữa cũng gần thành Kim Lăng. Có điều, Dương Hạo nói: "Cảnh phương Bắc ta đã xem quá nhiều rồi, đã đến Giang Nam thì đi xem song núi, đó mới gọi là biết "phong cảnh Giang Nam"".
Muốn lấy lòng Dương Hạo, viên quan ưa nịnh hót của triều Tống Hoàng Phủ Kế Huân chiều theo nguyện vọng này. Thiết nghĩ, Yến Tử Phàn đã có quân đóng, như vậy hắn không thể bị dẫn thế trước về trọng địa quân sự, vì thế, Hoàng Phủ yên tâm du ngoạn một chuyến đến Thải Thạch Phàn.
Thải Thạch Phàn cũng là một cửa sông quan trọng, có điều nơi đây buôn bán tấp nập, so với vùng Kinh Hồ thì nơi đây người qua kẻ lại đông đúc hơn, không cấm du khách, bình thường cũng không có trú quân. Hơn nữa, nói về phong cảnh, thì Thải Thạch Phàn cũng nổi tiếng trong nước, địa thế hiểm yếu, nước chảy xiết nên có câu "Thiên cổ một tú", so với Yên Tử Phàn thì nơi đây còn đẹp hơn vài phần. Do có câu chuyện xưa về Lý Thái Bạch say rượu bắt nguyệt ở đây rồi bị chết đuối mà càng tăng thêm không khí thần bí, khiến người ta muốn đi tìm cái u phóng thắng địa.
Đoàn người đến gần Thải Thạch Phàn, xuống kiệu rảo bước, qua cầu Tỏa Khê, thấy từ mặt đất bằng phẳng có núi Ngưu Chử nhô lên, ngọn núi này đối mặt với Đại Giang hướng Tây Bắc, ba mặt có sông bao quanh, giống như một con ốc xanh lơ lửng trên mặt nước. Trong núi cây xanh rậm rì, thâm tú tươi tốt, vách núi đá phía tây nhô lên giữa hồ chính là Thải Thạch Phàn nổi tiếng. Chỗ Tây Bắc giáp chỗ lõm của sông, mọi người gọi là Tây Đại Oa, sườn núi phía Bắc gọi là Oa Ngưu Vĩ, địa thế hiểm trở, rừng cây phía Nam rậm rập, đình các kín đáo.
Trích Tiên Lâu được xây dựng để thờ Lý Bạch trên núi Ngư Chử, lên lầu mà nhìn về phía xa, trước mắt là dòng Trường Giang hùng vĩ, sau lưng là dãy núi liền nhau, vòng vây dày đặc, phong cảnh u nhã, khiến con người ta cảm thấy thật thoải mái.
Tiêu Hải Đào trông ra bốn phía, chỉ cảm thấy nơi đây dễ thủ khó công, một khi chiến tranh xảy ra mà đem quân đến đây, phá bến sông đi, thu nạp đội thuyền, nơi hiểm yếu này có thể đánh bại một vạn quân địch, liền không kìm nén được mà rằng: "Tuy nói rằng có bảo vệ Trường Giang ắt cũng có bảo vệ sông Hoài, nhưng con sông Trường Giang này quả thực là một nơi hiểm yếu, mặc dù Quan Gia ngồi cầm giữ đất Hoài Nam, điều binh khiển tướng, cung cấp quân nhu không thành vấn đề, nhưng có Trường Giang ở đây, muốn lấy nước Đường cũng không phải là chuyện nhỏ. Nếu như loại bỏ Giang Nam thì đã sớm thái bình rồi, nhưng phương Bắc có mãnh hổ, Tây Bắc tam đầu lang, Kinh Hồ Thục Việt tất cả đều mới, lòng dân không yên, một khi tổn hại quá lớn thì e rằng nước Tống ta sẽ trở thành mục tiêu khải du của người khác. Nơi này thiên nhiên hiểm yếu, cần phải bẩm báo cho Quan Gia để Quan Gia thận trọng trong quyết định mới được."
Tiêu Hải Đào lặng lẽ quan sát địa lý, Dương Hạo lại quấn lấy Hoàng Phủ Kế Huân và Dạ Vũ, niềm nở tiếp rượu, trò chuyện vui vẻ. Rượu quá tam tuần, Dương Hạo tỏ vẻ lơ đãng nói: "Giang Nam sơn thanh thủy tú, thủy thổ nơi đây sinh ra những nhân vật không tầm thường. Giống như Hoàng Phủ tướng quân vậy, một tướng quân trẻ tuổi khôi ngô giỏi giang, Dạ đại nhân cũng học vấn bác học đầy mình, thật đúng là đầu đường gặp thương buôn cũng mang ba phần nhã nhặn".
Hoàng Phủ Kế Huân vừa nghe vừa khiêm tốn đáp: "Tả sứ quá lời rồi, nếu nói về nam nhi anh hùng thì vẫn thuộc về hào kiệt Giang Bắc, dân chúng gan dạ lại anh võ bất phàm, nếu đấu vũ lực, phương Nam bọn tôi muôn vàn người cũng khó lòng kháng cự. May là ngã chủ anh minh, xưng thần cống nạp cho triều Tống để thiên hạ được hưởng thái bình, nếu không, một khi xảy ra chiến tranh, binh mã của Đường quốc ta…"
Dương Hạo vừa nghe vị tướng quân này nói vừa muốn tung ra "Luận ba ngày mất nước của hắn", mặc dù mình là Tống thần, nhưng nghe cũng thấy khó chịu, chỉ cảm thấy tên này quả thực là một kẻ vô sỉ cực độ. Dạ Vũ đứng một bên cũng cảm thấy ngại ngùng, bèn cắt ngang câu nói của Hoàng Phủ Kế Huân, cười ha ha mà rằng: "Nếu nói nam nhi thì sao, nam nhi Giang Bắc dù không thua Giang Nam, nhưng nói đến mỹ nhân, thì phải kể tới mỹ nhân Giang Nam nước ta rồi. Mỹ nữ Giang Nam mềm mại như suối chảy, các cô gái phương Bắc hào sảng phóng khoáng, tính tình cởi mở, còn nói đến nhu mì mềm mại thì con gái Giang Nam có vài phần nữ tính ý vị hơn."
