27
Ánh bình minh vào một năm nọ. Mây mù buổi sớm từ từ tản ra, từ góc nhìn của chú chuột chũi vừa chui khỏi lỗ, dường như tất cả không khác gì so với mọi ngày. Chú không chú ý tới thứ đứng thẳng như tường thành ở phía xa là gì. Buổi sáng hôm nay thật sự yên tĩnh mười phần, yên tĩnh đến mức làm người ta có chút hoảng hốt, tiếng chim hót thường nghe trước đây, tiếng thỏ hoang băng qua bãi cỏ, cũng không còn nữa.
Một âm thanh chấn động cực kì nặng nề làm chú hoảng sợ, nhảy thẳng xuống dưới đất. Nhưng bùn đất cũng đang chấn động, tiếng thứ hai, tiếng thứ ba, như sấm sét giáng xuống mặt đất. Thanh âm này càng ngày càng gấp gáp, nối liên tục, cỏ cây run bần bật, hạt cát nhảy nhót. Đột nhiên, tựa như tiếng gầm của một con thú khổng lồ, một tiếng hí dài vút thẳng lên mây, ngay sau đó mấy trăm con thú lớn cùng lúc gầm thét, thanh âm này đến ngoài mười dặm chắc chắn vẫn nghe thấy, chuột chũi chui vào chỗ sâu nhất trong lỗ, run lẩy bẩy. Lúc này, chú cảm thấy mặt đất hơi rung chuyển, đó là mấy vạn đôi chân trên thảo nguyên, đang cùng lúc bước một bước đầu tiên về phía trước.
Ánh bình minh vào một năm nọ, trên bình nguyên Thiên Khải bày ra gần ba mươi vạn đại quân. Cuộc chiến Thiên Khải thành đã khai hỏa.
28
Mây mù buổi sớm tản đi, ánh nắng dần mạnh lên, trên bình nguyên trải rộng một lớp vàng sáng. Quân trận ở hai phía bình nguyên trầm mặc đứng sừng sững, như hai dãy núi liên miên.
Đã bao lâu không đánh một trận lớn như vậy? Đám chư hầu nghĩ, mười năm? Một trăm năm? Hầu như đã tập trung toàn bộ quân lực Đông Lục, liều mạng đánh một trận với liên quân tám bộ du mục Bắc Lục. Trận này, có lẽ sẽ quyết định số phận của thiên hạ trong mười năm, một trăm năm nữa. Mỗi người trên chiến trường hôm nay, khi chết đều có thể nói, ta từng tham dự trận chiến quyết định sự tồn vong của đế quốc có niên đại ba trăm năm, đời này không còn gì tiếc nuối nữa.
Khoảnh khắc vân thời*, trong trận Hữu Kim truyền ra tiếng kèn lệnh thật dài. Cờ hiệu Hữu Kim bắt đầu được phất lên.
*Vẫn chỗ vướng mắc cũ ở chương một, vân thời với thương thời ấy. Chẳng lẽ vân thời là lúc trời nhiều mây?
Mục Như Hàn Giang thúc ngựa lên đài cao để quan sát địch, thấy ở phía chân trời u ám đằng xa, có hai cỗ kỵ quân tuôn ra từ trận doanh Hữu Kim.
Các doanh liên quân cũng bắt đầu hốt hoảng, một mảnh ầm ĩ, hoang mang rối loạn tiến vào chiến trận. “Động tác nhanh lên!” Các quan tướng hổn hển quát, sĩ tốt lúng túng chạy, đại trận có chút rối loạn.
Mục Như Hàn Giang quay người, quát các tướng lĩnh bên cạnh: “Cờ soái chưa động, kèn lệnh chưa thổi, đã có tiền quân phòng thủ, sao các bộ khác lại tự ý biến thành trận đón đánh?” Tham tướng Hàn Hoán của Thái thú Thanh Đông đứng một bên nói: “Bọn họ sợ tướng quân điều động lầm, ngựa của quân Hữu Kim nhanh, xông tới trước trận thì đã muộn.”
Mục Như Hàn Giang lông mày dựng đứng, cả giận nói: “Đã tôn ta làm soái, nhưng lại không tin ta — truyền lệnh của ta xuống, còn kẻ nào cờ soái chưa động đã tự ý biến trận, xử theo quân pháp!”
