Dưới chân núi Lê Sơn, căn nhà trúc đã không còn đơn sơ như ngày xưa. Cây mây bò quấn xung quanh cột, quế vàng tỏa hương, đan chéo chằng chịt quanh căn nhà. Dưới ánh mặt trời, ánh nắng cắt ngang dọc trông đặc biệt u nhã tĩnh mịch. Trước nhà trúc, trăm hoa khoe sắc suốt bốn mùa xuân hạ thu đông. Dẫn đến lời khen không ngớt từ các thôn dân, nói Ngự hoa viên trong cung có chăng cũng chỉ đẹp đến thế. Không những vậy, bên hồ còn có thêm cái đình nhỏ để nghỉ chân, mà đất trồng rau kế bên đều được khai khẩn rộng thêm một vùng.
“Được rồi!” Hỉ Nguyệt ngồi ở tiền thính cắm kim khâu trong tay vào gối cắm kim, phủi phủi áo khoác ngoài đang cầm, cười nói, “Lão gia, vá xong rồi! Thử xem sao.”
Chung Dật vốn đang vừa đọc sách vừa bóc củ ấu, nghe nàng nói thì lau tay, Hỉ Nguyệt cầm áo khoác phủ lên vai y, y giơ tay ra thuận theo hành động của nàng, cúi đầu nhìn: “Không tệ. Ngay cả vết vá cũng nhìn không rõ mấy.”
Hỉ Nguyệt được khen ngợi thì cười vui vẻ, cởi chiếc áo khoác vừa vá xuống, nói: “Vậy Hỉ Nguyệt mang đi giặt đây, ngày sinh thần tháng sau lão gia mặc cái này nhé.”
“Ừ.” Chung Dật mỉm cười gật đầu.
Hỉ Nguyệt cẩn thận xếp lại kim khâu, gấp qua loa áo khoác, nàng vừa đứng dậy chuẩn bị ra khỏi phòng thì chợt sững người.
Trong phòng bỗng tĩnh lặng, Chung Dật ngẩng đầu lên, thấy nàng ngơ ngác nhìn ra ngoài thì theo tầm mắt nàng quay đầu qua, trông thấy Lý Hủ xa cách 4 năm đứng trước cửa như lẽ đương nhiên.
Ăn vận thay đổi, vẻ mặt cũng thay đổi, năm đó rời khỏi Ung thành, hắn là thiếu niên chưa tròn 20, trong lời nói vẫn còn chứa vài phần cố chấp ích kỷ của thiếu niên, còn giờ đây, lại từng trải như một người nam nhân đỉnh thiên lập địa, bình tĩnh mà trầm ổn.
Y vật dày nặng trong tay Hỉ Nguyệt vô thức tụt xuống giữa những ngón tay. Nhưng đừng nói là Hỉ Nguyệt, ngay cả Chung Dật cũng lướt qua một nét tâm tình khó nói rõ nơi đáy mắt, cũng sững sờ ở đấy.
“Sao, trẫm về Ung thành, không hồi cung mà đi thẳng đến chỗ của Thái phó, vậy mà ngay cả lời ‘Lâu ngày không gặp’ cũng không được nghe thấy à?”
Lý Hủ cười mỉm bước vào nhà trúc, vóc người cũng cao lên rất nhiều, đi vào nhà trúc thậm chí còn phải hơi khom người xuống, sợ va vào màn trúc cuốn ở trên.
Đến cuối cùng cũng dần lấy lại được ý thức, Chung Dật bình tĩnh nói: “Hỉ Nguyệt, dâng trà.”
“Không cần,” Lý Hủ nói, “Đi ra ngoài.”
“…”
Rốt cục Hỉ Nguyệt cũng tỉnh táo lại, trong nhất thời nàng vừa nóng ruột vừa lo lắng nhìn lão gia của mình, thấy đối phương nhắm mắt gật đầu. Chỉ đành nuốt giận vào bụng nhặt áo khoác dưới chân lên, né qua người Lý Hủ rời nhà trúc.
Từ khi Lý Hủ vào nhà tầm mắt vẫn không rời khỏi người Chung Dật, nghe Hỉ Nguyệt rời đi, tuy ý cười trên mặt hắn nhạt đi đôi chút nhưng vẫn chứa đầy sự ấm áp, bước vài bước đến gần người đang cầm quyển sách.
Chung Dật vốn đang giữ tư thế quay đầu lại nhìn, thấy hắn đến gần thì không tự chủ được muốn lảng tránh tầm mắt, quay đầu đi. Nhưng quay được nửa đường lại bị một bàn tay nâng giữ lại.
