Lần thứ hai Chung Dật tỉnh lại đã qua một ngày hai đêm, trong xe ngựa xóc nảy, y hoảng loạn với tay lần mò thì sờ thấy Thế An vẫn đang ngồi bên người, mới thoáng an tâm trở lại. Chung Thế An vốn cũng đang dựa vào y ngủ, bị hành động của y đánh thức, cậu mở mắt thấy tiên sinh tỉnh rồi thì gọi thử: “Tiên sinh?”
Đầu óc Chung Dật dần thanh tỉnh, y thở dài một hơi, nhưng lại nhắm mắt không nói lời nào.
Chung Thế An thấy thần sắc y đã tỉnh táo, lông mày hơi nhíu lại, cậu vội chống người dậy, đối mặt với tiên sinh, giải thích, “Tiên sinh, Thế An biết ngài tức giận… Nhưng Thế An thật lòng muốn hiếu kính tiên sinh…”
“…”
“Huống chi, theo lời Ngô tướng quân nói, hiện giờ Dần quân do hai nhà Chung Khâu làm chủ, Thế An thật sự… rất cần tiên sinh giúp đỡ. Tiên sinh…”
Lúc này Chung Dật mới mở mắt ra nhìn cậu, trong mắt lộ nét sầu lo: “Thế An, chúng ta đi thế này, bỏ lại Hỉ Nguyệt biết làm sao bây giờ?”
“…” Chung Thế An thấy mắt tiên sinh đen thẳm khiến người không dám nhìn thẳng, cậu giương mắt chốc lát, bắt lấy chút lạc quan suy đoán, “Hỉ Nguyệt đã xuất giá rồi, chắc hẳn Lý Hủ sẽ không làm khó một hạ nhân.”
“Khó nói.”
Hai chữ của Chung Dật dập tắt lạc quan trong cậu.
Trốn đi thế này, Chung Thế An đã suy xét đến từng chi tiết nhỏ, thậm chí không bị chênh lệch thời gian, vì muốn sư đồ bọn họ có thể bình an rời khỏi thành, nhưng chỉ không cân nhắc đến Hỉ Nguyệt. Giờ ngẫm lại, mới thấy hoảng sợ, tâm trạng hổ thẹn dâng lên, dù sao Hỉ Nguyệt đã chăm sóc cho cậu nhiều năm, nàng luôn đối xử với cậu như thân đệ đệ, mà giờ cậu bỏ trốn, thật sự sẽ đẩy Hỉ Nguyệt vào thế nước sôi lửa bỏng.
Chung Dật thấy Thế An nhíu chặt mày, mặt đầy sự xấu hổ, y không đành lòng nên dịu giọng hơn, “Chuyện đến nước này có lo lắng cũng vô dụng. Thế An, sau này ngươi không thể hành sự qua loa như thế, giữa sư sinh chúng ta còn có gì không thể bàn luận với nhau sao?”
Ý tứ là đang chỉ trích cậu dùng dược cưỡng ép y rời Ung thành, Chung Thế An cụp mắt, ngoan ngoãn nhận sai: “Tiên sinh nói có lý, Thế An đã biết sai.”
“Thôi, nhanh gửi một phong thư cho Hỉ Nguyệt, đi hay ở, cũng phải cho nàng sự chuẩn bị.”
“Thế An làm ngay đây!”
Chung Thế An vội đứng dậy, xốc mành xe ngựa lên, Ngô tướng quân thấy phía trước dừng lại, tưởng có chuyện gì nên vội vàng đá nhẹ vào bụng ngựa đuổi lên, căng thẳng hỏi: “Tam vương tử, có gì sao?”
Chung Thế An còn chưa mở miệng, khoảnh khắc mành che được xốc lên, Chung Dật với người cố hữu năm xưa bốn mắt nhìn nhau, tức thời bao nhiêu cảm xúc đan xen, cuối cùng không dằn được nhìn nhau gật đầu.
“Chung thái phó.”
“Ngô tướng quân.”
Chung Thế An nhìn tiên sinh rồi nhìn Ngô tướng quân, biết giao tình giữa hai người sâu đậm, thấy sắc mặt tiên sinh hòa dịu hơn, tâm tình cậu cũng tốt theo, nhưng không quên chính sự, nói: “Ngô tướng quân, có thể phiền ngươi tìm một ít giấy bút không, thị nữ của tiên sinh vẫn còn ở Ung thành, chúng ta đi thế này, nên sớm báo cho nàng để tránh bị liên lụy.”