"Ách… người bên cạnh không nói gì, khi Dương Mỗ đến quốc vương tham gia yến tiệc, cung nữ tỳ thị, vũ nữ ca kỹ...ai cũng đều hết sức yểu điệu, vóc người mềm mại. So với con gái Giang Bắc thì những người phụ nữ như vậy có thể hiếm thấy. Những người phụ nữ đó tuy chỉ là vũ nữ nô tỳ mà cũng đã đẹp nhường ấy, con gái Giang Nam ắt hẳn cũng xinh đẹp phong tình. Bởi vậy, Dương Mỗ không thể tránh khỏi suy nghĩ, nếu như trong cung tuyển mỹ nữ, một vạn người chọn lấy một thì nên chọn thế nào đây? Quốc vương ngồi chiếm giữ Giang Nam, trong cung mỹ nữ giai nhân ắt đã phải kín chỗ rồi chăng?"
Hoàng Phủ Kế Huân nghe nói đến chuyện mỹ nữ thì mặt mày hớn hở, cười hì hì đáp: "Những lời này của tả sứ quả không phải là giả, con gái Giang Nam chúng tôi nhu mì như nước mùa xuân, quả đúng là có ý vị rất đặc biệt. Có điều, Quốc vương chỉ sủng ái một người duy nhất là Hoàng Hậu, mấy năm nay đã không nạp thêm phi tần, hi hi, không giấu các vị, Quốc vươngchúng tôi rất yêu nương nương, kể cả nương nương có độ lượng thì Quốc vương cũng sợ bà bực mình mà không dám tuyển thêm thiếp. Quốc vương xưa nay qua đêm với các cung nữ được tuyển vào cung thường bất binh, nhưng cũng không từng sắc phong qua. Nói ra, những cung nữ xinh đẹp này nếu như ai may mắn mang thai cốt nhục của Hoàng thượng thì dẫu Quốc vương không nói, nương nương cũng sẽ sắc phong cho người đó. Chỉ đáng tiếc là, những người may mắn được qua đêm cùng hoàng thượng lại chưa ai có được diễm phúc đó."
Nói đến đây, hắn quay sang Dương Hạo nháy mắt cười nói: "Dương sứ lần này đến Giang Nam, cảnh vật con người cũng đã xem không ít, nhưng vẫn chưa được nếm thử mùi vị mềm mại của mỹ nữ Giang Nam chúng tôi thì phải, hihi, nếu như có thể đêm nay sau khi về Kim Lăng hãy để tại hạ sắp xếp? Đãi đại nhân mà được thưởng thức hương vị này một lần ắt hẳn sẽ suốt đời không quên…"
"Khụ, khụ!" Hồng Lư tự khanh Dạ Vũ ngồi bên nghe thấy vậy liền vội vàng ngồi lại cho ngay ngắn và ho khan hai tiếng.
Hoàng Phủ Kế Huân liếc hắn một cái, cười mắng: "Đàn ông mà, nói chuyện gió trăng vốn là lẽ đương nhiên, cổ họng Dạ đại nhân thấy ngứa sao, ông chả phải giả vờ ngay thẳng, lầu xanh Họa Toàn chả đã quen nhẵn mặt ông? Tôi nghe nói, mới tháng trước thôi ông đã lấy thêm một thiếp, là một cô gái rất đẹp, năm nay mới chỉ 30, không phải là tuổi mụ chứ? Chà chà, quả là trâu già thích gặm cỏ non, bây giờ lại giả vờ như một người ngay thẳng…."
Dạ Vũ bị hắn bóc mẽ trước mặt Dương Hạo, nhất thời không nói được gì mà chỉ đỏ mặt, nhưng hắn không thể đắc tội với Dương Hạo, Hoàng Phủ Kế Huân và tâm phúc của hoàng đế hắn cũng không thể đắc tội, đành cười khô hai tiếng, suy nghĩ miên man sang chuyện khác, nhất thời không tìm được câu nào để nói cho hợp đề tài.
Dương Hạo tiếp lời cười nói: "Đúng vậy, nơi này phong cảnh hữu tình, Dạ đại nhân có chi phải xấu hổ, nói ra, Dạ đại nhân cũng không thể coi là già, ở quê tôi, có một lão phu tử tên là Tra Ngữ Minh, năm nay hơn 80 mà vẫn cưới một cô gái mới 18 tuổi làm thiếp, có người từng trêu chọc thì hắn nói "Tân nương 18 tân lang 80, kẻ đầu bạc đi với người hồng trang, uyên ương bị lý thành song dạ, nhất thụ lê hoa áp hải đường" "
Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: "Tuyệt, tuyệt, "nhất thụ lê hoa áp hải đường", lối so sánh này thật tuyệt, dùng chữ "áp" lại càng hay, chỉ có điều vị tiên sinh họ Tra này tuổi cao quá, sợ rằng có muốn "áp" cũng không nổi nữa rồi, hahaha…"
Tiêu Hải Đào và Dạ Vũ nghe nói không nhịn nổi cười, mắt Dương Hạo cũng lấp lánh sáng, nhân cơ hội đó liền nói: "Đúng vậy, lão phu tử trong thôn có diễm phúc như thế thật khiến người ta ngưỡng mộ. Đúng rồi, Hoàng Phủ tướng quân nói rằng Quốc vương mấy năm gần đây không nạp phi tần phải không? Thật kỳ lạ, khi bản quan đến dự yến tiệc cũng đã gặp không ít cung tần mỹ nữ, nhưng họ không để tóc giống như phụ nữ đã có chồng, còn về cách trang điểm cũng không giống thị nữ trong cung, điều này quả có chút kỳ lạ".
