Bộ Thiên Ca

Chương 37

Duệ Tuân chết đột ngột, lòng người trong cung Ly thấp thỏm. Phùng thị nhớ tới hai ngày trước Duệ Tuân còn bàn chuyện trên trời dưới đất với Lý Hoài Anh, đảo mắt đã thành âm dương cách biệt. Lại nghĩ tới Duệ Tuân quý vì là Đông cung thái tử, vì khó lòng giải sạch oan khiên nên suốt ngày đau buồn, mượn rượu tiêu sầu. Nhớ thường ngày y đối xử hiền hòa với mọi người, không hà khắc giống Tố Ly cầm đầu đám nữ quyến. Phùng thị cũng rơi lệ vì y, khóc xong lại không biết mình và chồng nên đi con đường nào.

Lý Hoài Anh và các vị thanh niên chuẩn bị áo trắng, viết rất nhiều bài văn tưởng nhớ Duệ Tuân. Nhưng mà Duệ Tuân chết đột ngột, làm những việc như vậy còn có tiền đồ gì nữa?

Nàng ấy một mình mờ mịt luống cuống, chợt muốn tìm Mê Nhạn nói chuyện. Đi tới chỗ ở của Mê Nhạn, lại nghe thấy Mê Nhạn cao giọng nói với người ở bên trong phòng. Phùng thị không tiện nghe, đang muốn xoay người thì bỗng nghe Mê Nhạn cao giọng nói: “Kẻ đầu độc hại chết điện hạ chính là Bạch Tín Mặc!” Phùng thị bị dọa cho giật mình, ngơ ngác không bước chân được.

Mê Nhạn còn nói: “Anh ta đến muộn như vậy rất kỳ quặc, lúc đi thì điện hạ liền ngủ mãi không tỉnh. Lúc đó chỉ có hai người bọn họ cùng uống, anh ta lại bình yên vô sự rời khỏi. Không phải anh ta động tay chân thì còn có thể là ai? Cần phải báo lại cho công chúa, người này tầm ngầm hung ác, cần phải cẩn thận hơn.”

Người đàn bà đi làm sứ trong phủ Vinh An nói: “Ôi chao, việc này sắp loạn thành nồi cháo rồi!”

Mê Nhạn cả giận bảo: “Bạch Tín Mặc đầu độc hại chết phế thái tử, việc này vô cùng xác thực không thể nghi ngờ, loạn chỗ nào?”

“Cô nói như vậy nhưng trong kinh thành lại có một câu chuyện khác.” Người đàn bà đi làm sứ nói, “Hôm mồng một Tết, tướng gia bị bảy tên thích khách vây đánh ở phủ công chúa. Hắn chính tay đâm sáu người tại chỗ, để lại một người sống muốn hỏi khẩu cung. Nhưng người sống đó lại bị công chúa dùng một kiếm đâm chết.”

Mê Nhạn kinh ngạc “ôi” một tiếng, nói: “Vì sao công chúa lại xen vào việc của người khác?”

Người đàn bà đi làm sứ hạ giọng: “Việc này còn cần hỏi à?”

Mê Nhạn không giấu được kinh hãi: “Công chúa Vinh An cũng có phần? Không thể nào. Đã bao giờ người có tâm cơ can đảm thế ấy?”

“Một mình người tất nhiên là không nghĩ ra được, tiếc rằng có kẻ xui khiến.” Người đàn bà đi làm sứ thở dài nói: “Có vài tên thích khách dùng cách tử sĩ của họ Tố để tự sát, bấy giờ tướng gia xin chỉ điều tra họ Tố trong kinh. Ngay cả phủ Bình vương cũng không được miễn. Gần như chẳng phí bao nhiêu sức lực đã tra ra là việc do họ Tố Thái An làm.”

Mê Nhạn lấy làm lạ hỏi: “Liệu vị nương nương này của chúng ta có bị liên lụy không?”

“Há chỉ có vị nương nương này của các người thôi?” Người đàn bà đi làm sứ vội vàng nói: “Trong căn phòng bí mật nhà Tố Nhược Loan tìm ra thư máu thứ dân Tuân viết! Có người nói trên thư máu ngoại trừ oán giận cuộc sống gian khổ ra, còn tuyên bố y đã chuẩn bị xong chứng cứ cần có, cũng đủ để vu oan chuyện cung biến ngày mồng tám tháng chạp cho tể tướng. Y xin Tố Nhược Loan giết chết tể tướng, chém trước tâu sau, mặc dù thánh thượng nghi ngờ nhưng không có đối chứng. Suy cho cùng thì tình cha con vẫn lớn hơn, tể tướng mà chết thì thứ dân Tuân sớm muộn cũng có cơ hội xoay người.”

