Chung Dật nằm nghiêng trên giường trúc, tròng mắt thất thần bao phủ một tầng hơi nước, nương theo suy nghĩ từ từ tích tụ lại, ngưng kết thành lệ, thời điểm mí mắt y giật giật nó lướt qua sống mũi, trượt xuống chóp mũi, đọng lại ở đấy.
“Hoàn hồn?”
Y dần dần khôi phục lại tầm nhìn, nam nhân đang đứng quay lưng tự pha chén trà cho mình, nâng chén uống cạn. Sau đó xoay người lại, pha thêm chén nữa đi tới chỗ y.
“Uống miếng nước?”
Chung Dật hơi co người vào bên trong giường, giơ tay lau nước mắt trên mặt, cầm hai bên vạt áo, y không biết cần cổ phủ kín dấu đỏ lấp ló trong y sam nửa mở càng khiến người ta mơ màng, mà chỉ cố chấp muốn tìm lại dáng vẻ chỉnh tề của bản thân.
“…Vạt áo.”
Sau một lát, Chung Dật rốt cục mới mở miệng lên tiếng, giọng không phải khàn khàn bình thường.
“Cái gì?” Lú Hủ thấy y không nhận chén trà liền bỏ nó xuống chiếc bàn nhỏ.
“Quay lại lấy vạt áo của ta.”
Lý Hủ cười lạnh, lắc đầu một cái, nhưng vẫn xoay người đi ra ngoài, một lát sau cầm đai lưng nhung ám hoa vào phòng, ném trên người Chung Dật.
“Sợ bị người ta biết đến thế? Hả?”
Chung Dật dường như thấy mình cần triệt để tắm rửa thay y phục mới có thể khôi phục lại như cũ, y không vội vã buộc đai lưng lên, chỉ siết nó trong tay.
Lý Hủ thấy y không uống thì cầm lấy chén trà uống cạn, vứt sang một bên, ngồi bên giường đánh giá bài trí trong phòng: “Thế này đi, trẫm cũng chê nơi đây chật chội, lần tới trực tiếp gọi người đến truyền Thái phó, lấy một căn phòng ở Hí Phượng Lâu. Vừa miễn cho trẫm còn phải chạy đến dưới chân núi Lê Sơn, mà ở Hí Phượng Lâu cũng có đầy đủ mấy vật kia…”
Chung Dật có chút kinh ngạc nhìn Lý Hủ, y vốn tưởng mối hận của Lý Hủ, làm nhục y ngày hôm nay xem như hai bên thanh toán xong, nhưng nghe mấy câu đấy của hắn không phải như thế.
Lý Hủ nhận được ánh mắt của Chung Dật, sao lại không biết y nghĩ gì trong lòng, cười cười giơ tay sờ lên mặt y: “
Ta vừa mị quân tư, quân cũng duyệt ta nhan. Ngươi tình ta nguyện chuyện vui sướng thế này, trẫm tất nhiên muốn nếm thêm nhiều lần.”
Chung Dật chỉ mím môi thật chặt, chân mày phát run, chỉ giả vờ nghe không hiểu hắn đang cắn càn, không trả lời lại.
“Có muốn sai người lấy chút nước nóng cho Thái phó không?” Lý Hủ đứng dậy.
“…” Chung Dật sững sờ, tiếp đó gật đầu.
Lý Hủ cầm nhẫn ngọc đầu giường đeo vào ngón cái, nhẹ nhàng xoay chuyển, rồi sửa lại vạt áo đẩy cửa đi ra ngoài.
Lý Hủ đi ra khỏi nhà trúc đón gió thu hiu hiu, khắp người tinh thần sảng khoái, tùy tùng dẫn theo vẫn đứng chờ ngoài cửa, hắn dặn dò họ đi chuẩn bị nước nóng. Nữ nhân cùng đứa trẻ còn đang ngồi thả câu bên bờ hồ, người thị nữ tên Hỉ Nguyệt thỉnh thoảng quay đầu lại nhìn xung quanh, thấy Lý Hủ đi ra, nàng vội vã nghiêng đầu sang chỗ khác, nhìn mặt hồ.
Dặn dò tùy tùng xong xuôi Lý Hủ đi lên trước, đứng tại bờ hồ, Hỉ Nguyệt ngẩng đầu nhìn hắn, cúi đầu căn dặn Thế An vài câu, liền để cần câu sang một bên, muốn đi vào nhà trúc xem thử.
“Đừng đi.” Lý Hủ lạnh nhạt ngăn cản, nhìn mặt hồ nói, “Chủ nhân của ngươi lúc này còn đang lau thân thể.”