Dạ vũ bị lấy ra so sánh với lão Tra 80 đã có phần xấu hổ, nghe nói vậy liền tiếp lời: "Tả sứ đại nhân, điều đó cũng không có gì là kỳ lạ, các thiên kim đều phải vào cung yết kiến nương nương một lần, như tả sứ đã thấy, đều là người nhà của các vị đại thần cả".
Hắn khom lưng chắp tay khen: "Quốc vương và nương nương nước tôi thường ngày gần gũi với mọi người, cùng vui cái vui của bách tính, còn thường xuyên xuất cung du ngoạn, lên chùa dâng hương lễ Phật, các chư vị mệnh phụ, thiên kim của triều thần càng thường xuyên được tiếp kiến để tặng lễ vật. Đúng rồi, cháu gái của Lâm Nhân Triệu đại tướng quân Mạc Thu Nương cũng chính là được nương nương để mắt đến trong lần đi tháp tùng Lâm phu nhân vào cung, hiện là tâm phúc của nương nương, tình cảm như chị em vậy".
"Cháu gái của Lâm Hổ Tử?"
Dương Hạo không khỏi giật mình, Lâm Hổ Tử? Oa Oa đã từng nói rằng Tử Du đã từng đàm luận với Lâm Hổ Tử, muốn mượn quân Đường để thừa cơ nội bộ quân Tống trống rỗng chưa kịp xuất binh để đánh úp, nhưng kế hoạch đó đã bị Lý Dục cản được. Cô nương mình đã gặp ở trong cung trông hao hao giống Tử Du, không lẽ…
Một ý nghĩ táo bạo đột nhiên xuất hiện trong đầu Dương Hạo: Nếu như Tử Du không từ bỏ ý định, sau khi nguy cơ Khai Phong cạn lương thực bị phá sản nàng không chịu quay về Tây Bắc mà lại đến Giang Nam, thì…, cô nương ta từng gặp trong cung có dáng dấp 9 phần giống với Tử Du, e rằng đó đúng là Tử Du, nếu như quả thật là nàng, thì nàng đến nước Đường, trà trộn trong cung nhà Đường với mục đích gì?
Nghĩ như vậy, Dương Hạo thấy như ngồi trên đống lửa, mưu đồ của Tử Du thật to lớn, nàng muốn bằng mọi giá phải thay đổi số mệnh. Ở Khai Phong, nàng bất động thanh sắc mà mang tới cho triều Tống một trận đại họa cơ hồ rung chuyển cả xã tắc, có trời mới biết nàng đến Giang Nam với mục đích gì, ngộ nhỡ gặp phải tai họa gì thì liệu nàng có bị nguy hiểm đến tính mạng? Những chuyện đại sự liên quan đến quân quốc, một khi sự tình đổ bể thì cũng không thương tiếc đến phận nữ nhi.
Trong ấn tượng của hắn, thì Tống quốc diệt Đường đại khái là chuyện của hai năm về trước, khi có chiến tranh, kể cả một con cá vô tội cũng không tránh khỏi bị tai ương, huống hồ Tử Du trà trộn làm việc trong cung đình, cũng tuyệt đối không phải là một con cá vô tội, mà là một con yêu tinh làm mưa làm gió.
Dương Hạo chỉ hận một nỗi là không thể bay ngay về thành Kim Lăng, xem Mạc cô nương rốt cuộc có phải là Chiết Tử Du hay không, nhưng ngoài mặt vẫn phải giả vờ không có gì, chỉ trầm ngâm nói: "Mạc cô nương? À…, ta đã gặp cô nương xinh đẹp ấy rồi, khi đó cô ấy chỉ mới vào cung, không làm bạn với các mệnh phụ khác, nghĩ ra chính là Mạc cô nương mà Dạ đại nhân nhắc đến".
"Vậy đích là cô nương ấy rồi". Hoàng Phủ Kế Huân có chút thèm thuồng nói: "Mạc cô nương đích thị là xinh đẹp phi phàm, chẳng trách Dương sứ mới gặp đã khó quên, hihi, không giấu tả sứ đại nhân, cô cháu gái của Lâm Nhân Triệu cũng mới đến Kim Lăng trước đó không lâu, khi tại hạ lần đầu gặp gỡ cũng bị vẻ đẹp của nàng khiến cho động lòng".
Hắn tiếc hận mà lắc lắc chiếc dĩa, than thở: "Với thân hình diện mạo đẹp như nàng, vốn cũng xứng đôi với bổn tướng quân, chỉ có điều… tại hạ với cậu của nàng không hợp nhau, nếu không thì…quả thật muốn đem người tới cầu thân".
Dương Hạo nghe nói Mạc cô nương chỉ mới xuất hiện ở Kim Lăng không lâu, trong lòng nghi ngờ rất nhiều, rất muốn ngay lập tức đi kiểm tra thân phận của nàng, nhưng đi du ngoạn Thải Thạch Phàn là chủ kiến của hắn, hắn không thể ngay lập tức đòi về, liền nói: "Dương Mỗ tửu lượng có hạn, không thể uống tiếp được, đêm nay chỉ e không thể ở lại Trích Tiên Lâu này được, hà hà, hai vị đại nhân, chi bằng chúng ta nhân hứng này lại du ngoạn Phàn Thượng một phen, sau khi trở về uống một ấm trà rồi quay lại Kim Lăng thành đi thôi".
Hoàng Phủ Kế Huân cười ha hả nói: "Tả sứ đại nhân quả thật là nhanh quá, mới nghe nói đến mỹ nhân Giang Nam đã không thể ngồi yên được rồi".
Dương Hạo cảm thấy buồn cười, thuận miệng nói: "Cái này, vẻ đẹp của sơn thủy đương nhiên khiến người lưu luyến, vẻ đẹp của con người càng khiến hồn xiêu phách lạc, ông và ta chẳng lẽ không phải là người cùng một đạo sao?"
Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: "Đúng, đúng, hơn nữa… trên người mỹ nhân cũng có sơn thủy, còn đẹp hơn gấp 10 lần sơn thủy của Thải Thạch Phàn này, khiến người ta say mê quên trời đất, haha…"
Hắn cười to đứng dậy, một tay kéo Dạ Vũ, cười nói: "Đi thôi, còn ngồi giả vờ làm gì nữa, chúng ta cùng Dương tả sứ đi thăm sơn thủy, rồi về Kim Lăng thưởng thức sơn thủy mỹ nhân"
" Ôi, cái này…, Hoàng Phủ tướng quân… lão phu…"
Dạ Vũ làm mặt khó, bị Hoàng Phủ Kế Huân lôi kéo đứng dậy: "Cố mà làm", rồi đi cùng bọn họ đi thăm phong cảnh Trích Tiên lâu.
Đi dọc theo mép sông, nước sông cuồn cuộn sóng, Dương Hạo cùng đoàn người đi qua "Hành Ngâm kiều", tới "Nghiễm tế tự" được xây dựng vào thời Đông Ngô du ngoạn một phen, dâng hương, rồi bốn người tới "Nga Mi đình" uống trà.
"Nga Mi đình" nằm ở vị trí hiểm mà sâu, cao và nhìn ra xa được, cảnh tượng hết sức tú lệ. Phía trước bên tay trái đình gần sông, vốn là một khối đá bằng phẳng được gọi là Liên Bích Bàn, khối đá nằm cheo leo trên vách, hướng ra ngoài sông, địa hình hiểm trở khó thấy. Theo truyền thuyết, Lý Bạch đã từng ở đây bắt nguyệt mà qua đời.
Dương Hạo đợi đám người ngồi nghỉ ngơi trong đình rồi một mình đi men theo mép đình, chuẩn bị rời Thải Thạch Phàn, đi được một lúc chợt thấy có một tăng nhân đi đến, vị tăng nhân đó thở hổn hển và dừng chân nghỉ tạm, trông thấy Dương Hạo một mình đi tới, phía trước có vài tên binh sĩ đang đuổi người dẹp đường, người bên đường đều dạt sang đi men trên vệ đường sườn núi trơn tuột. Vị tăng nhân mang theo nước, đi một đôi giày rách đứng trên cỏ nơi có những hòn đá vỡ, đi lại có phần khó khăn, Dương Hạo nhìn thấy liền nói: " Đường này mọi người đều có thể đi, đừng để mọi người bị quấy nhiễu vì bọn ta".
Đám binh sĩ đang diễu võ dương oai hò hét, không nghe thấy lời của Dương Hạo, Hoàng Phủ Kế Huân lập tức kêu lên: "Không nghe thấy lời của tả sứ dặn dò hay sao, không được đuổi bọn họ đi, đường nhỏ thì tránh, chúng ta hoàn toàn có thể đi lại được".
Vị tăng nhân áo rách đang định tránh đường, nghe thấy vậy liền dừng bước, mắt nhìn bọn họ, khi Dương Hạo đi đến bên ông ta, vị tăng nhân này đột nhiên chắp tay mỉm cười nói: " Bần tăng nghe mọi người gọi đại tướng quân là tả sứ, nhưng không biết vị tả sứ này là chức ti trong nha môn nào?"
Dương Hạo nhìn dò xét ông ta, vị tăng nhân này chỉ khoảng 35, 36 tuổi, mặt gầy mà đen, nhưng hai mắt lại có thần, liền nghỉ chân cười nói: "Hòa thượng xuất gia mà vẫn quan tâm đến chức quan của ta sao?"
Vị tăng nhân đó cười nói: "Bần tăng có biết 1, 2 quan chế của chế độ triều đình, nhưng chức quan tả sứ này thì bần tăng lần đầu nghe qua, cảm thấy có chút hiếu kỳ".
Dạ Vũ đứng bên nói: "Vị này chính là Tống quốc Hồng lư tự tả khanh Dương Hạo đại nhân, khâm thừa lệnh vua mang chức tả sứ, vị hòa thượng này là tăng nhân của Nghiễm Tế Tự sao? Trong chùa không phải có giếng sao, tại sao lại phải mang theo nước?"
"À, hóa ra là quan nhân nước Tống, thảo nào!"
Vị tăng nhân đó nhìn Dương Hạo, vừa mỉm cười và vừa chắp tay nói với Dạ Vũ: "Bần tăng vốn là một gã tú tài, thi nhiều lần không đỗ, buồn chán nên mới cạo đầu đi tu, nhưng không phải là ở Nghiễm Tế Tự, trung tăng lữ, không thể ngồi lại chùa, chỉ có thể ở trên núi, nước cũng phải tự mình xuống núi mà lấy".
Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: "Hóa ra là một hòa thượng tự do, miếu chưa có, vậy ngươi cũng không có pháp hiệu rồi, ngươi vừa không ngồi sư, lại không có cao tăng cho ngươi quy y, vậy cũng chỉ xem như bỏ đi khỏi nhà?"
Vị tăng nhân đó lại liếc nhìn Dương Hạo, mỉm cười nói: "Người xuất gia tu hành chính là có Phật trong tâm, có hay không cao tăng cho quy y thì có hề gì? Khoác áo cà sa chưa chắc đã là người xuất gia, không có giấy tờ cũng không nhất định không xuất gia, còn về pháp hiệu, bần tăng thật ra đã tự lấy cho mình một pháp hiệu rồi, đó là… "Nhược Băng".
