Có Gió Thổi Qua - Lại Lạnh Lùng

Chương 5

Sau nụ hôn mà cả hai chúng tôi đều ngỡ là lần cuối cùng, tôi bước lên một chuyến tàu gầm rú lao về phương Bắc, một chuyến đi có thể gọi là dứt khoát.

Từ khi sinh ra, tôi chưa từng đi xa đến thế. Con tàu vỏ xanh cứ lộc cộc lăn bánh về phía trước, và máu trong huyết quản tôi dường như cũng biến thành màu xanh ấy.

Đó là màu xanh um tươi mà tôi đã nhắc đến rất nhiều lần, trong cơ thể tôi trôi chảy những tán lá và bóng cây xanh biếc. Rễ của những cành lá ấy hóa thành những mạch máu xanh nổi lên dưới da tôi. Trần Vọng Trì đã hôn lên những mạch máu xanh ấy không biết bao nhiêu lần, đôi môi ẩm ướt của anh vừa chạm tới, tôi và anh đã chân trần lội qua con sông đầy cỏ và bèo tấm.

Tôi không có điện thoại, trên người chỉ có độc một tấm thẻ căn cước và ba trăm đồng trong ví. Ba trăm đồng đó tôi đã để dành như thế nào, tôi không còn nhớ nữa. Tôi chỉ nhớ lúc đó mình ngồi ở một ghế cạnh cửa sổ, đầu tựa vào tấm kính lạnh buốt, nhìn vô số cảnh vật trắng xóa lùi lại phía sau. Tôi có thể cảm nhận được hơi ấm đang dâng lên trong hốc mắt mình.

Thế nhưng tôi đã không khóc. Tôi cảm thấy một sự nhẹ nhõm như thể vừa được ngâm mình trong suối nước nóng giữa trời băng tuyết.

Những ngày tháng ở thị trấn nhỏ giống như ánh đèn đường hư ảo, thứ ánh sáng mông lung chiếu rọi trên con đường nhựa đen kịt. Tôi và Trần Vọng Trì đã dùng sự im lặng không lời để chống lại những ngày tháng đó. Hoặc có lẽ, chúng tôi chẳng hề chống lại.

Phần lớn thời gian, chúng tôi ngồi xổm trước cửa một quán net trong thị trấn, đùa nghịch với sự lãng mạn của màn đêm dưới ánh đèn, hoặc ngồi dưới gốc cây ngô đồng sau nhà, mặc cho những mầm cỏ sắc nhọn cứa vào mắt cá chân, để những giọt máu rỉ ra đổi màu dưới vòm lá. Tôi chẳng thấy đau chút nào, so với nỗi đau thể xác mà Trần Vọng Trì mang lại, rất lâu sau này tôi mới biết, những vết xước ấy chẳng đáng để nhắc tới.

Dưới bóng cây, chúng tôi l**m láp vết thương cho nhau. Ánh mắt anh đặt trên người tôi, còn ánh mắt tôi lại xuyên qua những kẽ lá trên đầu. Qua những kẽ lá ấy, tôi tưởng tượng ra hơi ấm của những tầng mây mềm mại, tưởng tượng xem mùa hè ở phương xa có ẩm ướt không, và cả sự tự do phóng khoáng đang ẩn mình nơi một góc nào đó.

Thế nên mỗi khi bước ra khỏi nơi ấy, tôi đều có một cảm giác nhẹ nhõm đến ngẩn ngơ trong chốc lát.

Vốn dĩ tôi không định dùng cách bỏ nhà ra đi này để phản đối quyết định tái hôn của cha. Thực ra, tôi chẳng hề bận tâm việc ông có tái hôn hay không, hay tại sao ông có thể nhanh chóng thoát khỏi nỗi đau mất mẹ đến thế. Người tôi bận tâm, chỉ có Trần Vọng Trì.

Chuyến tàu đi về phía Bắc được một tiếng, tôi bắt đầu tưởng tượng phản ứng của Trần Vọng Trì khi biết tôi đã bỏ đi. Nhưng thật ra, mục đích của tôi cũng không phải là chuyện đó.

Tôi thực sự không biết làm thế nào để tỏ ra bình tĩnh trước mặt Trần Vọng Trì, cũng thực sự không rõ phải xem anh như anh trai của mình bằng cách nào.

Anh trai, người anh trai sẽ có tên trong cùng một cuốn sổ hộ khẩu. Tôi khẽ lẩm nhẩm trong miệng.

Tấm kính cửa sổ bị hơi thở của tôi làm mờ đi một khoảng. Ngoài cửa sổ, tuyết bay tứ tung. Tôi nguệch ngoạc viết hai chữ “anh trai” lên vệt hơi ẩm đó.