Hắn dùng sức rất mềm mỏng, Chung Dật không vùng ra, Lý Hủ thấy trong đôi mắt sáng ngời của y khẽ run, nhưng không nhìn ra được tâm tình gì nhiều, chỉ cảm giác làm người ta thương yêu vô cùng, nên hắn hôn phớt nhẹ lên đôi môi kia.
“Thái phó sao lại có vẻ mặt này, chả lẽ động tâm với trẫm rồi?”
Chung Dật không trả lời, cụp mắt suy nghĩ, dời đề tài: “Nghe nói Hoàng thượng khai cương khoách thổ
(mở rộng bờ cõi), tại phương nam Di Châu tìm ra được một hòn đảo. Sao lại…”
Lý Hủ kéo băng ghế gỗ ở kế bên ngồi xuống, rót chén nước cho mình: “Trẫm bận việc 4 năm, tình thế Mân Việt đã ổn định nên buông tay giao cho La Quần Sơn bọn họ… Cũng đâu thể để Ung thành trường kỳ bị gọi là không có vua cai trị được.”
Chung Dật khen ngợi: “…Thánh thượng có thể được toại nguyện mong muốn, quả không thể tốt hơn.”
Lý Hủ nâng chén đến bên miệng, nghe y nói chợt tạm ngừng lại, cười nói: “Này tính là toại nguyện mong muốn gì chứ. Trẫm còn muốn đi Tây Bắc, bỏ hết toàn bộ tuyết nguyên cao sơn vào trong túi… Chẳng qua là.” Nói đến đây, hắn ngửa đầu uống cạn nước, hơi bất đắc dĩ, “Lúc trước đóng thuyền tốn quá nhiều phí tổn, quốc khố cần được phục hồi lại.”
Di Châu chỉ là hỏn đảo không người, còn Tây Bắc không giống thế, vùng đất ấy từ xưa đến nay thuộc về phía bắc Trường Thành, là bản xứ của người Hồ dân tộc Hung Nô. Chung Dật nhíu mày, nghĩ thầm nếu xuất chinh binh phạt, không biết sẽ tăng thêm bao nhiêu thê ly tử tán, cửa nát nhà tan.
Lý Hủ thấy vẻ mặt của y, cười nhạo: “Vì sao Thái phó lại nhíu mày?”
Chung Dật vẫn trước sau như một không che giấu nổi nỗi lòng của mình, nếu đã bị nhìn ra thì cứ mở miệng nói thẳng: “Thánh nhân Đỗ Thi từng nói, nếu như có thể hạn chế xâm lăng, thì đâu phải tàn sát tang thương.”
Lý Hủ nghe vậy hơi lùi người về sau, lưng ưỡn thẳng tắp, nói có phần khinh thường: “Đừng lấy tiên sinh tự xưng.”
Chung Dật nhìn biểu hiện ngạo mạn của nam tử trước mặt, chỉ thấy không lời nào để nói, định cầm lấy cây gậy chống bên cạnh đứng dậy, thì Lý Hủ vươn một tay ra nhấn y ngồi lại.
Vẻ mặt lạnh lùng của Lý Hủ chỉ được trong chốc lát, rồi từ từ thu lại, hắn nhắm mắt thở dài nói: “Nhìn trẫm xem, 4 năm không gặp, rõ ràng chỉ là tới nhìn chút thôi mà lại dọa Thái phó rồi.”
Hắn nói xong, đoạt cây gậy của Chung Dật, sờ lên đầu gối của y: “Không nói mấy chuyện đó nữa, mà những năm này chuyện đi đứng của Thái phó vẫn không khá hơn sao.”
“…” Chung Dật kinh ngạc, rồi đổi thành lúng túng, y muốn rụt chân lại nhưng không dám làm ra hành động quá mạnh, chỉ có thể cứng người, nhìn tay của Lý Hủ tiến vào vạt áo, nhẹ nhàng xoa bóp mắt cá chân mình.
Như cảm nhận được căng thẳng của đối phương thông qua lòng bàn tay, Lý Hủ cười khẽ vài tiếng: “Thái phó đừng hoảng. Trẫm đuổi mười mấy ngày đường cũng mệt lắm rồi. Huống hồ, lát nữa còn phải hồi cung xử lý ít chuyện vặt.”
Dù chưa nói rõ vì sao phải hoảng hốt, nhưng đã được biểu lộ trên những câu chữ, da mặt Chung Dật mỏng, gò má tức khắc nổi lên tầng đỏ ửng: “Chuyện quan trọng quấn quanh người Hoàng thượng, vẫn nhanh hồi cung thì hơn.”