Hoàng Phủ Kế Huân ngửa mặt lên trời cười to: "Haha, Nhược Băng hòa thượng, ngươi muốn cùng bổn tướng quân nói chuyện thiên cơ sao? Bản tướng quân cũng chỉ là nhàn tình nỗi nhã hứng, tránh ra tránh ra, bản tướng quân phải đi về Kim Lăng, đi thưởng thức cái sơn thủy mà hòa thượng các ngươi không bao giờ được thưởng thức, haha…"
Nhược Băng hòa thượng mỉm cười, khóe miệng ánh lên loe lóe, Hoàng Phủ Kế Huân nghênh ngang đi xuống núi, Dương Hạo đi đến bên Nhược Băng hòa thượng, đột nhiên cảm giác được ánh mắt của ông ta vẫn dõi theo mình, đi được vài bước, Dương Hạo không nén được liền quay đầu lại nhìn, chỉ thấy vị tăng nhân đó vẫn đứng trên đất, mắt vẫn dõi theo hắn, nhìn thấy hắn quay đầu lại, vị hòa thượng cũng không dời mắt nhìn, một cái nhìn thật sâu và chăm chú, hai tay hợp thành chữ thập, mỉm cười tạm biệt hắn…
Dương Hạo hơi chút chần chừ, Dạ Vũ đã nhanh chân chạy tới bên cạnh, ân cần nói: "Tả sứ xin chậm bước, đường núi nguy hiểm, cần hết sức cẩn thận…"
Dương Hạo không rảnh suy nghĩ nhiều, đành xoay người bước đi, đến khi tới được dưới chân núi thì bất giác quay đầu lại, chỉ thấy bóng vị hòa thượng nọ vẫn đứng giữa lưng chừng núi, xa xa dõi theo, giống như…
Một suy nghĩ xuất hiện trong đầu Dương Hạo: "Vị hòa thượng Nhược Băng này, nhất định là có chút cổ quái!"
***
Từng túm tóc rơi xuống đất, cuối cùng hiện ra trước mặt mọi người là một cái đầu nhẵn bóng lưỡng, một bàn tay đặt trên chiếc đầu đó, người xoa chiếc đầu đó là một lão hòa thượng già mặc áo cà sa đại hồng, từ bi thiện mục.
"A di đà Phật, từ hôm nay trở đi, con đã là đệ tử của Kê Minh ta rồi. Bất kể làm người hay tham thiền, đều phải làm điều có đức. Đức, có thể rửa sạch những tạp niệm của con, làm trong sạch trái tim con, không để con bước đi trong mịt mờ khổ ải. Mà hành, thì lại nắm giữ đức, đi làm việc thiện, tích lũy công đức, tu thành chính quả, sẽ được tự tại. Lão nạp xuống tóc cho con, con đã là đệ tử của lão nạp. Đức Hạnh, những điều lão nạp đã dạy con nhất định phải ghi nhớ, biết chưa?"
"Đức Hạnh ghi nhớ lời chỉ dạy của sư phụ!"
Chiếc đầu bóng lưỡng đó dập thật sâu xuống khấu tạ, lòng bàn tay hướng lên đệm, thái độ hết sức thành kính, có điều vẫn phải nói ra điều khúc mắc trong lòng: "Có điều…, sư phụ, pháp hiệu chỉ có thể lấy hai chữ, không thể lấy ba chữ được sao?"
"Haha, điều đó cũng không hẳn, pháp hiệu lấy như thế nào cũng tùy vào các vị tọa sư. Chỉ có điều từ trước đến nay, pháp hiệu hai chữ đã được sử dụng phổ biến trong các tự viện, lâu ngày, các tự viện cũng thành tục lệ dùng hai chữ. Nếu như một tự viện có quá nhiều tăng lữ thì việc dùng hai chữ đặt pháp hiệu cũng không thích hợp nữa, cũng có thể dùng ba chữ, đương nhiên, còn có những sư phụ để khuyên thích kinh nghĩa thêm rõ ràng cũng đặt cho đồ đệ của mình pháp hiệu có ba chữ. Thật ra, pháp dụ của sư phụ cùng với con vốn đã ba chữ rồi, chúng ta là người xuất gia, pháp hiệu chính thức có một chữ thích nữa".
" Ách…, sư phụ, chữ thích bình thường đâu có gọi, ý của đồ đệ là, có thể đặt một pháp hiệu có 3 chữ bên cạnh chữ Thích kia ra không?"
Lão hòa thượng hơi nhíu mày, có chút không bằng lòng mà nói: "Đức Hạnh, tại sao con cứ phải chọn pháp hiệu ba chữ mới yên?"
"Đồ đệ cảm thấy… ba chữ thì có uy phong"
" Vậy để ta đặt cho ngươi một pháp hiệu có bốn chữ, chẳng phải là càng thêm uy phong hay sao?"
" Thế thì càng tốt, thế càng tốt, đa tạ sư phụ"
Lão hòa thượng giơ tay lên, tay chỉ như Phật đà niêm hoa, dứt khoát vứt trên đầu bóng loáng một chiếc bát nhỏ, nhẹ nhàng nói: " Đồ nhi này sai trái cũng nhiều, lẽ nào ngươi muốn được gọi là Thích Ca Mâu Ni sao?"
" Vậy…,…" Hòa thượng quỳ trên mặt đất cười khan hai tiếng nói: "Đồ đệ biết sai rồi".
" Thiện tai, thiện tai".
Lão hòa thượng lại khôi phục lại dáng vẻ cao tăng từ bi của mình: "Đức Hạnh à, con mới quy y, vẫn còn là một tiểu sa di, sau này ở lại bên cạnh lão nạp, theo lão nạp tu hành phật pháp, thế nào?"
Đức Hạnh quỳ gối xuống mà rằng: "Sư phụ, đệ tử vốn là đệ tử nhà giàu, gia cảnh cũng ưu nhai, nay đã hướng Phật, muốn làm lại từ đầu, tu luyện thể xác và tinh thần, khi nhập tự, đệ tử đã từng nhìn thấy tự trái có vườn rau, vài vị sư huynh đang làm việc, dù vất vả nhưng lại lấy đó là việc tích công đức, do đó… đệ tử muốn đến vườn rau, bắt đầu từ chữ "Hành"".