Ngô Mặc chuyện nào ra chuyện đó, nhanh chóng ôm quyền nghiêm mặt nói: “Vâng, Tam vương tử.” Nói xong thì dặn xe ngựa tiếp tục đi, rồi phái người đi chuẩn bị giấy với bút mặc. Chờ có đầy đủ giấy bút, Chung Thế An lập tức cố sức viết trên chiếc giường nhỏ xóc nảy trong xe ngựa, lời ít ý nhiều nói rõ tình huống, xong sai người thận trọng đưa vào phủ Tướng quốc trong Ung thành.
Khắp người Chung Dật vẫn vô lực hư nhược, mềm oặt tựa trong góc, thấy Thế An đưa thư đến thì mới lên tiếng: “Chúng ta đi bao lâu rồi?”
“Một ngày hai đêm.”
Chung Dật tính tính thời gian, cũng chưa quá lâu, mới thoáng an lòng hơn.
Nhưng, cái người truyền tin đã qua 3 ngày rồi mà vẫn chưa trở về.
Vậy e rằng Hỉ Nguyệt lành ít dữ nhiều, Chung Thế An tự biết mình hành sự lỗ mãng, càng không dám nhìn thẳng vào Chung Dật. Còn tiên sinh, trông như cũng đã tự hiểu, nhưng đến nước này có nhiều lời cũng vô dụng, nên cậu không chủ động nhắc đến.
Ngày thứ tư, nhận được thư hồi báo, người được phái đi đưa thư bị quấn chặt trên lưng ngựa, tuy không có ngoại thương, nhưng nhiều ngày bị mất nước lẫn cạn lương thực lại thêm ánh mặt trời gay gắt nướng chín, hắn chỉ còn lại một hơi tàn, mọi người vội vàng cởi trói đỡ hắn xuống ngựa, một phong thư thiếp vàng dán kín miệng rơi xuống từ trên yên ngựa.
Ngô tướng quân trầm mặc cầm phong thư đến chỗ xe ngựa của Chung Dật, Thế An còn đang do dự cầm nó thì tiên sinh đã lấy từ tay cậu, vạch chỗ dán niêm phong ra. Thế An thấp thỏm nhìn tiên sinh, thấy y mở thư, liếc mắt nhìn vào trong, tức thời vành mắt đỏ ửng, Chung Dật nhắm mắt khép phong thư lại.
Chung Thế An lo âu, vội tiến lên cầm lấy phong thư, mở ra xem, bên trong trống rỗng, chỉ có một nhúm tóc đen lẳng lặng nằm đấy.
***
Ngày kế, cuối cùng đoàn người cũng đến bến đò Vị Hà, liên kết với hơn trăm tinh nhuệ tiếp ứng, không cần phải dùng xe ngựa che giấu hành tung, cưỡi ngựa thay đi bộ, không quá một ngày hành trình là đến nơi.
(*) Vị Hà hay còn gọi là sông Vị, tên sông bắt nguồn từ tỉnh Cam Túc, chảy qua tỉnh Thiểm Tây đổ vào sông Hoàng Hà, Trung Quốc.Tinh binh dẫn theo tiếp ứng là hai tiểu tướng đặc biệt trẻ tuổi, mới gặp mặt, Chung Dật nhận ra ngay một người trong đó, y ngạc nhiên gọi: “Ngọc Thương?”
Chung Ngọc Thương năm nay 21 tuổi, tính bối phận thì hẳn là chất nhi của Chung Dật, phụ thân của cậu ta, Chung Duẫn, là đường thân của Chung Dật, khi Chung Dật bãi miễn chức vụ, cũng không đứt mất liên lạc với Chung gia lúc trước, đứa bé vẫn rất dính y. Một nhà Chung Duẫn có thể xem là nhánh huyết mạch thân cận nhất của Chung gia ở hiện tại.
Trời vừa sáng Chung Ngọc Thương đã biết mình đến tiếp ứng ai, nên không quá bất ngờ, gương mặt tươi cười nhẹ nhàng gọi: “Chung Dật thúc phụ!”
Ngô tướng quân thoáng liếc mắt, kéo một thanh niên khác quay sang Chung Dật hỏi nửa đùa nửa thật: “Ồ, chỉ nhận ra một người thôi à. Còn đây không biết?”
“…Này.” Chung Dật xa lạ đánh giá tiểu tướng đứng cạnh Ngô tướng quân, người thiếu niên ấy chừng 16 tuổi, thể trạng cao lớn, mặt đầy chân chất, lông mày đen thô, ánh mắt nhìn mình nóng rực như muốn nổi lửa, nhưng mà gương mặt ấy thật sự rất lạ.