“Toàn là nói bậy nói bạ!” Mê Nhạn phẫn nộ quát: “Nếu điện hạ thật sự mưu tính ám sát cùng cậu của người thì sao lại để lại vật chứng như thế?”

“Nhưng trong bức thư máu kia có dấu tay của điện hạ.”

Mê Nhạn chợt tỉnh ngộ, cắn răng nói: “Bạch Tín Mặc!”

Người đàn bà đi làm sứ thấy trong mắt cô ta lóe ra lửa giận, đột nhiên nói: “Mê Nhạn, công chúa Vinh An mới là chủ nhân của chúng ta. Bạch Tín Mặc là phò mã của chủ nhân, cô có thể làm như thế nào chứ?” Mê Nhạn cả kinh, thở dài bảo: “Công chúa gửi gắm nhầm người!”

Phùng thị nghe đến đây thì người đã đổ đầy mồ hôi lạnh từ lâu, rón rén đi xa, hốt hoảng chạy như bay đi tìm chồng.

Lý Hoài Anh đang đảo quanh trong đình viện với tâm sự nặng nề, thấy vợ chạy tới mà mặt cắt không còn giọt máu thì biết ngay có chuyện chẳng lành. Phùng thị thở hồng hộc kéo y đến chỗ không người, nói một mạch chuyện nghe được cho y.

Sau khi nghe xong, Lý Hoài Anh tỏ vẻ không hề bất ngờ, thở dài nặng nề rồi nói: “Hôm nay thực là nhìn thấy tin lạ của thiên hạ. Người đến kinh thành báo tang vừa mới trở về rồi, nói là rất nhiều kẻ biết được tin thứ dân Tuân qua đời lại nói ngài ấy sợ tội tự sát.”

Phùng thị nghe được trợn mắt cứng họng: “Sao lại đổi trắng thay đen tới mức này?” Nàng ấy càng bất an hỏi chồng: “Bây giờ làm sao đây? Nếu thật sự nhận định thành thứ dân Tuân sợ tội tự sát, cái gọi là tội của ngài ấy chắc chắn sẽ muốn bắt giết người chung quanh.”

Lý Hoài Anh gật đầu nói: “Đã có một vài kẻ đang lục tục rời khỏi nơi này.”

“Hay là… chúng ta cũng đi thôi!” Phùng thị lo nghĩ nói: “Tố Ly nương nương thì không nói. Bất kể như thế nào ngài ấy cũng là con dâu hoàng đế, người kết giao đều là hiển quý, suy cho cùng sẽ có hai ba người cứu ngài ấy. Cho dù là hạng cung nữ như Mê Nhạn cũng có công chúa Vinh An làm chỗ dựa. Đám dân đen như chúng ta bị cuốn vào chuyện như vậy thì sao có thể tốt lành?”

“Họ Tố Thái An chạy trời không khỏi nắng, ngài ấy còn có thể dựa vào ai?” Lý Hoài Anh lại thở dài, “Ở thời điểm này, hiển quý không thể dễ dàng hơn dân đen đâu! Mặc dù ngài ấy xuất thân từ quý tộc nhưng lúc này chỉ là mẹ góa con côi. Bình thường chút sức mọn của chúng ta không quan trọng gì, lúc này lại có tác dụng nhỏ nhoi. Sao có thể bỏ qua không để ý?”

Phùng thị há miệng, tự biết chồng mà quyết định thì sẽ không thương lượng với ai. Trước nay nàng ấy vẫn luôn nghe theo chồng, từ đó về sau không nói đến chạy trốn nữa, lo sợ bất an hầu hạ ở cung Ly theo lệ cũ.

Người đến nương nhờ Duệ Tuân dần dần từ thành Tuyên tản mạn ra khắp nơi. Có người thề thốt tới kinh sẽ khảng khái nói rõ oan khuất của Duệ Tuân. Có kẻ lặng lẽ biến mất. Còn có người sau khi ở chung với Lý Hoài Anh thì hợp ý, tới khuyên y rằng: “Thiên hạ có đường thì làm quan, không đường thì ở ẩn. Hiện nay triều đình đã độc đoán, chi bằng hai ta trở lại núi rừng, xây nhà dạy nghiệp nhận nhiều học trò. Đợi đến lúc gió đổi chiều, thế hệ ta nhân tài đông đúc, còn rầu chuyện lời nói xuất phát từ đáy lòng không thể tấu lên trên sao?”

