"Máu tươi nóng hổi bắn lên ba thước, cuối cùng vẫn rơi xuống nơi dơ bẩn hỗn loạn, nhuốm bụi trần."
...
Nhạn Nam quan cách hoang mạc Biên Châu khoảng bảy trăm dặm, phóng tầm mắt ra ngoài chỉ thấy một mảnh hoang vu thưa thớt, cát bụt đầy trời, mê man đến nỗi người đi đường cũng không mở mắt ra nổi.
Mao Dụ Tài dẫn theo tám trăm binh mã, ngựa không ngừng vó hai ngày một đêm, trực tiếp tìm đến một gian dịch quán trên ngọn núi phía Đông Nhạn Nam quan.
Nơi phụ cận ít người sinh sống, cũng không có thôn xóm. Dịch quán này là do nha phủ xây dựng, thường ngày chỉ dùng để đón tiếp những quan chức đi đường, không người dừng chân nghỉ trọ.
Thám tử được truyền lệnh đã lên ngựa đi tìm hiểu trước, trong dịch quán, trừ đội nhân mã hộ tống Liễu Hữu đến Biên Châu cũng chỉ còn dư lại mấy tên tạp dịch.
Ngũ Tu Hiền cho ông ta những tám phần mười nhân mã, mỗi người đều là tinh nhuệ, nếu như chỉ công lên dịch quán, vậy thì dễ như ăn cháo.
Mao Dụ Tài sốt ruột cứu giá, không kịp dừng chân nơi cát bụi mà sắp xếp điều tra rõ ràng để mai phục đã hạ lệnh vây chặn dịch quán này đến mức nước chảy cũng không lọt.
Ông ta dẫn vài tên tinh nhuệ đá cửa vọt vào, áp giải nhân mã bên trong dịch quán, giết đến trở tay không kịp.
Liễu Hữu cũng bị giữ lại, đột nhiên bị đè mạnh cằm xuống bàn trà, âm thầm giãy giụa hai lần, thấy Mao Dụ Tài nhanh chân tiến vào bèn vội hô lên nghênh đón: "Tướng quân, tướng quân! Tại hạ là Liễu Hữu!"
Mao Dụ Tài nắm trường kiếm, nghe tiếng đến gần, đánh giá quan phục Khải triều từ trên xuống dưới, ra lệnh cho tướng sĩ mở trói cho y trước, nhíu mày coi thường: "Ngươi chính là thiếu niên chim sáo đá kia?"
Liễu Hữu thoáng chỉnh lý lại áo quần một chút, mi tâm rũ xuống, cười cười chắp tay nói: "Tại hạ cung kính Mao tướng quân đã lâu..."
"Hoàng tôn ở đâu?" Mao Dụ Tài lạnh lùng ngắt lời y.
Họ Lưu ở Lũng Nam đã bị giết sạch cả rồi, giữa đất Tam Quận cũng không còn chỗ cho họ Lưu đặt chân, huống hồ Liễu Hữu này chỉ là con nuôi, không có tư cách ghi tên tuổi vào gia phả, lại còn làm quan dưới trướng Yến Hồng, trái phải không người tiếp đãi.
Liễu Hữu lặng lẽ cười, phảng phất như đang nghĩ xem nói thế nào cho có thể diện.
Mao Dụ Tài không chờ được, hung ác lườm y một cái, nâng kiếm đập lên bàn: "Nếu hoàng tôn và Thái tử phi có nửa điểm không ổn, cẩn thận cái mạng ngươi!"
"Tướng quân nói phải, tại hạ ắt sẽ dùng toàn bộ tính mạng mà bảo vệ hoàng tự và Thái tử phi, mấy ngày nay nào dám lười biếng nửa phần."
Liễu Hữu chắp tay cung kính: "Tướng quân, chỉ là tại hạ nhiều lời thêm một câu, xin hỏi Ngũ lão có đến không?"
Mao Dụ Tài ôm kiếm trước ngực, thoáng hạ thấp tư thái, nghiêng người nhìn y rồi nói: "Ta chính là người phụng mệnh Ngũ lão đến đây, chuyến này phải đưa hoàng tự và Thái tử phi bình an trở về Tam Quận. Nhạn Nam quan này tuy là nơi rách nát không người thăm hỏi, một nhóm binh mã cũng dễ dàng khiến người ta chú ý, chỉ cần đi nhanh về nhanh, sau khi đảm bảo hoàng tự không lo, trước hừng đông phải khởi hành về phía Nam ngay!"
"Chuyện này, e là không ổn đâu?"