Nghe vậy, Hỉ Nguyệt có chút ngạc nhiên ngờ vực, dường như không biết nên nghĩ theo hướng nào, nhất thời tay cũng không biết nên để ở đâu. Đứa trẻ bên cạnhngẩng đầu ngó nam nhân, kéo kéo tay áo Hỉ Nguyệt, thấp giọng hỏi: “Hỉ Nguyệt tỷ tỷ, tại sao tiên sinh lại phải tẩy rửa thân thể?”
Đứa trẻ bức bách tâm tư Hỉ Nguyệt không thể không suy nghĩ, vành mắt nàng tức thì đỏ ửng, gạt tay đứa trẻ ra chạy vào trong nhà trúc. Thế An quay đầu thấy Hỉ Nguyệt chạy đi, nó dịch cái mông nhỏ cũng muốn leo xuống chạy theo, nhưng bị người nam nhân đè vai lại.
“Ngươi là… Thế An? Họ gì, là nhi tử nhà ai?”
Thế An có vẻ ngượng ngùng, chép miệng, mới nói: “Thế… Thế An. Là tiên sinh nhặt được. Lấy họ… theo tiên sinh.”
Đứa bé này tuy nhìn chừng 10 tuổi, nhưng tâm trí tựa hồ như chỉ 5, 6 tuổi, khó trách loại tiên sinh cổ hủ như Chung Dật ngay cả thi thư cũng không dạy cho nó.
“…” Lý Hủ còn đang nghĩ chuyện, dư quang thấy cần câu trong tay đứa bé lắc lư, hắn tất nhiên biết, giơ tay phủ lên tay đứa bé kéo cần câu lên, ngay tức thì kéo lên 7, 8 con cá mè.
“A! Cá nhỏ! Cá nhỏ!” Đứa bé kinh hỉ khua tay múa chân, thả cần câu vỗ vỗ tay.
Lý Hủ tháo lưỡi câu từ miệng cá, ném chúng vào vại nước, đứa bé lập tức nhảy xuống tảng đá, nằm nhoài lên mép vại hiếu kỳ nhìn, nhìn xong hưng phấn không kiềm chế được quay đầu bấu víu bên chân Lý Hủ, kéo vạt áo hắn.
“Ca ca, câu thêm nữa đi! Câu thêm nữa đi!”
Từ trước giờ không bị người kề cận nên Lý Hủ có chút bất ngờ, theo bản năng muốn rụt chân lại nhưng hắn dằn lại, tạm ngừng, mới lộ ra nụ cười: “Thế An không sợ ca ca chút nào sao?”
Đứa bé lập tức lắc lắc đầu, chớp mắt, không chút do dự nói: “Không sợ đâu!”
“Ồ?… Vì sao?”
“Bởi vì… Bởi vì, ca ca… yêu… mến… tiên sinh mà.”
Từ yêu mến này dùng đến mới lạ, hắn thoáng hồi ức, nhưng lời này Thế An nói rất chắc chắn.
Vì sao lại nói lời này? Chung thái phó dạy nó gì vậy… Lý Hủ nghĩ tới nghĩ lui, mà không phát hiện hắn tự mình nghĩ đến mức khóe môi càng lộ ra ý cười bé nhỏ.
———
Mấy đêm liên tiếp, Chung Dật không thể ngủ ngon giấc.
Vừa nhắm mắt trở lại lúc đó, y bị người đâm vào từ đằng sau, động tác theo tiếng giường trúc vang vọng kẹt kẹt, còn con người độc ác vẫn luôn miệng châm chọc.
Đồ đê tiện.
Đều là nam tử, nói đến tuổi tác, y lớn hơn Lý Hủ một vòng. Còn từng thuyết giảng phân giải cho hắn, so với đau đớn trên thân, khó xử trong lòng mới là cái dằn vặt người nhất.
Hỉ Nguyệt thấy y khó dằn nỗi lòng, nàng mấy ngày nay không dám nói chuyện lớn tiếng trong phòng, sợ nói sai gì làm chủ nhân khó chịu. Ngày đó nàng lau bàn, lão gia thỉnh thoảng vừa xem án thư vừa tay cầm tay dạy Thế An luyện bảng chữ mẫu
(bảng in khắc bằng đá/gỗ để làm mẫu luyện chữ viết), nàng bỗng nói: “Lão gia, sắp đến Trùng Dương rồi, hôm nay Hỉ Nguyệt mua chút rượu hoa cúc nhé?”
Chung Dật chậm chạp ngẩng đầu lên, tính tính ngày tháng mới phát giác đã đến tết Trùng Dương, nên gật đầu đồng ý.