Lý Hoài Anh lại cười nói: “Trong lúc nguy cấp lại bảo ‘đợi thời cơ’, lui về ở nơi núi rừng chờ nhà quyền quý nạp kẻ hiền là lừa mình dối người để cầu hư danh. Tôi ở thành Tuyên tuy không có sức làm việc trời long đất lở gì nhưng có thể ra sức mọn vì vợ góa con côi của điện hạ thì đã không uổng công làm người đọc sách từng học qua hai chữ ‘nhân nghĩa’ rồi.”

Từ đó về sau y không hề chuyện trò viển vông nữa, trong lúc tang Duệ Tuân cho dù là việc vặt vãnh, y cũng hết sức giúp đỡ. Tố Ly vốn không thích những bạn bè mà Duệ Tuân kết giao lúc chán chường nhưng biết được lời nói và việc làm của Lý Hoài Anh, nàng ấy cũng không khỏi cảm thán: “Thầy Lý thật đáng để kết giao.” Lời tuy như vậy, nhưng người đi vào trong điện bàn chuyện lớn cùng nàng ấy vẫn là các quý phụ bầu bạn với nàng ấy đến tận lúc này. Lý Hoài Anh và Phùng thị không được nàng ấy hạ cố hỏi ý kiến lần nào.

Bảy ngày đầu của Duệ Tuân vừa qua, Mê Nhạn năn nỉ Phùng thị dẫn cô ta đi tìm Lý Hoài Anh, uyển chuyển nhờ cậy: “Thành Tuyên cách xa kinh thành, nếu không có mạng giao thiệp cực kỳ nhạy bén thì khó có thể biết được tin tức trong kinh thành. Thật không dám giấu giếm, hôm qua đáng ra trong phủ công chúa Vinh An có người tới thăm nô tỳ nhưng đến nay vẫn chưa đến. Nô tỳ sợ hãi trong lòng, đáng tiếc không thể tùy ý ra ngoài, cả gan phiền thầy đến kinh thành một chuyến.”

Phùng thị trấn an rằng: “Có rất nhiều người thăm dò tin tức vì nương nương, chị cứ yên tâm.”

Mê Nhạn không cho là đúng, thấp giọng nói: “Ôi, họ Tố Thái An bị tể tướng trừng trị, tự lo thân mình còn chưa xong, nào có tinh thần tới chăm sóc người? Tôi đoán chừng sau khi tể tướng diệt thái tử xong, muốn mượn án này để quét sạch phe đối lập, nhất định sẽ dùng thủ đoạn ác độc. Chỉ sợ công chúa nhà tôi cũng bị liên lụy. Chúng ta chờ ở chỗ này, không khác nào mắt mù tai điếc. Cầu xin thầy đến kinh thành thăm dò tin tức, cũng để chúng tôi an lòng.” Cô ta nói, lấy thư tự tay viết ra nhờ Lý Hoài Anh gửi đến phủ Vinh An.

Lý Hoài Anh bèn sắm sửa hành trang, ngay hôm ấy rời thành Tuyên vào kinh thành.

Đi tới nửa đường, bỗng nhiên xa xa thấy một đội phiêu kỵ trên thảo nguyên, phi như bay về phía thành Tuyên. Đội người ngựa này quần áo gọn gàng, thạo cưỡi ngựa mạnh, tốc độ cực nhanh nhưng vẫn duy trì đội ngũ chỉnh tề. Lý Hoài Anh nhìn ra xa xung quanh, không biết là lành hay dữ, chợt thấy trong đội ngũ có một lá cờ bay. Có cờ xí thì không phải hộ vệ một hộ gia đình. Nhưng quy cách cờ xí lại không giống với cấm vệ và quân đội. Lý Hoài Anh còn đang do dự, đội người ngựa đã đi mất dạng.

Y nghĩ: Có lẽ nên quay trở lại cùng phúc cùng họa với thành Tuyên, không uổng y ôm trong sạch đến nay. Đầu ngựa còn chưa quay, lại thấy đội người ngựa lớn hơn men theo phương hướng tương tự chạy như bay. Trong đội ngũ vẫn giương cờ xí ấy lên.

Lý Hoài Anh thoáng yên tâm, nếu như Tố Ly và đám quý tộc thành Tuyên bị định tội, hoàng đế sai người bắt bọn họ vào kinh thành để ban cho bọn họ tự sát thì chỉ cần một đội người ngựa phụng chỉ đến, không cần điều động binh lực như thế.

Y lại suy nghĩ một lúc, vẫn giục ngựa đi về phía kinh thành.

Mặc dù là ngựa tốt nhưng thuật cưỡi ngựa của Lý Hoài Anh tệ hại. Hoàng hôn y tìm nơi ngủ trọ sáng sớm thì đi, ước chừng đi sáu ngày mới đến kinh thành.