Chung Dật chỉ đành lắc lắc đầu, nhìn sang Ngô tướng quân: “Nhi tử của ngươi?”
Ngô tướng quân bị chọc tức đến bật cười: “Biến đi! Là nhi tử của ngươi thì có! Đây còn không phải là nhãi con ngươi đã thu dưỡng ở Lê Sơn Ung thành à.”
“…” Chung Dật há miệng, nhất thời không biết phải nói gì, vừa mừng vừa bất ngờ, hoàn toàn không ngờ đứa bé thể trạng gầy yếu bẩn thỉu 5 năm trước lại lớn lên cường tráng đến thế.
Chàng tiểu tướng đầy vẻ kích động, gãi gãi sau gáy, nói lắp bắp: “….Chung Chung Chung Chung.”
“….Chung cái rắm!” Ngô tướng quân nói chuyện thẳng thắn nhưng không ác ý, hắn cười sảng khoái, “Còn không lấy thư ra!”
“…” Chung Dật không hiểu gì cả nhìn người thanh niên, thấy cậu sau khi được nhắc thì tức tốc cúi đầu móc một phong thư từ sau lớp áp giáp, bước lên bỏ vào tay y.
Ngô tướng quân vuốt mũi cười nói: “Nhãi con này kích động là lại nói lắp, nãy nghe nói ngươi sẽ đến, vội lấy sách viết một phong thư, ngôn từ hết sức nịnh nọt, buồn nôn lắm.”
Chung Dật cầm thư mà không biết nói gì.
“….Chung Chung Chung…” Chàng thanh niên cười vô cùng phấn khích, thấy y không mở nó thì chỉ chỉ vào phong thư, nói không trọn một câu, đành sốt ruột chỉ vào phong thư.
Chung Dật mãi vẫn không có động tác gì là vì y thấy ngại. Nhớ lại năm đó, sở dĩ y thu nuôi đứa bé này vì nó xấp xỉ với vóc dáng và tuổi tác của Thế An, bởi vậy y mới có thể danh chính ngôn thuận lưu lại huyết thống cuối cùng của Dư gia.
Tính ra, y cũng chỉ chăm sóc cho đứa bé đâu chừng được mấy ngày, đã đưa cho Ngô tướng quân dẫn đi. Năm đó đứa bé không nói thạo còn lắp bắp, nên cả tên nó y cũng không hỏi. Mà giờ nó trổ mã cao lớn kiện tráng thế này, dù nhắc đến công lao thì cũng là công lao của Ngô tướng quân mới phải.
“…Ngô tướng quân, nó tên là gì?”
“Nó họ Hùng, gọi là Hùng Thiên Nhạc.”
Chung Dật trả lại phong thư: “Thiên Nhạc… Thư này, thật sự Chung mỗ nhận sẽ rất ngại.”
A Hùng cầm thư, nghiêng đầu nhìn y, dường như nghe không hiểu.
“Dạy dỗ trong quân doanh không phải là cái kiểu tinh tế có văn hóa đâu, Hùng Thiên Nhạc có khí lực lớn, lại chỉ biết đánh nhau, ngươi nói như thế với nó!” Ngô tướng quân cười to, liên tục xua tay, vươn cổ cười nói, “Nghe không hiểu đâu!”
Hùng Thiên Nhạc nhận lại thư, cậu không hề giận, lập tức móc ra một bao đồ từ túi da trâu bên hông, đẩy về phía Chung Dật: “…Hahaha nè.”
Đứa bé này thật sự rất thẳng thắn không cho ai từ chối, Ngô tướng quân lại đứng bên khuyên nhủ: “Ngươi nhận đi.”
Chung Dật chỉ có thể bất dĩ cười nhận, mở ra xem, là một bao mứt.
“Đa tạ.”
Lời vừa dứt, thì nghe phía sau truyền đến động tĩnh, Ngô tướng quân ngẩng đầu lên, đoàn người thu hồi lại vẻ mặt, cung kính ôm quyền cùng đồng thanh hô: “Tam vương tử.”
Chung Dật nghe họ hô, quay người lại thấy Thế An đã dắt hai con ngựa đến đứng sau. Đứa nhỏ sao có thể quen với những lễ tiết này, nhìn đoàn người hành lễ câu nệ như thế vội mất tự nhiên khoát tay: “Nhanh đứng dậy đừng đa lễ.” Nói xong, cậu giao dây cương ngựa cho sĩ binh đứng cạnh, dắt một con cao lớn khác lại đây: “…Tiên sinh, đoạn đường núi tiếp theo phải thay xe ngựa, Thế An chọn cho ngài một con ôn thuần dễ bảo rồi.”