Dù lệnh đã được truyền ra, nhưng Mục Như Hàn Giang từ trên đài cao nhìn xuống, binh sĩ các doanh chen chúc lộn xộn, tiến lùi đều khó, chàng nắm chặt tay, trong lòng tức giận. Không tuân quân lệnh thế này thì đánh trận kiểu gì? Dù có trận pháp mưu lược, mỗi đạo quân lệnh đều tới tận tối mới chấp hành, thì thời cơ đã sớm mất hết. Đám thái thú chư hầu đều không phải kẻ tầm thường, tuy nhiên chẳng ai chịu tin ai, không yên tâm hoàn toàn nghe lời chỉ huy của người khác, đều cố sống cố chết quản quân đội của chính mình. Chủ soái như chàng, trận chiến như thế này, chỉ sợ sẽ trở thành trò cười.
Thở dài một hơi, Mục Như Hàn Giang tựa hồ đã thấy được kết cục của trận chiến.
Hai đội quân Hữu Kim xuất doanh đi dạo một vòng, cách liên quân còn năm, sáu dặm thì lại chạy về doanh. Liên quân các trận liền chuyển về trận hình đợi lệnh. Nhưng một lúc sau, mới vào lôi thời, trong doanh Hữu Kim lại vang tiếng kèn lệnh, tiếp tục có hai đội kỵ binh xông ra.
“Tướng quân, chúng lại xông tới, có nên dàn trận xuất kích?” Tham tướng hỏi.
Mục Như Hàn Giang liếc mắt đã nhận ra, đây không phải hai đội vừa nãy, kỵ binh Hữu Kim tộc đang thay phiên xuất trận, thực hiện kế quấy rối. Cờ hiệu của quân chủ lực còn chưa động, các đội nhỏ luân phiên xuất doanh chính là muốn khiến Đoan quân mệt mỏi.
Chàng khoát khoát tay, vẫn chưa hiệu lệnh toàn quân dàn trận. Nhưng quân chư hầu của vài doanh lớn vẫn kinh hoảng biến trận một lần. Còn có tướng lĩnh phi ngựa tới trách cứ: “Có phải nguyên soái đang ngủ không, rõ ràng quân Hữu Kim đã xuất kích, sao vẫn chưa mệnh lệnh toàn quân dàn trận đón địch? Mà lại lệnh cho toàn quân ngồi xuống nghỉ ngơi, chỉnh đốn hàng ngũ đợi lệnh?”
Mục Như Hàn Giang chỉ cười khổ. Nếu chủ lực Hữu Kim chưa động, thấy Đoan quân dàn trận, chỉ sợ Thạc Phong Hòa Diệp sẽ lệnh cho các bộ luân phiên xuất doanh dắt ngựa đi dạo, khiến liên quân phơi nắng cả ngày dưới mặt trời.
Tới khi lôi thời hết, kèn lệnh Hữu Kim lại vang lên, kỵ binh xông ra, đám chư hầu lại kinh hoảng lần nữa, nhưng vẫn chỉ là quấy nhiễu.
Mục Như Hàn Giang biết cứ kéo dài như vậy binh tất loạn, nhưng lại không sao khiến chư hầu tin tưởng mình, an tâm đợi hiệu lệnh. Nếu hiện tại chàng có một đội kỵ quân đã dùng quen, thì có thể chủ động tập kích quấy rối đối phương, nhưng lại không có. Quân chư hầu đa số là bộ binh, không thể cơ động đối chọi với kỵ binh trên bình nguyên, mới rơi vào thế bị động.
Vào lúc vân sơ nhị khắc, kèn lệnh của Hữu Kim tộc lại nổi lên, lần này chư hầu các doanh trở nên uể oải, các binh sĩ không còn vội vàng dàn trận nữa. Nhưng Mục Như Hàn Giang đột nhiên thấy, cờ hiệu các bộ trong doanh Hữu Kim bắt đầu phất lên, quân do thám phía trước cũng thả chim đưa tin về, ý bảo chủ lực Hữu Kim xuất động. Chàng lập tức cho thổi kèn lệnh, giơ cao cờ lệnh, toàn quân dàn trận.