Trong kinh thành vẫn phồn hoa như trước. Lý Hoài Anh không rảnh quan tâm chuyện khác, đi nhanh thẳng về phía phủ công chúa Vinh An. Đang đi thì chợt nghe có người gọi tên y, nhìn chung quanh thấy người gọi mình là quận vương Đông Lạc – Tố Trầm.

Tố Trầm và một thanh niên anh tuấn hiên ngang cưỡi ngựa xuyên qua chợ. Thấy quả đúng là Lý Hoài Anh, hắn ta lập tức nhảy xuống, thái độ hết sức thân mật mà giới thiệu: “Đây là quận vương Lan Lăng.” Lý Hoài Anh hành lễ với Tố Táp xong, Tố Táp lạnh nhạt đáp lại, quan sát y từ trên xuống dưới.

Lý Hoài Anh gặp được Tố Trầm thì không khỏi hơi xấu hổ, Tố Trầm lại ân cần nói: “Nhiều ngày không gặp, nghe nói thầy đến thành Tuyên. Tôi đang lo lắng, muốn sai người hỏi thăm tình hình gần đây của thầy.” Lý Hoài Anh thấy lời lẽ của hắn ta chân thành, không khỏi mở lòng nói: “Đa tạ quận vương quan tâm. Mấy lần Hoài Anh coi tình cảm của quận vương như không, hôm nay sa sút, gặp lại thực ngượng ngùng.” Tố Trầm cười nói: “Bất kể thầy nương tựa dưới trướng của ai, chí khí hoài bão sẽ không đổi. Tôi quý trọng thầy ở chỗ tài năng, trí thức, khí phách, có liên quan gì đến con đường chứ?” Dứt lời hắn ta nắm tay Lý Hoài Anh, tùy ý chọn một quán sạch sẽ, gọi một vò rượu ngon.

Ở trong họ Tố, người Lý Hoài Anh nể trọng nhất là Tố Trầm. Biết rõ hắn ta là anh cả của hoàng hậu vẫn bằng lòng qua lại với hắn ta. Rượu qua ba tuần, đề tài của người kéo tới thành Tuyên.

Tố Trầm nói: “Anh Lý ở thành Tuyên, chắc là tình cảm sẽ thiên về Tố Ly. Thật không dám giấu giếm, họ Tố Thái An ám sát tể tướng, chứng cứ phạm tội vô cùng xác thực. Nhưng mà thứ dân Tuân bị lên án vô cùng khả nghi. Hoàng hậu nương nương cũng cảm thấy cực kỳ buồn đau, đã từng mời các vị công chúa cùng cầu xin thánh thượng, xin người làm rõ trắng đen, không thể đổ oan cho con ruột.”

Lý Hoài Anh uống không ít rượu nhưng vẫn còn tỉnh táo. Mặc dù yêu thích Tố Trầm nhưng lại không có mấy thiện cảm với hoàng hậu Tố Doanh của hắn ta, thầm nghĩ: Duệ Tuân không còn uy hiếp đến nàng, tất nhiên nàng có thể sắm vai người tốt thỏa thích.

Tố Trầm lại nói: “Đáng tiếc Duệ Tuân đã chết, tất cả lên án đều trở thành lời một phía, không có chứng cứ.”

Lý Hoài Anh nhìn Tố Trầm, lại nhìn Tố Táp, giả vờ như không sao, nói: “Ngay cả sống chết của trữ quân mà tể tướng cũng có thể bày bố, ngay cả nhà cậu của hoàng đế là họ Tố ở Thái An cũng có thể sát hại… Hai vị quận vương ra vào cung đình, sau này cũng phải cẩn thận, chớ nghịch ý hắn!”

Lời còn chưa dứt, Tố Táp đã lạnh lùng nhắc nhở: “Thầy nghe được từ đâu mà lúc này lại nhận định là do tể tướng gây nên? Ngay cả con dâu hoàng đế cũng không dám nói suy đoán không bằng chứng đâu. Thầy đã đến kinh thành thì nói năng phải cẩn thận.”

Lý Hoài Anh nghĩ thầm: “Nếu người trong kinh thành đồn đại bừa bãi vậy thì mình cũng phải công khai chuyện mình biết ở mọi nơi mọi lúc, để người biết chân tướng nhiều hơn.” Vì vậy y cười khẩy một tiếng nói: “Quận vương ở kinh thành, làm sao có thể biết tình hình nơi thành Tuyên? Thật không dám giấu giếm, đêm thứ dân Tuân chết bất đắc kỳ tử, có người đến thăm một chốc ngắn ngủi. Chính là người quen của hai vị, phò mã của công chúa Vinh An – Bạch Tín Mặc. Sau khi y rời đi, trên tay thứ dân Tuân có thêm một vết thương. Nếu thư máu có dấu máu nhanh chóng rơi vào trong tay tể tướng thì Bạch Tín Mặc tất nhiên là chó săn của tể tướng, mưu hại thứ dân Tuân vì hắn.”