Qua ngày hôm sau, Hỉ Nguyệt chuyển chiếc bàn dài trong phòng ra bờ hồ, xếp bánh điểm tâm tự thân làm cùng với rượu lên, chuẩn bị cho lão gia giải sầu, nhưng không ngờ sau giờ ngọ, nàng thấy một thân người mặc áo sam xanh ngọc cầm theo vò rượu từ xa xa đi đến.
“Hỉ Nguyệt?” Nhận ra hầu gái bên bờ hồ, Nhiếp Tư Viễn giãn đôi lông mày, “Quá tốt rồi… Còn lo tìm không được người thì uổng công chuyến này.”
“Nhiếp đại nhân?!” Hỉ Nguyệt cũng kinh hỉ bất ngờ, hai tay chà xát lên tạp dề, nàng lập tức thả tay áo vén lên xuống, “Nhanh ngồi, nhanh ngồi! Hỉ Nguyệt đi gọi lão gia ngay.”
Hỉ Nguyệt vào nhà không lâu, đã đỡ Chung Dật cùng đi ra, nhìn ra đằng sau còn có một đứa bé ôm con bồ câu trắng xám mập mạp theo sau.
Nhiếp Tư Viễn trố mắt nhìn.
***
Tính ra, mặc dù chân chính xa cách chỉ mới hơn 1 tháng thôi mà tựa như đã cách một đời người. Hai người đều không còn ăn vận làm quan trong triều, mà vẫn có thể ngồi đối ẩm với nhau, quả thực như chuyện không tưởng.
Hỉ Nguyệt thấy lão gia của mình khôi phục lại chút linh động, khỏi phải nói hài lòng thế nào, nàng với Thế An cùng ăn bánh điểm tâm, cho bồ câu A Vọng ăn.
“Thế An. Ngồi như chuông.” Trong buổi tiệc, Chung Dật chợt nói.
(*) Ngồi như chuông (tọa như chung): Ngồi vững như cái chuông úp.Thế An vốn đang úp trán kề sát xuống án thư nghe vậy liền vội vã thẳng lưng lên.
Nhìn đứa bé, Nhiếp Tư Viễn gượng gạo nở nụ cười, nói sang đề tài khác: “Lúc đầu còn lo Trùng Dương ngươi không có rượu nên đặc biệt ôm một vò đến, không ngờ lại được chiêu đãi ngược lại.”
Thấy chén rượu của cố hữu đã cạn, Chung Dật lập tức rót thêm, hỏi lại: “Tư Viễn. Không biết sau này, ngươi có tính toán gì không?”
Nhiếp Tư Viễn nhướng mày cười cười, tuy không nói lời nào nhưng nhấc vò rượu mình cầm theo quơ quơ.
Từ lúc mới quen, Chung Dật luôn cảm thấy người hảo hữu này không đi cất rượu thật đáng tiếc, bây giờ y quả thật vui mừng khôn xiết, vội hỏi: “Ở Ung thành?”
“Không, về nguyên quán Lạc Dương.”
“Cũng không xa mấy.” Chung Dật hiểu rõ hảo hữu từng là Ngự sử đại phu của một đất nước, mà trong lúc nhất thời vạn sự lại biến thành trống rỗng, khó tránh khỏi phiền muộn trong lòng, nên khuyên giải: “Ngươi và ta đều cần nhận thức. Con đường bán dạo này chưa chắc không bằng gia nhập làm quan.”
“Đúng vậy.” Nhiếp Tư Viễn cảm khái, kiềm lại nụ cười tịch mịch, nhìn mặt hồ cong cong mắt: “Trong phủ ta tổ truyền không ít bí phương cất rượu, chắc hẳn không lâu sau rượu của ta sẽ danh tiếng vang xa, ngươi ở Ung thành cũng có thể nghe tiếng.”
Chung Dật gật đầu liên tục: “Như vậy rất tốt! Đến lúc đó, ta có thể ẩm rượu Tư Viễn cất rồi.”
Nhiếp Tư Viễn cũng gật gù, chợt thu lại ý cười, nhìn sang Hỉ Nguyệt và Thế An, thở dài: “…Ngươi với ta đều đã lớn tuổi, quy ẩn thế này không hẳn không phải chuyện tốt.”
Nghe ra thâm ý trong lời hảo hữu, Chung Dật buông chén rượu xuống, tĩnh lặng, nghiêng đầu nói với Hỉ Nguyệt: “Hỉ Nguyệt, Trùng Dương cần đăng cao, dẫn Thế An đi dạo núi Lê Sơn đi.”
(*) Đăng cao: Leo núi, phong tục cổ là vào tết Trùng Dương phải đi leo núi.“Vâng. Lão gia.”