Liễu Hữu hơi thẳng thân, muốn thương thảo cùng ông ta: "Tướng quân thần võ, đương nhiên là thừa sức hộ tống hoàng tự bình an hồi Tam Quận. Chỉ là hoàng tự bên ngoài chênh vênh đã nhiều năm, tùy tiện hồi triều cũng không hợp quy chế, dù sao Thái tử cũng không thể chính mắt nhìn con trai y xuất thế, chư thần Lâm Ân cũng chưa có ai từng thấy hoàng tự, tại hạ thật sự e sợ có người sẽ có ý đồ riêng, sau lưng chê trách hoàng tự thật giả. Ngũ lão chính là trọng thần cựu triều, lại là á phụ Thái tử, nhất ngôn cửu đỉnh, phải để ông tự thân đón hoàng tự về triều mới là thỏa đáng nhất."
Mao Dụ Tài nghe nói, chợt thấy y cũng là người hiểu đúng mực có mắt nhìn, sau khi làm khó cũng có mấy phần quen thuộc hơn: "Haiz, thật chẳng dám giấu giếm, việc này ta cũng nghĩ như vậy, còn khuyên bảo Ngũ lão. Có điều thật sự chẳng đúng thời cơ, trước mắt Nhị gia muốn từ Nghiệp Kinh quay về Tam Quận, Ngũ lão cũng không thể phân thân, khăng khăng phải đi đón Nhị gia trước."
Liễu Hữu thấp giọng: "Vậy Mao tướng quân có thể phái người thông báo với Ngũ lão một tiếng không? So với danh dự thuần khiết của hoàng tôn và Thái tử phi, chuyện đi Tam Quận cũng không tính là vội vàng."
"Chuyện này... Cũng không phải là không thể." Mao Dụ Tài cau mày, cũng nói nhỏ: "Chỉ e Ngũ lão sẽ không đáp ứng."
Chính vào lúc này, trong gian phòng trên lầu hai truyền tới thanh âm của một nữ tử, phá vỡ tiếng xì xào bàn tán của hai người: "Ngũ lão cũng chẳng nguyện hai mẹ con ta hồi triều, cần gì phải tìm nhiều lý do đến vậy..."
Mao Dụ Tào nghe tiếng, đáy lòng rớt "bịch" một tiếng, vội vàng quỳ xuống: "Thần Mao Dụ Tài, tham kiến Thái tử phi!"
Cửa gian phòng bị khóa chặt ấy từ từ mở ra.
Nữ tử kia đi ra, sắc mặt trắng trong đến mức thuần khiết có mấy phần tiều tụy, một bộ váy vóc vải thô, vốn là khăn bọc lên tóc, đôi giày trên chân lại mang theo tư thái bộ bộ sinh liên, đẹp mà chẳng tục, không hề có nét nào quyến rũ, trái lại còn ung dung hoa quý như thể nơi ấy chính là tọa liên của Phật tổ.
Nàng chính là Thái tử phi của Lâm Minh Chương, Khương Hi.
Mao Dụ Tài không dám nhìn thẳng vào nàng, dư quang liếc qua nam hài đứng bên thân Khương Hi, chỉ thấy mặt mày đứa bé này quả là giống Lâm Minh Chương y như đúc ra từ cùng một khuôn, hiển nhiên là dáng vẻ Thái tử khi còn nhỏ.
Ông ta sững sờ, nặng nề dập đầu trên đất: "Thần khấu khiến hoàng tôn..."
Những tướng sĩ bên trong dịch quán cũng cùng nhau quỳ xuống.
Đứa bé kia đối mặt với nhiều người như vậy, khuôn mặt non nớt lại chẳng có vẻ gì là sợ hãi, tay nhỏ kéo kéo ống tay áo Liễu Hữu: "Liễu đại nhân, bọn họ là người phương nào?"
Liễu Hữu khom lưng cúi đầu, cười nói: "Hồi tiểu hoàng tôn, bọn họ đều là những người cung nghênh ngài và Thái tử phi hồi Tam Quận, chỉ là người chân chính đón ngài còn chưa đến."
"Há." Hoàng tôn gật gật đầu, thoạt nhìn vô cùng tin cậy y: "Người không tới, vậy ta và mẫu hậu sẽ chờ thêm, nếu chờ lâu quá, ta và mẫu hậu sẽ đi Biên Châu với ngươi."