Rồi lại nhẹ nhàng lau đi. Ngẩng đầu lên, toa tàu màu xanh dừng lại. Sân ga đã chật ních những hành khách vai mang túi lớn. Giữa những người đó, tôi thấy một người đàn ông cao gầy, đeo một cặp kính gọng trong suốt, vẻ mặt nhàn nhạt như thể có thể hòa tan vào một ly nước. Người bên cạnh anh ta đang khóc, tay níu nhẹ lấy áo anh ta. Cả hai đều im lặng, không ai nói một lời nào, nhưng chúng tôi đều biết đó là một cuộc chia ly.

Tôi vội quay đi, không dám nhìn thêm lần thứ hai.

Tôi không muốn rời xa Trần Vọng Trì.

━━━━━━━━━━

Lần đầu tiên rời khỏi thị trấn là để đuổi theo người mẹ đã bỏ đi, lần đó tôi làm mất một đôi giày. Lần thứ hai là một cuộc trốn chạy không mục đích.

Tại nơi mình đến, tôi tìm được một chỗ ở. Lúc đang ăn mì, tôi thấy ông chủ quán đang tuyển người, thế là sau khi được hỏi tuổi và quê quán, tôi lập tức ở lại trong cái quán nhỏ chưa đầy mười mét vuông ấy.

Ban ngày tôi làm việc trong quán, tối đến thỉnh thoảng lại chạy đến một ngôi chùa bỏ hoang cách đó hơn mười dặm. Tôi có một chiếc xe đạp bị người ta vứt đi, tình cờ nhặt được ở bãi rác. Để sửa nó, tôi đã tốn mất hai ngày tiền công.

Ngôi chùa hoang ấy được người ta gọi là “thảo nguyên”, và mỗi người đến đó vào ban đêm đều được gọi là “mục dân”. Theo như tôi biết, đó là một dạng mật hiệu.

Ngay lần đầu đến đó, tôi đã chú ý đến những ánh mắt sáng rực như lửa lân tinh, tựa như những đốm lửa hoang bùng lên giữa thảo nguyên. Những người mục dân của màn đêm giơ cao đuốc lửa đi xuyên qua thảo nguyên bao la. Tôi nghĩ, điều đó đã trở thành một dạng tín ngưỡng và chỗ dựa tinh thần.

Người dẫn tôi đến đó là một thanh niên tên Đậu Nha, lớn hơn tôi hai tuổi, người gầy gò như một đứa trẻ mười ba, mười bốn. Cậu ta không có gia đình, hai năm trước đã chạy đến thủ đô làm thuê, hiện đang phụ việc cho tiệm bột mì bên cạnh. Cậu ta bảo rằng, ngay từ lần đầu gặp tôi, cậu ta đã quyết định sẽ dẫn tôi đến ngôi chùa.

“Cậu sẽ thích cho mà xem.”

Cậu ta nói với tôi.

Sau này, trong ngôi chùa ấy, tôi để ý thấy ánh mắt của những người đó khi nhìn tôi, một ánh mắt dò xét, đánh giá và xác nhận. Cũng chỉ vài giây như vậy thôi, rồi họ lại tiếp tục việc của mình. Đậu Nha dẫn tôi đến một nơi hẻo lánh ít người, lấy ra hai điếu thuốc, đưa cho tôi một điếu.

“Tôi không hút thuốc.”

Tôi nói với cậu ta.

Cậu ta không tin, vì cách đó không lâu, cậu ta đã bắt gặp tôi đang trốn ở bức tường sau bếp để hút thuốc.

“Tôi thấy cậu hút rồi mà.”

Tôi lắc đầu, lặp lại câu nói đó.

“Tôi không hút thuốc.”

Đậu Nha không truy cứu tính xác thực trong lời nói của tôi nữa. Cậu ta châm một điếu thuốc, nhả ra một làn khói, rồi hỏi tôi tại sao lại đến đây.

Tôi ngửi thấy mùi thuốc lá rẻ tiền, nồng nặc đến khó chịu, nhưng lại không thấy khó ngửi chút nào.

“Đi bụi chứ gì.”

Cậu ta nói chen vào trước khi tôi kịp lên tiếng.

Tôi nhìn cậu ta. Cậu ta nhún đôi vai gầy gò, lắc cái đầu to hơn hẳn người thường.

“Chuyện thường thôi, ở đây nhiều người như vậy lắm.”

Cậu ta chỉ về phía đám đông ẩn mình trong bóng tối.

“Không ít người bất hòa với gia đình đâu.”

Tôi lại phản bác: “Tôi không bất hòa với gia đình.”

Tôi không bất hòa với Trần Vọng Trì.

Một điếu thuốc bị cậu ta rít vài hơi đã hết. Cậu ta tự nói với chính mình: “Đi bụi thì kiểu gì cũng sẽ về thôi. Tôi không có gia đình nên chẳng cần phải về.”

Nói xong câu đó, Đậu Nha liền đứng dậy rời đi. Cậu ta còn có việc khác ở đây, không thể chuyên tâm ngồi cùng tôi được.