“Trẫm chỉ muốn ở cạnh ngươi.”
Ngồi cạnh Chung Dật, trò chuyện qua lại, tĩnh tĩnh lặng lặng hao mòn khoảng thời gian nhàn hạ. Chút tâm tư này từ khi Lý Hủ còn nhỏ đã bén rễ nảy mầm trong lòng hắn, “Thái phó không nhớ trẫm sao? Mới mấy năm thôi mà Thái phó đã trở nên vô tình như thế?”
Gì mà vô tình lẫn có tình, thấy ngôn từ của Lý Hủ ám muội, Chung Dật vội rũ sạch lập trường: “Thánh thượng đang lúc tráng niên, tất nhiên cảm thấy chỉ có mấy năm… Còn Chung mỗ đã quá nhi lập chi niên, chỉ thấy ngày một già lọm khọm. Ngay cả dáng vẻ của Thánh thượng cũng sắp không nhớ rõ.”
(*) Nhi lập chi niên: Trong độ tuổi 30.“Hóa ra Thái phó không nỡ lòng để trẫm đi… Lúc nãy nếu Thái phó nói thẳng thế này, thì trẫm sao có thể nói mạo phạm, làm hỏng bầu không khí chứ.”
Tai Chung Dật lại bắt đầu nóng ran, mím chặt môi, y thật không rõ vì cớ gì mà lúc nào cũng nói không lại người này. Bất luận có nói thế nào, thì đối phương cũng có thể suy ra cái nghĩa khác.
Lý Hủ đánh giá trong phòng, chợt nói: “Tiểu tùy tùng của ngươi đâu. Tư Nam Thiên đâu rồi?”
Chung Dật chần chờ chốc lát, vẫn đáp: “…Đám Thế An vào thành làm chút chuyện.”
“Cái tên Tư Nam Thiên… Trẫm sai hắn chăm sóc ngươi. Hắn hay đấy.” Lý Hủ nói câu đấy xong trầm giọng xuống, hỏi lại: “Làm chuyện gì?”
“Bán một số gia sản.”
“Sao vậy, trẫm đi rồi, trong cung cắt mất ngân bổng, thất lễ với Thái phó?”
Chung Dật lắc đầu, thấy Lý Hủ buông mắt cá chân mình ra liền giật chân về, chỉnh lại vạt áo: “Chuẩn bị mở một tư thục dưới chân Lê Sơn, trước tiên do ta quản lý. Chờ Thế An lớn rồi sẽ giao cho nó.”
Lý Hủ cười: “Đường đường là Thái phó, làm tiên sinh tư thục thế này không thấy bản thân thụt lùi?”
“…” Không để ý lời móc mỉa của đối phương, Chung Dật nửa cụp mắt, nhớ đến Thế An nhà mình mạnh khỏe lớn lên như măng mùa xuân, lại ngầm cười, “Thế An lớn nhanh như vậy, chung quy cũng phải lưu phần gia nghiệp cho nó, mưu cầu lối thoát.”
Lý Hủ nhìn biểu hiện của Chung Dật, không nói tiếp nữa, gương mặt hắn vốn thiên về lạnh lùng, trầm mặt xuống lại càng tựa như tảng băng. Lúc Chung Dật ngẩng đầu lên, thấy hắn nhìn trừng trừng mình, không biết vừa rồi mình nói sai điều gì, đang cảm thấy khó hiểu thì Lý Hủ vươn tay nắm chặt lấy bàn tay y đang đặt trên đầu gối.
Lý Hủ cảm giác bụng mình như bị đổ vào cân giấm, chua khủng khiếp, nhưng không phát tác ra. Chỉ đành cầm lấy tay Chung Dật không buông, nhìn chằm chằm y không rời mắt.
“Chỉ vì đứa con hoang nhặt được?”
“Đừng nói Thế An như thế.”
Lý Hủ thấy trên gương mặt Chung Dật chứa vài phần tức giận, lòng thoải mái hơn một chút, từ mũi phát ra tiếng cười lạnh, càng nói trầm trọng thêm: “Hiện tại ngươi thấy nó ngoan ngoãn khéo léo là vì rời khỏi ngươi nó không sống nổi, lòng người mò kim đáy bể, chờ đến khi lớn lên thành thân rồi, con cái vong ân phụ nghĩa có rất nhiều. Huống chi nó thậm chí không phải nhi tử thân sinh của ngươi.”
“…” Chung Dật chẳng muốn tranh luận chuyện này với hắn, chỉ giật tay về.