“Phiền ngươi.” Chung Dật gật đầu.
Trong lòng Ngô tướng quân vẫn xem Thế An là huyết thống của vương thất nên không thể nói chuyện không câu nệ tiểu tiết như y, hắn nhanh chóng ôm quyền nói: “Tam vương tử, Chung đại nhân, mấy người Ngô mỗ cũng đi chuẩn bị đây, để kịp lúc xuất phát.”
“Ừ.”
Chung Thế An thấy Ngô tướng quân đi xa, quay lại nhìn tiên sinh thì vừa vặn bắt gặp y cất bọc giấy vào trong tay áo, lòng bỗng nhiên đăng đắng, nhưng không nói rõ ra, chỉ nói, “Tiên sinh, Thế An đỡ ngài lên ngựa.”
***
Chung Thế An thận trọng tự tay dìu tiên sinh lên ngựa, cậu còn đang lo lắng thì thấy Chung Dật bình thản cười với mình, nhằm bảo cậu cứ an tâm, rồi y đá nhẹ vào bụng ngựa, thúc ngựa đuổi theo Ngô tướng quân ở phía trước, đi lên đối mặt nhau, xong lại quay đầu ngựa nhìn cậu thúc giục.
“Thế An, không lên ngựa nổi à?”
Chung Thế An thấy dáng vẻ tiên sinh thúc ngựa mạnh mẽ, áo bào phần phật, đâu còn như một người 30, 40 tuổi, rõ ràng là một chàng thanh niên 20 tuổi, cậu nhìn mà vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ, vội nhận dây cương binh sĩ đưa đến, giẫm bàn đạp leo lên ngựa.
Mới 8 tuổi cậu đã bắt đầu học cưỡi ngựa, nhưng từ sau khi mất đi ký ức không cần dùng đến nữa, nên giờ khá bỡ ngỡ, xoay vài vòng tại chỗ mới tìm lại được chút cảm giác.
Ngô tướng quân thấy người bên cạnh cười sảng khoái, xung quanh cũng không còn người ai khác nên hơi ngại ngùng nói: “Năm đó dẫn đứa nhỏ đến chỗ ngươi, vốn cũng không muốn dẫn về lại, lần này đến Ung thành ta cứ nghĩ mãi, không biết bàn giao với ngươi thế nào.”
Chung Dật nghe vậy ý cười nhạt bớt, y nói: “Cũng không thể vì tư tâm của mình Chung mỗ mà chiếm đoạt không buông tay được.”
Hiển như, giống như trước đây, y vẫn rất ghi nhớ đại cục, tâm hướng về Dần quốc. Nhiều năm không gặp, thật ra Ngô tướng quân có trăm mối cảm xúc, hắn muốn nói lại thôi, hệ thống lại ngôn ngữ cả nửa buổi mới ngẩng đầu: “Dật tiên sinh, nói thật thì, rất cảm ơn ngài. Ngô Mặc ta là kẻ thô lỗ, không biết nên nói thế nào, thấy dáng dấp hiện tại của Tam vương tử, ta không biết phải cảm tạ thế nào.”
Chung Dật khiêm tốn lắc đầu, nhưng nhìn Chung Thế An cưỡi ngựa phía sau mà rơi vào trầm mặc.
Dáng dấp hiện tại… Dáng dấp hiện tại đến cùng là tốt hay xấu? Năm đó, đứa nhỏ đến Lê Sơn không nhớ được gì, 3 tuổi nhưng si ngốc ngơ ngẩn, cầm cái gì cũng tò mò lúng túng. Song nói sao đi chăng nữa, khó khăn lắm mới tránh được một kiếp, đại nạn mà không chết tất có hậu phúc. Nếu nó không nhớ ra được, có lẽ sẽ bình an hết đời này, sống tại Lê Sơn với tiểu tư thục.
Bây giờ nó nhớ lại tất cả, lòng sẽ có hận thù, sẽ trở lại Dần quân cũng là điều hợp tình hợp lý. Chỉ là, Tề quốc đã ổn định 5 năm, bây giờ quốc khố dồi dào, phồn vinh, thiết kỵ của Tề quân lên đến trăm vạn, thế như chẻ tre, mà Hoàng đế Lý Hủ chính trực tráng niên như mặt trời ban trưa, muốn đối nghịch Tề quốc với Lý Hủ thì nắm được bao nhiêu phần thắng chứ?
Y thấy Lý Hủ đã chuyển tầm mắt từ Đông Hải sang Tây Bắc, hành trình Tây Bắc lần này thật sự quá mức hung hiểm.