“Nghe quả thực giống như vụ án phức tạp lừa người.” Tố Táp cười, không hề tranh cãi với y. Lý Hoài Anh trông Tố Táp cười nhạt: “Đáng tiếc người trên đời thà tin tưởng âm mưu phức tạp cũng không muốn tin chân tướng đơn giản.”

Tố Trầm lên tiếng đổi đề tài: “Không biết người trong thành Tuyên sống thế nào?”

Lý Hoài Anh nói một cách đơn giản: “Thương thay mẹ góa con côi gặp đau khổ bực này, tương lai chưa biết, gió thổi cỏ lay cũng làm người ta lo nghĩ. Mấy ngày trước thấy một đội người ngựa đi qua, không biết là phúc hay là họa.” Lần này anh em Tố Trầm lại mẫn cảm, vội hỏi là người ngựa thế nào. Lý Hoài Anh nghi ngờ nói: “Tôi không biết. Chỉ là cờ xí hiếm thấy.” Tố Táp lại hỏi là cờ xí thế nào. Lý Hoài Anh đáp: “Là một cái cờ hẹp, trên nền xanh nước biển có mấy hình tròn phượng hoàng màu bạc.”

Tố Trầm nghe xong lập tức biến sắc, Tố Táp cũng hiện ra vẻ không yên tâm. Hai người này không thể yên lòng uống rượu, vội vã cáo từ. Lý Hoài Anh không hiểu ra sao, bởi vì lo lắng chuyện của mình nên cũng không có lòng ăn uống nữa, tiếp tục đi tới phủ Vinh An.

Tố Táp vốn muốn cùng anh đến phủ của hắn ta, Tố Trầm lại chọn khuyên can ở nửa đường: “Anh sẽ đi hỏi nàng việc này, em không cần tham dự.” Tố Táp trầm ngâm một lúc, nói: “Anh cả, tuy thầy Lý kia nói lời ngông cuồng nhưng không sai. Tể tướng có thể chỉ hươu bảo ngựa trong triều, nhưng không kiềm được miệng mồm mọi người, đi ngược lại thì sẽ khơi dậy ưu tư của thế gian. Cái này chưa chắc đã không phải là chuyện tốt. Tuy công chúa Phượng Diệp là con gái yêu của hoàng đế, tài đức dung mạo hơn người song mà thân thể gầy yếu, tuyệt không phải hạng người làm bừa. Tể tướng như con rết trăm chân, chết mà không ngã, anh em ta không tước vị cũng chẳng thực quyền, mặt ngoài vẫn phải dựa vào uy phong của hắn… làm việc càng cần phải cẩn thận.”

Tố Trầm gật đầu, vội vàng về đến nhà. Vợ của hắn ta là công chúa Phượng Diệp đã thay đổi quần áo đi ra ngoài, thấy hắn ta trở về thì cười nghênh đón hỏi: “Đã bái yết tể tướng rồi? Hắn gần đây không khỏe à?” Sau khi tể tướng gặp nạn, các quý tộc nhao nhao đến cửa tỏ lòng trung, anh em Tố Trầm và Tố Táp cũng không thoát khỏi lệ ấy, vừa rồi đúng là đến phủ tể tướng.

“Tướng gia rất khỏe, trong lúc nói chuyện còn hỏi tình hình gần đây của nàng.” Tố Trầm không hề hoang mang nói, “Tôi cho là hắn chỉ tùy tiện hỏi. Sau khi đi ra vừa hay có người nói cho tôi biết, Phi Long Vệ đi về phía thành Tuyên.”

Phượng Diệp thản nhiên nói: “Thành Tuyên là đất phong của thiếp, Phi Long Vệ là tư vệ của thiếp. Tư vệ của thiếp đến đất phong của thiếp thì có gì không ổn?”

“Lúc này?”

Phượng Diệp không định giấu giếm hắn ta, cầm tay hắn ta than thở: “Lòng tiểu nhân khó dò! Chuyện cho là hắn không dám làm, sẽ không làm thì hắn lại cứ làm. Thứ mà cho rằng hắn sẽ không ham muốn thì hắn lại ham muốn. Thật không cách nào tưởng tượng hắn sẽ còn làm ra chuyện gì. Thiếp đã có một em trai mất mạng, không cách nào khoanh tay đứng nhìn nữa. Thiếp phái một nghìn Phi Long Vệ đến thành Tuyên bảo vệ mẹ con Tố Ly.”