Bảo Kính đại sư ngẩn người, ông là trụ trì phương trượng trong tự Kê Minh, rất được tôn sùng, đã rất lâu rồi không tự mình thu nhận đệ tử, do đệ tử này dung mạo thanh tú, lại được trời phú cho đôi mắt quyến rũ, so với con gái thì còn đẹp hơn vài phần, khiến cho người ta nhìn thấy rất ưng mắt, mà Bảo Kính đại sư lại là đệ nhất thiên tự phương trượng đại sư ở Kim Lăng, thường xuyên tiếp đãi các khách quý từ trong cung đến, nên tự tay cạo đầu xuất gia cho người đệ tử này. Bảo Kính đại sư không nghĩ đến chuyện hắn sẽ chủ động yêu cầu đi trồng rau, yêu cầu này thật sự là…
Nghĩ lại, đệ tử Đức Hạnh này ăn nói đường hoàng, hôm nay thủ tọa cùng hai vị sư đệ trụ trì Giới luật viện, bản thân nắm giữ quyền phương trượng thực sự không tiện làm trái ý. Tên đệ tử đó là đệ tử nhà giàu, vị tất phải chịu khổ như vậy, những ngày tới cứ cho hắn ở bên cạnh là được, vì vậy ông mỉm cười nói: "Thiện tai, thiện tai, con đã có lòng như vậy tức trong tâm đã có phật, thôi được, vậy ta cho con vào vườn rau tu hành một thời gian. Còn về mấy vị tăng lữ trong vườn rau, hà hà… về mặt phật pháp và giới luật, con không được thỉnh giáo họ, bất quá cũng không thể coi như sư huynh, con là thân truyền đệ tử của lão nạp, thân phận cao hơn bọn họ, những người đó đều là hòa thượng của con. Đức Huệ, đưa sư đệ của con đến vườn rau, gặp vài hòa thượng của sư đệ."
"Vâng!" một tăng nhân tầm trung niên xuất hiện,chắp tay thi lễ và mỉm cười nói với Đức Hạnh: "Sư đệ hãy đi theo sư huynh".
Đức Hạnh mặt nghiêm túc, theo hòa thượng Đức Huệ đi ra bảo điện Đại Hùng, tiến vào vườn rau phía Đông, từ xa đã ngửi thấy mùi hôi của phân ủ, mặt hơi chau, khóe miệng nở ra một nụ cười gượng: "Hì hì, lão tử xuất gia rồi, lần này xem lão ni cô có còn tránh được ta hay không"
Xốc mạnh lại bả vai, đột nhiên thấy hành động của mình là hơi bất nhã, liền vội vàng đứng lại thẳng người, mắt nhòm mũi, mũi dòm tim, bước đi dưới cái nhìn nghiêm khắc của hòa thượng Đức Huệ trên đồng ruộng thổ canh.
Hôm đó, Bích Túc theo đuổi người nữ ni trẻ tuổi xinh đẹp nhất thời bị kích động không nói được gì. Người nữ ni đó đặt quang gánh xuống, chăm chú nhìn hắn, mặt nở một nụ cười kinh ngạc mà lễ phép. Sau một hồi kích động, hắn ta mới nói: "Cô nương, ta… ta rất thích nàng, ta có thể biết tên nàng được không?"
Vị nữ ni đó nghe thấy liền hoảng sợ mở to mắt lên nhìn hắn, khi đó, Bích Túc mới sực nhớ ra là mình đang mặc trang phục của con gái, bèn vội vàng nói: "Ta không phải là phụ nữ, ta là nam giới, nàng xem, nàng xem…"
Hắn ta ngửa cổ cho cô xem yết hầu, rồi lại vỗ vỗ vào ngực, tiếng nói cố tình phóng to đôi chút: "Từ khi nhìn thấy cô nương, tại hạ đã nhớ mãi không quên. Nàng không nhớ ta có đúng không? Hôm đó tại quán trọ Chuẩn An, nàng đi ra, ta tiến vào, chúng ta đã đi qua nhau, nàng còn cười với ta, nàng nghĩ xem, nghĩ thử xem có nhớ ra hay không? Nụ cười của nàng ngọt ngào quá, khiến ta hồn xiêu phách lạc, vì vậy nên mới không thể quên được…"
Con ngươi của tiểu ni cô chớp lia lịa, tựa hồ như nhớ ra cái gì, mặt có đôi chút thẹn thùng như một đám mây hồng bay qua, Bích Túc cuối cùng cũng đã nói ra những điều trong lòng, liền đứng dậy nói: "Cô nương, nàng đẹp như vậy, hà cớ sao lại xuất gia làm ni cô, phí uổng cả một đời nơi cửa phật? Quả là lãng phí báu vật trời cho. Tại hạ từ sau lần nhìn thấy cô nương đã tương tư trằn trọc, còn theo cô nương đến tận Giang Nam, đáng tiếc là sau khi qua sông lại để lạc mất bóng nàng, nhưng trời run rủi cho ta hôm nay lại được gặp lại nàng, nàng nói xem, đó không phải là duyên phận thì là gì?"
Vị ni cô nọ mặt đỏ bừng, lắc đầu lia lịa, tay chỉ vào mình, nhìn thấy hắn ta không hiểu mới nắm lấy tràng hạt đeo ở cổ đưa cho hắn xem.
Bích Túc ngạc nhiên nói: "Nàng không nói được ư? Nàng bị câm sao?"
Ánh mắt vị ni cô hiện lên vẻ buồn bã, Bích Túc không kiềm chế được liền nắm chặt lấy đôi tay nhỏ bé của ni cô, xúc động nói: "Không sao, dẫu cho nàng có câm cũng không có vấn đề gì, ta thích nàng, chính là nàng. Khi ta thích nàng, nàng cũng đâu có nói gì với ta, ta nói nhiều như thế, sau này chỉ cần mình ta nói, ta nói nàng nghe, nhà sẽ càng yên tĩnh, nàng hoàn tục đi theo ta được không? Đi theo ta, làm vợ ta nhé, ta rất thật lòng, ta cũng không phải là kẻ xấu xa, ta… Trên thực tế ta là quan đại thần trong triều đình, thân thế trong sạch, tiền đồ sáng lạn…"
Vị ni cô nọ bị hắn ta nắm chặt tay, mặt đỏ lựng, giãy giụa hai cái không được đành đứng yên, không phản kháng nữa mà chỉ lắc đầu lia lịa. Bích Túc vội vàng nói: "Nói cho ta biết, nàng có chịu làm vợ ta không? Nếu như nàng đồng ý, ta sẽ đi tìm trụ trì đại sư đến chuộc nàng… À, không phải, hoàn tục, có phật tổ làm chứng, gật đầu không tính chỉ tính lắc đầu, nàng đồng ý làm vợ ta không?"