"Chuyện này... Không hay lắm đâu!" Mao Dụ Tài nở nụ cười gượng, ngữ khí lại mang theo mấy phần dỗ dành trẻ con: "Tiểu hoàng tôn có điều chẳng biết, Biên Châu kia là nơi cằn cỗi héo mòn, chẳng có thứ gì ăn ngon. Lại nói, Thái tử phi và hoàng tôn là những người thân thể thiên kim, sao có thể mạo hiểm đi tới nơi đó? Nhạn Nam quan chỉ cách Nghiệp Kinh có trăm dặm, nếu Khải Đế biết trọng phạm trong ngục đã bị hoán đổi, còn chạy ra ngoài, tất sẽ mang binh vây quét! Khẩn cầu Thái tử phi và hoàng tôn cùng thần trở về trước, thần sẽ dốc lòng bảo toàn Thái tử phi và hoàng tôn chu toàn!"
Hoàng tôn liếc mắt nhìn ông ta một cái, chẳng hề phản ứng.
Trái lại tầm mắt thanh lãnh của Khương Hi thoáng dừng lại, hỏi: "Bổn cung nhận ra ngươi, ngươi chính là nhi tử của Mao Uất tướng quân?"
Mao Dụ Tài sững sờ: "Chính là thần!"
"Trước đây Mao Uất tướng quân vào sinh ra tử cùng Ngũ lão, là người trung tâm vô cùng đáng tin cậy. Bổn cung có nhớ chiến dịch Lạc Hà năm ấy, vì cứu Thái tử, Mao Uất tướng quân mới xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Lại nghĩ, nhi tử của ông hẳn cũng sẽ không thua kém là bao."
Mao Dụ Tài nhớ tới vong phụ, nhớ tới gia tộc còn chưa chấn hưng, một bầu máu nóng không ngừng chuyển động, cắn răng nói: "Chỉ cần là vì hoàng tự, vì Đại Ân, thần có đầu rơi máu chảy, vạn tử cũng chẳng chối từ!"
Khương Hi nở nụ cười cực kỳ nhạt nhẽo, chậm rãi đi tới trước mặt Mao Dụ Tài. Liễu Hữu khom lưng nhường đường cho nàng ta, dắt hoàng tôn trong tay mình.
"Mao tướng quân quá lời, trái lại cũng chẳng cần vạn tử..."
Lời còn chưa dứt, Khương Hi đã lấy từ trong tay áo ra một lưỡi dao sắc.
Bão cát bên ngoài bọc kín bóng đêm chẳng ánh trăng sao, sánh cùng trời đất hệt như ác ma mị quỷ, mờ mịt đần độn.
Máu tươi nóng hổi bắn lên ba thước, cuối cùng vẫn rơi xuống nơi dơ bẩn hỗn loạn, nhuốm bụi trần.
Mao Dụ Tài dùng kiếm chống đất trong phút chốc, cuối cùng vẫn ngã khuỵu xuống, đôi mắt trắng dã hơi lồi ra vì dùng sức dính đất trước tiên.
Chủ tướng tắt thở, chúng tướng sĩ kinh ngạc, cầm kiếm nhìn ba người kia, nhất thời không biết nên tiến thoái làm sao.
"Chư vị không cần kinh hoảng..."
Liễu Hữu cười chẳng rõ tiếng, tiếng gió lao đao trộn lẫn tiếng người: "Vừa rồi mọi người đều nghe thấy được, Mao tướng quân cam nguyện hy sinh vì Thái tử phi và hoàng tôn. Đợi khi hoàng tôn trở về với triều đình Đại Ân, ông ta sẽ là công thần hạng nhất, chư vị cũng đều là công thần."
Thân tín của Mao Dụ Tài đứng dậy, mũi kiếm nhắm thẳng vào Khương Hi: "Tâm địa phụ nhân này đúng là độc ác! Mao tướng quân một lòng muốn tới cứu giúp hoàng tự, ngươi nào đến nỗi này!"
Khương Hi chỉ dùng vải bố thô ráp lau chùi dao găm, mặt vô thần sắc.
Liễu Hữu hơi nhướng một bên lông mày lên: "Vị quan quân này hà cớ gì phải nói năng lỗ mãng, Thái tử phi còn ở trước mặt, phải ăn nói cho cẩn thận."
Lại có một tướng sĩ khác không nhịn được xen mồm: "Nói cẩn thận cái rắm! Muốn để Ngũ lão đích thân đón về Tam Quận, chẳng phải là muốn nhi tử của mình đạp lên thúc thúc hắn, tương lai dễ dàng thượng vị, cũng chẳng nhìn lại xem thằng nhóc này đã mọc đủ lông đủ cánh hay chưa! Lòng Ngũ lão tự có quyết đoán, nếu muốn nâng đỡ nhi tử ngươi làm Hoàng Đế, ắt đã tới từ sớm rồi!"