Ngôi chùa đã đổ nát từ lâu, nhưng cây cối bên trong vẫn phát triển tốt. Khi đó là cuối đông đầu xuân, gió xuân lạnh lẽo của phương Bắc thổi về tứ phía. Tôi nhìn lên bầu trời đêm đen kịt, nhẩm tính xem mình đã rời thị trấn được bao lâu.

Đêm đông ở phương Bắc rất lạnh. Ông chủ đối xử với tôi rất tốt, dúi cả chăn nệm ông không dùng đến vào giường tôi, nhưng tôi vẫn thấy lạnh. Nửa đêm tỉnh giấc, ngón chân cứng đờ, tôi bắt đầu tưởng tượng về những mùa hè năm ấy, những mùa hè đã được niêm phong trong ký ức, năm hai nghìn không trăm linh tư, hoặc hai nghìn không trăm linh năm, hoặc hai nghìn không trăm linh sáu.

Hai tháng sau khi đến thủ đô, tôi có được chiếc điện thoại đầu tiên trong đời. Dù chỉ là một chiếc điện thoại cũ ông chủ không dùng nữa, tôi vẫn vô cùng biết ơn. Ngay khi mở máy, tôi mở danh bạ, bấm mấy con số.

– 0620

Sau đó tôi gõ tên Trần Vọng Trì.

Hai mươi tháng sáu là sinh nhật anh.

Không biết bao nhiêu lần tôi đã cuộn mình trong chăn, lật danh bạ tìm tên Trần Vọng Trì, gọi đến một số điện thoại không bao giờ có người bắt máy. Giọng nữ máy móc vang lên hết lần này đến lần khác. Tôi chưa bao giờ cảm thấy mùa đông lại lạnh lẽo đến thế.

Tôi như sắp chết trong mùa đông năm đó, chết ở thành Bắc Kinh.

Sau khi Đậu Nha đi, có một người đàn ông lại gần, ngồi xổm cạnh tôi. Thấy tôi nhìn trời, anh ta cũng ngẩng đầu lên, cuối cùng không nhịn được bèn hỏi tôi đang nhìn gì.

Tôi nói đang nhìn trăng.

Nửa vầng trăng bị mây dày che khuất, ánh trăng mờ ảo bị giam cầm trong đêm đen vô tận.

Anh ta hỏi có muốn chơi một chút không.

Mỗi người đến thảo nguyên đều là mục dân, họ có quy tắc sinh tồn và giao tiếp của riêng thảo nguyên.

Những cảm xúc căng phồng lúc trước lại trỗi dậy. Tôi nhớ đến những mầm cỏ đã đâm vào mắt cá chân mình, và gật đầu.

Thế nhưng khi người đàn ông đó sáp lại gần, tôi ngửi thấy mùi hôi thiu trên người anh ta, mùi thuốc lá xộc lên nồng nặc. Trong ánh đêm yếu ớt, tôi thoáng thấy chiếc răng sứt trên miệng anh ta.

Cuối cùng tôi vẫn đẩy anh ta ra và bỏ chạy.

Tôi chạy thục mạng ra khỏi cánh đồng hoang đó. Tôi không phải là một mục dân đủ tiêu chuẩn.

Tôi dừng lại trước một sạp bán quýt và mua hai quả.

Chủ sạp là một chị gái khoảng ba mươi tuổi, đứng sau có lẽ là con gái nhỏ của chị. Trời đêm quá lạnh, lúc tôi đến, hai mẹ con đang quây quần bên lò lửa sưởi ấm, trên vỉ sắt là hai trái quýt được nướng cháy vàng.

Chị chủ nhiệt tình hỏi tôi có muốn thử loại nóng không.

Trái quýt nóng bỏng vào miệng, vị đắng cháy thơm lừng lan vào tận tâm can.

Khoảnh khắc ấy, cơn gió lạnh của đêm đông và ánh trăng thanh nhã đều lặng lẽ len vào cơ thể tôi. Tôi biến thành một chiếc túi ni lông trắng bay phất phơ.

Một mùi hương khơi gợi cả một vùng ký ức. Tôi vẫn luôn cho rằng đây là một cách tự hành hạ bản thân rất hữu hiệu. Tôi thỉnh thoảng hút thuốc, mê đắm cái mùi vị của nó.

Cam cũng vậy.

Mặc dù cam và quýt là hai loại quả khác nhau.

Thế nhưng khi ngửi thấy mùi quýt nướng, những buổi hoàng hôn trên mặt biển và mùi tanh nồng của nước biển ẩm ướt lập tức hiện về.

Tôi nắm chặt trái quýt trong tay, những mảnh vỏ quýt đen rơi xuống chân. Tôi cắn miếng thịt quýt, và cuối cùng không kìm được nữa, gập người xuống bật khóc.

Khi đó, tôi đã rời xa Trần Vọng Trì hơn bốn tháng.

Bình Luận (0)
Comment