Tố Trầm chấn động trong lòng, tử tế nhìn thẳng vào ánh mắt sáng ngời của nàng ấy. Không biết từ bao giờ đôi mắt đen nhánh như cánh đồng hoang vu của nàng ấy đã đốt lên đốm lửa nhỏ. Hắn ta vỗ nhẹ bả vai của nàng ấy, an ủi: “Sao nàng lại nhận định… cái chết của Tuân là do tể tướng thế?”

Phượng Diệp tách tay hắn ta ra, nói: “Thiên hạ đều biết chính là tể tướng, trước hại mẹ thiếp, lại giết em trai thiếp. Định tội hắn mới cần chứng cứ, còn phán đoán trong lòng thiếp thì không cần bằng chứng đặt ở trước mặt thiếp đã biết rồi. Trong lòng chàng cũng biết, chỉ là không muốn thừa nhận.” Nàng ấy cười nhạt một tiếng, “Con người đều hèn yếu như vậy, cam nguyện bị kẻ giỏi tạo chứng cứ và hủy diệt chứng cứ lừa dối.”

Tố Trầm cười khổ nói: “Nàng có em trai, em dâu, cháu trai của nàng, tôi cũng có em gái của tôi mà!” Phượng Diệp nghe vậy, lông mi rung rung rũ xuống.

“Tôi không có Phi Long Vệ, chẳng có sức trợ giúp thông thiên cho em gái tôi. Làm sao có thể không biết tự lượng sức mình, làm nó bị liên lụy được?” Tố Trầm khẽ vuốt gò má của nàng ấy, nói: “Nàng phải bảo vệ mẹ con Tố Ly, tôi tuyệt đối không ngăn cản. Mặc kệ Tố Ly không phải là phong cách của nàng, cũng không phải của tôi. Có điều…”

Phượng Diệp ngầm hiểu, mỉm cười nói: “Mười năm vợ chồng, hôm nay lại lo lắng về thiếp đúng không? Thiếp cũng hiểu được tình cảnh của chàng và A Doanh, tất nhiên sẽ suy nghĩ đến.”

Hai người đạt được suy nghĩ chung, Tố Trầm mỉm cười hỏi: “Muốn ra ngoài à?”

Khuôn mặt cười của Phượng Diệp biến mất, nói xa xôi: “Người người đều nhìn vào tể tướng. Em gái thiếp đã ở ngay đương trường vụ án nhưng ngoại trừ thánh thượng và hoàng hậu ra thì không một ai hỏi đến! Thiếp thừa dịp lúc này ấm áp đi thăm nó.”

“Em gái nàng…” Nhắc tới Vinh An, Tố Trầm không kiềm được mà lắc đầu: “Nàng biết trong kinh thành đồn đại như thế nào không?”

“Không phải là nói nó bày ra việc ám sát tể tướng đấy chứ?” Phượng Diệp cười nói: “Có lời đồn như vậy mới càng nên thăm nom nó cẩn thận.”

Lý Hoài Anh đợi ở nhà sát cổng của phủ Vinh An, thấy mặt trời đã chếch về tây, cuối cùng chờ được một người phụ nữ tuổi chừng bốn mươi đi ra. Trên phong thư của Mê Nhạn viết rõ ràng là công chúa tự mở ra, bất kể thế nào Lý Hoài Anh cũng không chịu giao thư cho người phụ nữ.

Suy cho cùng người phụ nữ là người nhà giàu khinh thường kẻ khác nhưng kính trọng y là một người đọc sách nên hòa nhã nói với y, “Quy củ của nhà quyền quý rầy rà, nói không gặp thì là không gặp, chuyện này không phải là có kiên nhẫn thì có thể thực hiện.” Lý Hoài Anh thở dài: “Tại hạ không dám làm khó dễ đại tiểu thư. Được người nhờ vả, hết lòng vì việc của người. Nếu không có khả năng thì tại hạ cũng không thể không kiên trì chờ.” Đang nói thì bên trong có một a hoàn đi ra, tuổi không quá hai mươi, ăn mặc tinh xảo đẹp đẽ hơn người phụ nữ rất nhiều. Người phụ nữ thấy cô ta thì cung kính cúi đầu.

“Người tới từ thành Tuyên chính là anh?” A hoàn kia nhìn Lý Hoài Anh từ đầu đến chân, nói: “Đừng đứng ở ngoài đường nữa, mau theo tôi vào đi.” Dứt lời dẫn Lý Hoài Anh xuyên qua cửa nhỏ, hành lang gấp khúc, con đường cong nhỏ, cây cầu. Mặc dù Lý Hoài Anh giỏi kiềm chế nhưng thấy trong phủ Vinh An rất nhiều cảnh đẹp đẽ, kiến trúc to lớn, vẫn không nhịn được thầm tặc lưỡi.