Tiểu ni cô quẫn quá đành co người, lắc đầu lia lịa, Bích Túc mới nói: "Nàng lắc đầu? Tức là nàng đồng ý rồi, chúng ta đi thôi."
Tiểu ni cô lại càng dùng lực để lắc đầu, rồi thoáng cái lại gật đầu, gật đầu lia lịa.
"Nàng gật đầu? Vậy là đồng ý hay không đồng ý?"
Vị tiểu ni cô đơn thuần đáng yêu, vừa nghe hắn hỏi liền kiên quyết và tự nhiên lắc đầu. Bích Túc cười mà nói: "Vậy là đồng ý rồi hả? Vậy chúng ta đi thôi, nếu trụ trì không đồng ý thì chúng ta bỏ trốn! Nàng… nàng là người con gái đầu tiên khiến ta biết rung động."
Bích Túc quả là mặt dày vô sỉ khi nói như vậy. Trước kia hắn đã từng quyến rũ thiếu phụ nhà đại hộ nhân gia, rồi các thiên kim cũng không ít, những lời ngon tiếng ngọt để lừa gạt phụ nữ hắn cũng không thiếu, nhưng không hiểu sao, đối với vị ni cô không nói được kia hắn lại không giống như trước kia, để lộ ý đồ của mình ngay từ đầu.
Nghe hắn nói vậy, vị vi cô kia không gật cũng không lắc nữa, con ngươi nàng sáng lên một chút, mặt đỏ lên rồi trắng nhợt đi. Bích Túc không để ý, kéo tay cô chạy, khi quay đầu lại nhìn thì Bích Túc mới hoảng sợ giật mình, trước mặt hắn là bốn vị ni cô, trung niên có, nhỏ có, già có, cao có, gầy có, trắng có, đen có, tất cả đều đang trừng mắt nhìn hắn.
Bích Túc kêu lên: "Có thật là các người đi không dẫm phải một con kiến hay không? Tại sao không phát ra âm thanh gì, nửa đêm đồng loạt xuất hiện hù dọa ta."
Một vị ni cô cao to với làn da đen quát lớn: "Tên điên khùng to gan, dám cải trang thành nữ… Muốn trà trộn vào trong đám ni cô để làm gì đây?"
"Ta…ta… Gia gia đây muốn tìm vợ để cưới, sao hả?" Bích Túc lại giở trò trêu đùa vô lại.
Vị ni cô to béo kia không nói hai lời, trợn mắt, giơ cao tay, rồi chỉ nghe thấy một tiếng "Bốp" vang lên, vòng tràng hạt trên tay bà đã giội mạnh xuống đầu Bích Túc, Bích Túc bị đánh cho lảo đảo, trên đầu sưng lên vài cục, hắn tức giận kêu lên: "Tay khỏe ghê nhỉ, ngươi là một người xuất gia, lẽ nào có thể ra tay đánh…"
"Bốp!" Vòng tràng hạt đó không biết bện bằng loại dây gì mà không đứt, vị ni cô to béo kia vẫn tiếp tục dùng tràng hạt đánh tới tấp, vừa đánh vừa lớn tiếng quát: "Tên lưu manh này, đã cải trang thành nữ vào đây lại còn dám rủ rê đồ đệ của ta, người đâu, bắt tên to gan lớn mật này lại cho ta, đem lên quan xử lý".
Một đám ni cô ùa lên, Bích Túc thấy vậy liền lập tức ôm đầu trốn như chuột, cố gỡ gạc cục diện: "Gia gia không đánh con gái, bằng không thì ta cho các ngươi biết tay. Tiểu ni cô xinh đẹp, nàng không cần sợ, ta sẽ đưa nàng về, sáng sớm mai ta và nàng sẽ thành thân, ai da, ai dùng gạch đánh ta…"
Đám ni cô đó vẫn quyết không tha, đuổi theo hắn ra tận sân tự, nghe tiếng các ni cô hò hét, dân chúng cũng ùa ra trợ giúp. Ngay lúc đó, Dương Hạo đang đứng ở đầu đường nhìn thấy, Bích Túc đến bước đường cùng bèn giở trò leo tường hòng thoát thân, lần này đích thực là bị mang tiếng kẻ cướp rồi, nhưng cũng chỉ lần này thôi mà.
Từ nay về sau Bích Túc muốn trốn vào gặp vị ni cô xinh đẹp kia cũng không còn dễ nữa rồi, hắn cũng gây chú ý trong đám khách hành hương, hắn muốn giả làm nữ cũng không thành, thế là Bích Túc đành quay về, mỗi tối đều len lén lẻn vào ni am, ẩn nấp ở một nơi bí mật nhìn ngắm tiểu ni cô.
Sau vài ngày quan sát, qua lời nói chuyện của đám ni cô, Bích Túc được biết pháp hiệu của tiểu ni cô đó là Tĩnh Thủy Nguyệt, một pháp hiệu có ba chữ, hắn mới quyết định cũng cạo đầu đi tu, muốn Bảo Kính đại sư đặt cho hắn một pháp hiệu có ba chữ, giống như của tiểu ni cô kia để xứng đôi.
Tĩnh Thủy Nguyệt không cha không mẹ, vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi, năm 9 tuổi bị mắc bệnh nặng nên cổ họng có vấn đề, cô thành ra câm nhưng không điếc. Do không thể nói chuyện nên cô cũng không gây ra bất kì chuyện gì tồi tệ trong tự, khi làm bài tập cũng không phải xướng kinh, do vậy cô chỉ ở trong am quét dọn, nấu cơm, làm vài việc lặt vặt.