Lúc này, Khương Hi mới không vui mà liếc mắt nhìn đám người kia một cái, thu hồi dao găm.
Nhiều người tức giận khó bình.
Tướng sĩ trong quân coi trọng nhất là tình cảm vào sinh ra tử, nếu như không còn thống soái, Thiên Hoàng lão tử cũng chẳng là gì trong mắt họ.
Nhưng bọn họ còn chưa kịp rút kiếm, đã nghe đến mấy chục tiếng nổ, nhất thời những huynh đệ đang mai phục bên ngoài dịch quán cũng nổ thành máu thịt be bét.
Tiếng kêu rên bi thương liên tục vang lên, thậm chí còn có tay chân đứt đoạn bắn tung tóe lên cửa sổ.
Bọn họ không ứng phó kịp, lúc này mới nghe có người la hét đến tê tâm liệt phế giữa tiếng cát đá nổ tung trời: "Có mai phục! Là, là Hỏa Môn Thương! Chạy mau!..."
...
Trúc Sinh đến cùng vẫn có tính tình trẻ con, đồng hành cùng Lâm Kinh Phác ba ngày bèn buông phòng bị nhát gan xuống, dần dần quen thuộc.
Sau giờ Ngọ, nó không ngủ được, bèn năn nỉ Lâm Kinh Phác giảng cố sự Đại Ân cho nghe.
Cố sự của một vương triều, giảng một đường cũng chẳng xong được, Lâm Kinh Phác bèn nói tiếp chuyện hôm qua.
Sau một lại, Trúc Sinh thành thật hỏi: "Cữu cữu, ngày hôm trước ngươi mới nói với ta, đọc sách mới là chính đạo thống trị thiên hạ, nhưng tại sao năm ấy Thái tử lại trọng dụng nhiều võ quan như vậy?"
"Vấn đề này của ngươi rất hay." Lâm Kinh Phác nở nụ cười, kiên trì giảng giải: "Chức quan văn trong triều đình Đại Ân đã bị thế gia lũng đoạn, đa số khoa cử đều trở thành thủ đoạn để thế gia cất nhắc người trong nhà, bởi vậy cũng có rất nhiều người không đủ tư cách làm quan. Có điều công danh võ quan lại hoàn toàn dựa vào từng lần thắng trận, đây là chuyện con cháu thế gia không thể nào đạt được thông qua đường tắt, bằng không đánh bại trận sẽ dễ dàng mất mạng, vì vậy trong triều mới có những nhân vật lợi hại như Tào tướng quân, như là á phụ. Còn nữa, Đại Ân là quốc gia thượng võ, từ nhỏ con cháu quý tộc bất luận nam nữ đều có thể khởi công xây đắp tập tành kiếm pháp, bắn cung cưỡi ngựa. Từ nhỏ thân thể ta đã không tốt nên mới chưa từng tập võ, còn hoàng huynh đã từng mang binh xuất chinh rất nhiều lần, khi hoàng tẩu còn chưa lấy chồng cũng từng nữ giả nam trang lẫn vào quân doanh, ra trận giết địch cùng các tướng sĩ, ắt thân thủ cũng không tồi."
Trúc Sinh nghe đến mê mẩn, Lâm Kinh Phác lại nghe có người ra roi thúc ngựa chạy tới.
"Nhị gia, Ngũ lão, cấp báo! Cấp báo!..."
Con ngựa kia chạy trốn quá gấp, vừa dừng lại đã ngã vật xuống đất, gần như mệt đến chết.
Một binh sĩ ngã từ trên ngựa xuống, dựa vào chút sức lực cuối cùng mà liên tục lăn đến quỳ gối trước mặt Ngũ Tu Hiền, Lâm Kinh Phác nghe tiếng cũng lập tức vén rèm mà ra.
"Đã xảy ra chuyện gì?"
Binh sĩ kia miệng khô lưỡi khô, mang theo đau đớn thê thảm mà khóc nức nở: "Mao tướng quân suất lĩnh nhóm chúng ta tìm tới Nhạn Nam quan, quả thực đã gặp được Thái tử phi và tiểu hoàng tôn, ai ngờ, ai ngờ rằng có người mai phục rất nhiều Hỏa Môn Thương ở Nhạn Nam quân, tám trăm tướng sĩ chúng ta... Toàn quân bị diệt rồi!"