Dọc đường a hoàn không nói gì, dẫn Lý Hoài Anh đi tới một gian buồng ấm áp. Trong phòng ấm áp như xuân. Cô gái đứng lặng ở trong đó lại vẫn khoác áo choàng lông cáo. Lý Hoài Anh cho rằng lần này nhìn thấy nhất định là công chúa Vinh An, bèn trình bày với nàng ấy.

Tiếng cô gái nói chuyện mềm mại: “Thầy chính là sứ đưa tin từ thành Tuyên? Nghe nói có một phong thư phải giao cho công chúa Vinh An?” Lý Hoài Anh trả lời “Vâng”, nghe cô gái nói: “Vậy lấy ra đi!”

Lý Hoài Anh biết công chúa Vinh An là một cô gái trẻ tuổi chừng hai mươi, cô gái này hiển nhiên hơi lớn hơn, vì vậy hỏi: “Không biết phu nhân là?”

Cô gái cười nói: “Thiếp là chị của Vinh An.”

Lý Hoài Anh nghe nói là vợ Tố Trầm – công chúa Phượng Diệp thì lại khom người, nói: “Nhưng lá thư này…”

“Chỉ có thể giao cho Vinh An đúng không?” Phượng Diệp phiền não nói: “Nhưng mà hiện tại nó không gặp bất cứ ai. Hoàng hậu cho đòi nó vào cung an ủi, nó cũng cáo ốm không đi. Huống hồ là thầy?” Nàng ấy nói rồi vươn tay ra: “Giao cho ta, có lẽ lát nữa ta có thể gặp nó rồi chuyển cho nó.”

Lý Hoài Anh không tình nguyện nhưng có thể thấy Phượng Diệp cũng không dễ dàng. Y lấy thư của Mê Nhạn từ trong ngực ra, liên tục nhờ cậy: “Mong điện hạ giao lại để công chúa Vinh An tự tay mở.” Phượng Diệp nói tiếng “Nhất định”, ra hiệu bằng mắt cho a hoàn kia tiễn Lý Hoài Anh ra ngoài theo đường cũ. Lý Hoài Anh vừa đi, nàng ấy thong thả mở thư ra đọc. Càng đọc xuống dưới, sắc mặt nàng ấy càng tệ. Đọc đến chữ cuối cùng, nàng ấy lại xem lướt qua một lần từ đầu, chắc chắn vẫn chưa quên một chữ thì lập tức cất bức thư ấy vào trong ngực.

Lại một nữ tì đi vào buồng, nói: “Điện hạ, nô tỳ lại đi xem một lần, công chúa Vinh An vẫn còn đang mê man, thực sự không thể gặp khách.” Phượng Diệp thở dài: “Thật đáng thương… Để nó nghỉ ngơi cho khỏe đi.” Nói xong cũng cáo từ.

Phu xe muốn quay đầu về phủ, Phượng Diệp lại chậm rãi dặn dò: “Nhân lúc sắc trời còn sớm, vào cung một chuyến.”

Phượng Diệp đi tới cung Đan Xuyến. Liếc mắt đã thấy Hiên Nhân trong nhà lại ở trong cung, biết là Tố Trầm hoặc là Tố Táp phái cô ấy tới truyền tin, có lẽ Tố Doanh đã biết chuyện mình phái Phi Long Vệ đến thành Tuyên, bèn không nhắc lại.

Theo lẽ ngầm, hai người Phượng Diệp và Tố Doanh luôn không dễ chào, công chúa không làm lễ với hoàng hậu tất nhiên không thích hợp, chị dâu quỳ lạy em chồng nhắc tới cũng xấu hổ. Tố Doanh trước sau như một, hào phóng nói: “Người công chúa yếu, miễn tất cả lễ nghi phiền phức.” Dứt lời bèn kéo tay Phượng Diệp, kề vai ngồi trên giường mềm mại. Nàng nắm chặt liền cảm thấy tay Phượng Diệp lạnh như băng, vội sai người thêm cái chậu than.

Tay chân Phượng Diệp dần ấm lên, lấy ra một tờ giấy đã gấp kỹ từ trong lòng ra đưa cho Tố Doanh, cười nói: “Ngày hôm nay gặp được thứ hiếm có, không chờ đợi nổi muốn đưa cho nương nương xem qua.” Tố Doanh cẩn thận mở giấy ra, liếc vài lần lại gấp kỹ lại, mỉm cười nói: “Dễ tin tưởng lời nói của hạ tì thì dễ tạo ra sai lầm!” Mẹ đẻ phế hoàng hậu của Phượng Diệp chính vì một cung nữ khởi xướng mà bị phế. Người trong ngoài cung nhớ đến bà, đến nay vẫn nhận định đó là vu cáo, cho rằng phế hậu chết là do hoàng đế dễ tin lời phỉ báng mà tạo thành bi kịch.