Hỉ Nguyệt thầm hiểu trong lòng nên nàng buộc A Vọng lại, xong kéo bàn tay nhỏ nhắn của Thế An đi, hai người cười nói leo lên núi.
Thấy hai người đi xa rồi, Nhiếp Tư Viễn mới nhíu mày, thấp giọng nói: “Dật tiên, ngươi cũng quá lớn mật!”
Chung Dật mặt đầy cam chịu, nhìn lão bằng hữu nổi giận, bèn giải thích: “…Đứa nhỏ không còn nhớ rõ gì cả. Thời điểm Ngô tướng dẫn người đến, nó ngây ngốc đơ người ra, dẫu sao cũng phải trông nom chứ?”
“Ngươi là vậy đấy.” Nhiếp Tư Viễn nói xong, như thấy còn chưa hết giận, nghiến răng nghiến lợi nói thêm lần nữa, “Ngươi luôn như vậy! Nếu bị phát hiện… Ngươi… ngươi đang ở Ung thành đấy! Bạo quân ngay dưới mí mắt, ngươi đúng điên rồi!”
“…Dần quốc đã vong. Bây giờ thời thế người người đều nguy hiểm, giả như buông thả mặc kệ cũng khó thoát khỏi cái chết. Ở bên cạnh ta, mỗi ngày còn có ba món ăn, cứ vậy đi, có thể chịu đựng đến chừng nào thì tính đến chừng nấy.”
“Vậy chính ngươi thì sao?
Ngươi có bao giờ nghĩ đến bản thân, nghĩ đến Hỉ Nguyệt? Nếu xảy ra chuyện, truy cứu ra thì hai người các ngươi thật… sẽ phải mất đầu.”
Mắt Chung Dật lóe lên vệt sáng u ám, lát sau, y mới uống chén rượu, nói: “Đúng thật phải xin lỗi Hỉ Nguyệt.”
Nhiếp Tư Viễn thấy khuyên bảo không thành, chỉ đành cụt hứng ngồi đấy, bỗng nghĩ đến gì đó nên hỏi: “Vì sao Ngô tướng quân không mang Tam vương tử đi? Trời nam đất bắc cũng đều an toàn hơn Ung thành.”
“Hắn trù tính… một chuyện ở Tây Bắc. Đứa nhỏ trải qua những chuyện này… tuy được cứu nhưng có khúc mắc, dẫn theo cạnh hắn e rằng càng thêm ngây ngốc.”
“Trù tính một chuyện?…. Chuyện… đó?”
Chung Dật gật đầu, ngẩng đầu nhìn hảo hữu, do dự một lúc, mới nói, “Lúc A Mặc rời đi có nói nếu gặp ngươi thì nói cho ngươi biết. Hắn ở Tây Bắc, ngươi nếu… đồng ý, có thể đến hỗ trợ.”
“…”
Nhiếp Tư Viễn cụp mắt xuống, hồi lâu chỉ đành thở dài, “Không được. Một mình ta thì được thôi. Còn thê nhi già trẻ hơn mười miệng ăn, thực sự bận lòng không buông được.”
“Ừm.” Chung Dật thấu hiểu gật gù, không nói gì thêm. Nếu bên cạnh y cũng có thê nhi, sợ rằng không làm được chuyện lớn mật như vậy.
Nhiếp Tư Viễn ngẩng đầu nhìn sắc trời, đứng dậy, vỗ vỗ vai y: “Dật tiên. Sắc trời không còn sớm… Ta cáo từ trước. Ngươi… Chậc…” Thấy Chung Dật quay đầu lại nhìn hắn, tình hữu nghị nhiều năm không thể nào nói nên lời, chỉ có thể nặng nề vỗ bả vai y, nén lệ xuống, “Lão bằng hữu, hết sức bảo trọng.”
Hết chương mười.
========================
Ta vừa mị quân tư, quân cũng duyệt ta nhan:– Ý trên mặt chữ: Ta thích thân thể của ngươi, mà ngươi cũng thích dung nhan của ta.
– Ý nghĩa: Hai bên tình nguyện, ngươi thích ta mà ta cũng vừa ý ngươi, cả hai đều bị dung mạo của đối phương hấp dẫn.
Tết Trùng Cửu hay còn gọi là tết Trùng Dương (ngày 9/9 âm lịch) là ngày lễ truyền thống và trọng đại của Trung Quốc. Con số 9 được coi là số dương, sự lặp lại hai lần số 9 nên gọi Trùng Cửu, Trùng Dương là vì vậy. Một phong tục khác cũng được thực hiện trong ngày Tết Trùng Cửu là ngắm hoa cúc, uống rượu hoa cúc và đeo cành thù du.