Còn vị ni cô to béo kia là trụ trì trong am Bảo Nguyệt, chính bà năm đó đã hóa duyên và thu nhận Thủy Nguyệt về, bà là sư phụ của Thủy Nguyệt, tình cảm giống như mẹ con, do vậy hôm đó khi nhìn thấy Bích Túc lén lút giả gái trà trộn vào am để bắt cóc Thủy Nguyệt, bà mới nổi trận lôi đình, đánh cho hắn một trận nên thân.
Bích Túc hằng ngày ngồi lặng lẽ trong góc tường, ngồi xổm trên xà nhà để nhìn lén tiểu ni cô tát nước, dọn dẹp, vá áo, nấu gơm, sao kinh, mỉm cười…
Dần dà, mỗi nét cười của Tĩnh Thủy Nguyệt in hằn trong đầu của hắn, nếu như hồi đầu hắn để ý cô chỉ vì nét cười mê hồn đó, thì lúc này đây, tình cảm trong hắn đã ngày một trở nên sâu đậm, thứ tình cảm kỳ diệu không thể giải thích mà người ta vẫn hay gọi là "Ái tình", giờ đây Bích Túc chỉ có thể kín miệng không để lộ ra kế hoạch của mình, chỉ có thể nhốt nó thật sâu mà thôi…
Sau vài ngày quan sát, hắn phát hiện ra rằng những chiếc áo cà sa phải vá không phải chỉ là áo của những ni cô, trong đó còn có những áo khác do các hòa thượng đem tới. Mà theo thường lệ sẽ có hòa thượng đưa rau củ cùng quần áo tới, đồng thời đem quần áo đã được giặt sạch và vá xong xuôi đi. Những ni cô trong am đều đối xử rất hòa nhã với các hòa thượng. Bích Túc lặng lẽ nghe ngóng, rồi sau đó mới hiểu ra những hòa thượng đó đều là người của Kê Minh tự, Tịnh Tâm am cũng là thuộc Kim Minh tự, thuộc quyền quản hạt của Kê Minh tự. Bạn đang xem tại TruyenGGG.Com - www.TruyenGGG.Com
Do thế, Bích Túc liền đến Kê Minh tự xuất gia.
Đi trên điền canh, nhìn những cây cải bắp lên huề huề, Bích Túc cảm thấy giống như được nhìn thấy tiểu ni cô xinh đẹp đang nhìn hắn thản nhiên cười, trong lòng vì thế cũng cảm thấy một cảm giác ngọt ngào…
***
"Hồng Tụ Chiêu" vốn là một lầu xanh có tiếng trong thành Kim Lăng.
Dương Hạo đến Hồng Tụ Chiêu không phải vì danh tiếng của nơi này, mà là vì một câu nói của Hồng Lư Dạ Vũ: "Dương tả sứ nhìn xem, ở bên ngõ chếch đối diện kia chính là phủ của Lâm Nhân Triệu tướng quân."
Vì câu nói này mà Dương Hạo thấy cũng một công đôi việc, còn Hoàng Phủ Kế Huân thì không ngừng lải nhải khuyên Dương Hạo: "Thế thì đi đến Hồng Tụ Chiêu đi, gọi chút rượu thịt ăn rồi tính tiếp".
Những cô nương ở Hồng Tụ Chiêu quả thật không tồi, những nha hoàn phục vụ bàn tiệc cũng đều xinh đẹp động lòng người. Bốn người Dương Hạo cùng lên lầu tìm chỗ ngồi, gọi rượu và món nhậu, gọi thêm vài vũ nữ ra nhảy múa, bốn người vừa ăn vằ nói chuyện, Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào còn thi nhau chúc rượu, khiến ý thơ lại lên lai láng, Hoàng Phủ Kế Huân dù là võ tướng cũng nổi hứng đối ứng một phen, chỉ có Dương Hạo là không mấy hào hứng, tuy thế do là chủ tướng nên cũng không ai làm khó cho chàng.
Rượu quá ba tuần, thức ăn cũng nếm đủ năm món, con mắt của bậc chính nhân quân tử Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào bắt đầu xoay vòng theo những vòng eo của vũ nữ, hứng thơ đã hết nhưng hứng tình lại lên. Hoàng Phủ Kế Huân thấy thế liền cười và gọi má mì đến, bảo mụ ta đem vài cô nương xinh đẹp đến cho các đại gia chọn.
Mụ tú bà dù không biết Hoàng Phủ Kế Huân là ai, nhưng xem cách ăn mặc, lại còn có quân binh theo hầu thì cũng đoán ra hắn không phải người thường, liền gọi ngay những cô nương xinh đẹp nhất lầu ra, đứng thành một hàng cho bọn họ lựa chọn.
Dương Hạo là người mà Hoàng Phủ Kế Huân nịnh nọt, đương nhiên phải ưu tiên cho chàng chọn trước. Dương Hạo từ chối, Hoàng Phủ Kế Huân thấy vậy cũng không nài, bèn nhường cho Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào chọn. Hai người liền lẳng lơ mà nhìn mỹ nữ như mèo thấy mỡ, giả đò khước từ hai câu rồi cũng chọn lấy cho mình một cô nương xinh đẹp. Hai người không hẹn mà gặp, cùng chọn trúng một cô nương trẻ tuổi xinh đẹp, mơn mởn như một đóa hoa mới nở.
Hoàng Phủ Kế Huân lại mời Dương Hạo chọn, Dương Hạo biết thời đại này sĩ tử chơi gái cũng vẫn được coi là phong lưu, cũng không phải là chuyện gì ghê gớm lắm. Những cô nương trước mặt dù là gái phong trần nhưng dung mạo cũng diễm lệ, khí chất nho nhã mà không dung tục, không lộ chút gì là gái phong trần, xem ra rất ưng mắt, không khiến cho người khác phản cảm. Thế nhưng cái ngõ chếch đối diện kia vẫn như có sợi dây vô hình nào đó níu giữ Dương Hạo, khiến sự tập trung của chàng đều hướng ra phía ngoài, làm gì có tâm trạng nào mà thưởng ngoạn cái "sơn thủy" này.