Tố Doanh hạ giọng nói ở bên tai Phượng Diệp: “Làm sao có thể vì lời của một cô hầu liền thật sự coi phò mã là hung thủ giết người chứ? Vinh An… xem thư này rồi sao?”

“Nương nương cũng biết mấy ngày trước nó đã cầu xin vì phò mã thế nào rồi đấy. Nó thật sự là khăng khăng một mực với người đàn ông kia… Cho nó xem cái này không phải là lấy mạng của nó sao?” Phượng Diệp trông Tố Doanh nở nụ cười không giải thích được, “Sợ rằng nó không nghĩ tới, cứu Bạch Tín Mặc lại hại anh em của bọn tôi.”

Tố Doanh chuyển đề tài, nói: “Đã nói việc này với thánh thượng chưa?”

“Nương nương xem những lời viết trong đó cũng kéo cả tể tướng vào. Lúc này tể tướng không giống mẹ tôi ngày xưa. Sao thánh thượng lại vì lời nói của một cô hầu mà đi tìm phiền phức? Sợ rằng sau khi biết thì càng đổ hết tất cả tội trạng lên đầu Bạch Tín Mặc đấy… Sau này bảo Vinh An làm người thế nào đây?”

Tố Doanh không muốn nhúng tay, gấp xong giấy thì bỏ lại vào trong tay Phượng Diệp. “Nói ra từ trong miệng tôi thì sẽ khiến người làm khó dễ tể tướng sao? Huống hồ tôi không tận mắt nhìn thấy.”

“Tôi không cầu xin nương nương đến trước mặt thánh thượng nói lời không có bằng chứng.” Phượng Diệp lẩm bẩm nói, “Bạch Tín Mặc này, từ khi y huỷ bỏ hôn ước với người, tôi đã không thích y rồi. Sau khi làm phò mã cũng chưa từng thấy y quý trọng Vinh An gì cả. Vinh An là người mạnh miệng, cho dù biết mình trông nhầm gặp phải gạch ngói vụn cũng muốn miễn cưỡng nói là vật báu, nhất định phải khiến người khác đều tin. Có lẽ đứng ở lập trường của nương nương, Vinh An càng đáng ghét hơn đúng không? Nhưng theo người làm chị như tôi thấy, Bạch Tín Mặc không chuyện ác nào không làm, nó còn phải chịu bao nhiêu tội!”

“Người nói…”

“Cầu xin thánh thượng cho bọn họ ly dị.” Phượng Diệp bình tĩnh nói: “Chỉ riêng chuyện ngày mồng tám tháng Chạp, Bạch Tín Mặc đã định trước không trốn được lưới trời lồng lộng. Lúc này tể tướng e ngại Vinh An làm khó dễ nhưng sớm muộn gì cũng phải giải quyết việc này. Thay vì để Vinh An trở thành vợ của tội thần, sao không tháo tay chân tể tướng ra, sảng khoái chấm dứt mọi chuyện?”

“Ôi chao!” Tố Doanh khẽ kêu một tiếng, đảo mắt nhìn người trong cung rồi mới nói đùa với Phượng Diệp: “Công chúa chủ thật biết hại tôi! Để Vinh An biết được, chẳng phải sẽ liều mạng với tôi sao?”

Phượng Diệp mỉm cười nói: “Nương nương từng làm bao nhiêu chuyện mà nó không biết? Sao việc này lại bị nó biết được?” Nàng ấy nói rồi nhét lại tờ giấy đã gấp vào trong tay Tố Doanh, trầm giọng nói: “Thứ này coi như quà cảm ơn của tôi, nương nương hãy tạm giữ lại. Hôm nay thánh thượng sẽ không tự tiện trừng trị tể tướng, sau này thì chưa chắc…”

Tố Doanh thản nhiên nói: “Giao cho phụ hoàng người không phải là được sao?”

“Con gái đã xuất giá như tôi chọc vào giữa hoàng đế và tể tướng có ý nghĩa gì chứ?” Phượng Diệp cầm tay Tố Doanh, lúng túng nói, “Chị cũng có lòng riêng. Vì nhà em và anh cả của em, giả sử sau này có hành động đối nghịch nhau, chị hy vọng người giúp đỡ thánh thượng là em.”

Tố Doanh nhân thể cầm lá thư ấy ở lòng bàn tay, thở dài nói: “Ở trong mắt công chúa, tôi vẫn là đứa trẻ ư?”
Bình Luận (0)
Comment