“Nếu ngươi thật nhàn đến phát chán như thế, chi bằng vào cung đi. Trong cung trẫm có nhi tử không khác gì khúc gỗ, năm ấy xuôi năm nó được 3 tuổi, như đứa đần độn, ngay cả tiếng phụ hoàng cũng không gọi.”
Lý Hủ nhắc đến nhi tử của mình mà không bằng cả người ngoài, mặt đặc biệt âm trầm. Chung Dật tính tính tuổi tác, đoán đứa bé ấy được sinh ra năm Lý Hủ 16 tuổi. Lý Hủ khó mà hình dung nổi năm mình còn là đứa nhỏ, phải đối xử như thế nào với nhi tử sơ sinh.
“Ngươi rời đi 4 năm, tìm một vú nuôi cho nó đi.”
“Trong cung Tề quốc không thịnh hành kiểu đấy.”
Nhắc đến nhi tử, Lý Hủ nhớ lại thời thơ ấu của mình. Mẫu phi của hắn là phi tần thấp kém, phía trên còn có huynh trưởng 17 tuổi lớn hơn hắn nhiều. Cho dù ở trong cung nhận hết khinh bỉ, tốt xấu gì hai mẫu tử cũng sống cùng nhau. Nhưng năm hắn 7 tuổi, chỉ vì để biên giới hai nước Tề Dần hòa nhau, người phụ vương gặp không được mấy lần bắt hắn từ bên người mẫu phi, một thân một mình tống đến địch quốc.
Khi đó hắn hận phụ vương thấu xương, hận Tề quốc thấu xương. Hắn nghĩ dù có chết đi cũng không muốn hai nước đổi lấy một ngày bình yên hòa thuận, nên ra sức trêu chọc Thái tử Thù. Thái tử Thù như đóa hoa sinh trưởng trong ngày xuân, ra vào được các nô tài tiền thốc hậu ủng, đến 14 tuổi rồi mà còn có tâm tính như mấy đứa trẻ thường dân. Hắn càng được mọi người tán tụng, cao cao tại thượng, thì Lý Hủ lại càng nhìn hắn không hợp mắt.
(*) Tiền thốc hậu ủng: trước sau có rất nhiều người chú ý vây quanh hoặc bảo vệ.Mặt khác, Lý Hủ cũng muốn vượt trội hơn mọi người, muốn tống toàn bộ những kẻ từng đắc tội hắn xuống địa phủ. Mà giờ đây hắn đã đạt được tâm nguyện này, nhìn đám người từng gây ra đau đớn trên người mình gào thét thống khổ, đầu một đằng thân một nẻo, Lý Hủ cảm thấy rất vui sướng. Báo thù làm hắn thỏa mãn đến như chưa từng được thỏa mãn hơn. Nhưng trong chớp mắt thỏa mãn trôi qua, lại là trống vắng nhiều hơn nữa…
Hai tay hắn dính đầy máu tươi rồi mới chợt dừng lại nghĩ, có lẽ thứ mình chân chính muốn chưa từng là những thứ này.
Nhớ lại năm ấy ở Dần quốc, bốn phía không một tia sáng, đen kịt không thấy nổi năm đầu ngón tay, mà hắn hệt như con chuột nhắt, phẫn nộ nổi giận cũng không biết phải làm như thế nào.
Ngay lúc hắn xung đột mâu thuẫn thương tích đầy mình. Thì Chung Dật xuất hiện.
Người trước mắt bây giờ, từng ngồi trong thư khố nương theo ánh trăng đốt lên một ngọn đèn trước mắt hắn. Trong mắt y bập bùng ánh lửa, ấm áp như thế làm Lý Hủ không cầm lòng được muốn dựa lại gần, chạm đến sự ấm áp lâu rồi hắn chưa được cảm thụ.
…Thứ hắn muốn chính là những ấm áp đó, có thể gần kề đôi má, nằm cùng bên gối vào những ngày đông lạnh lẽo. Hắn muốn được như Thái tử ở bên người Chung thái phó, có thể ngồi cạnh y, đối diện với nét mặt ôn hòa, tươi cười ấm áp trò chuyện.
Nhưng thật đáng tiếc, mấy năm qua, đến cuối cùng vẫn chứng thực Chung thái phó là tiên sinh của Thái tử, trong lòng y, phân lượng của Thái tử xa mà cao hơn nhiều so với con chuột nhắt như hắn.
Lý Hủ nhắm mắt đúng lúc cắt đứt dòng tâm tư, lại nhìn về phía Chung Dật, lòng không khỏi có phần bi thương.
“Trẫm đói bụng.” Lý Hủ nói.