Chung Dật còn đang suy nghĩ những chuyện ấy, Chung Thế An lên ngựa loay quanh tại chỗ tìm được cảm giác rồi giục ngựa chạy đến: “Tiên sinh, Ngô tướng quân.”
Chung Dật gật đầu, thấy Ngô tướng quân ôm quyền cung kính nói: “Tam vương tử điện hạ” thì mới nhớ bây giờ không giống lúc xưa, nên cũng chắp tay hành lễ.
Chung Thế An vẫn không thoải mái, biết có nói nữa cũng phí công, cậu nhìn Ngô tướng quân, hỏi: “Tướng quân, lộ trình của chúng ta còn bao lâu?”
“Dần quân đóng quân ở trấn Ngọc Môn, chúng ta đổi thành ngựa thế này nhiều nhất chỉ 1 ngày.”
Chung Thế An hơi bất ngờ: “Chỗ này cách Gia Dự Quan gần vậy, lỡ Tề quốc xâm lấn, há chẳng phải Dần quân ở ngay nơi yếu hiểm?”
(*) Gia Dự Quan: Điểm cuối ở đoạn phía tây Trường Thành.“…” Ngô tướng quân không phủ nhận, nói, “Bây giờ Dần quân dựa vào người Hồ vùng quan ngoại, có thể có chỗ nghỉ lại như này đã là vạn hạnh rồi.”
(*) Quan ngoại: Vùng đất phía đông Sơn Hải Quan hoặc vùng đất phía tây Gia Cốc Quan, Trung Quốc.Có lẽ người Hồ chấp nhận hợp tác hoàn toàn là đang lợi dụng Dần quân bảo vệ cho cửa khẩu đầu tiên chỗ giáp giới.
Trong nhất thời, ba người đều không nói gì, là Chung Dật đánh vỡ sự trầm mặc trước, y nói hòa nhã: “Nói chung thì đến trấn Ngọc Môn rồi tính.”
“Vâng.”
Chung Thế An không nghĩ nhiều nữa, đang chuẩn bị theo Ngô tướng quân cùng đi thị sát để chuẩn bị khởi hành thì bỗng nhiên tầm mắt xoay chuyển, thấy một mũi tên lao ra từ bên góc.
“Điện hạ cẩn thận!” Ngô tướng quân nhanh chóng xuất đao, một đoạn mũi tên bị chém đứt, rớt xuống tách làm hai.
Ba người không kịp quan sát kỹ tình huống, thì một mũi tên nữa bắn ra từ rừng sâu, Ngô tướng quân hô quát Thế An đi ra sau hắn, ra sức chém rớt mũi tên, nhưng vẫn có một cái lọt qua được, cắm thẳng vào lưng ngựa Thế An cưỡi, con ngựa thoáng chốc chấn động, chân trước cong gập lại ngã xuống đất không đứng nổi, Chung Thế An bị té xuống.
“Thế An!”
Chung Dật hoảng sợ, may mà Ngô tướng quân nhanh tay nhanh mắt vội thúc ngựa vọt lên, nghiêng người đỡ lấy cánh tay của Thế An, kéo cậu ngồi sau lưng mình.
Hùng Thiên Nhạc và Chung Ngọc Thương nghỉ ngơi với cho ngựa ăn ở cách đó không xa, phát hiện động tĩnh thì tức tốc gọi người thúc ngựa chạy đến giải cứu. Vào tình huống bấy giờ đương nhiên phải lấy an nguy của Tam vương tử điện hạ làm đầu, Ngô tướng quân quay người chém rớt vài mũi tên, liếc mắt ra hiệu với Chung Dật, xong giục ngựa đến chỗ tập trung của quân đội để yêu cầu bảo hộ, Chung Dật quay đầu ngựa đi theo sát phía sau.
Vừa rồi mặc dù họ khá lơ là, vừa đi vừa chuyện trò. Nhưng cũng chưa đi quá xa, Ngô tướng quân giục ngựa chạy gấp là bắt gặp kỵ quân cưỡi đến, hắn dừng lại, quay đầu ngựa.
Lúc này hắn vừa yên lòng hơn, lại nghe thiếu niên ở sau hét lên một tiếng thê lương xé lòng vang vọng rừng sâu.
“Tiên sinh!!”
Hắn nhìn thấy trong khói bụi mù mịt của kỵ quân, tách ra một lối đi nhỏ, giữa kẽ hở không bụi lộ ra một thân hình lặng lẽ nằm đấy, lưng cắm một mũi tên, trông như không còn sức sống.