Khi chư hầu các doanh dựa theo vị trí lúc trước sắp xếp đội ngũ xong, quân Hữu Kim đã bắt đầu dàn trận trên sườn núi phía Bắc, đại quân chậm rãi triển khai, một dải đen dày đặc ban đầu, đã biến thành sóng đen bao trùm vùng đồng trống.
29
Kỵ quân Hữu Kim chỉ có năm vạn, năm vạn khác là phản quân Đoan triều của Khang Hữu Thành, nhưng cờ hiệu nghiêm minh, tung hoành có trật tự, cũng là một đội quân tinh nhuệ.
Đại trận quân Hữu Kim bên kia đã bố trí xong xuôi, chư hầu các doanh bên này vẫn còn vài đội chen chúc một chỗ, các trận đều chưa thành hình, binh sĩ vội vã chạy lung tung. Nếu quân Hữu Kim phát động công kích vào lúc này, chỉ sợ liên quân sẽ lập tức tan tác. May là Mục Như Hàn Giang trước đó đã cắm vô số chông sắt và hàng rào trước trận, lại bày mấy đạo cung tiễn trận, Thạc Phong Hòa Diệp kiêng kỵ uy danh của Mục Như gia, mới không ra lệnh toàn quân trực tiếp xông lên.
Vân thời tứ khắc, trong quân Hữu Kim phát ra tiếng tù và dài, đó là tín hiệu bắt đầu tiến công. Bộ binh tiên phong Hữu Kim bắt đầu chậm rãi đẩy mạnh về phía trước. Ba ngàn cung tiễn thủ tiên phong của Đoan quân lắp tên lên cung, đợi lệnh.
Từ nơi phát ra tiếng tù và, sáu trận lớn vuông vắn của bộ quân Bắc Phủ dưới quyền Khang Hữu Thành bắt đầu kích trống tiến về phía trước, như sáu tòa núi lớn áp về phía chiến trường.
Vân thời hết, tiền trận quân Bắc Phủ đã tới nơi cách tiền trận của Đoan quân một dặm. Hai bên đứng yên trong chốc lát, bỗng nhiên trống trận trong quân Bắc Phủ đánh dồn dập, quân đao thuẫn tiền phương chạy tách về hai mặt. Quân chư hầu tưởng kỵ binh sắp xông lên, tay cầm cung của tiễn quân ở tiền tuyến đều đầy mồ hôi.
Nhưng khi không còn gì che khuất, thứ hiện ra không phải kỵ quân Hữu Kim, mà là một đống vũ khí lớn bằng sắt đen sì, mặt trên toàn bộ đều là mũi nhọn, thoạt nhìn nặng nề không gì sánh được, bên dưới lăn thân gỗ bọc sắt làm bánh xe, được đẩy đi ầm ầm.
Mục Như Hàn Giang trên đài cao thầm kêu không xong. Vốn tưởng rằng tộc du mục Hữu Kim chỉ thạo cưỡi ngựa, không giỏi công thành, không ngờ cũng bắt đầu dùng xe đập thành. Đây chắc chắn là thiết kế mà phản tướng Khang Hữu Thành dâng lên.
Các tiễn thủ tiền phương thấy xe đập thành được đẩy ra, nhất thời đều sững người, xe bọc sắt như vậy, người núp phía dưới đẩy đi, tên bắn không lọt, thương đâm không qua, lửa đốt không cháy, làm sao ứng phó?
Lúc này Mục Như Hàn Giang truyền lệnh tới, bắn tên ba đợt, rồi lập tức lui về trận tuyến thứ hai.
Cung tiễn thủ bắn tên ra, quả nhiên như trứng chọi đá, trận xe đập thành vẫn được vững vàng đẩy thẳng tới. Bỗng nhiên từ trong trận xe đập thành vang lên một hồi tiếng gõ, phía sau xe b ắn ra vô số tên nỏ. Ba ngàn quân cung tiễn xôn xao rồi ngã xuống khắp nơi, Mục Như Hàn Giang hạ lệnh lui về phía sau, các cung tiễn thủ cuống quít chạy về trận tuyến thứ hai.
Đoan quân nhìn trận thế xe đập thành được đẩy lên như một bức tường sắt kín kẽ, dễ dàng nghiền hàng rào gỗ và chông sắt trong trận thứ nhất xuống bùn đất, không khỏi hãi hùng: nếu đây là xương thịt người phàm, bị đụng chẳng phải đều biến thành thịt nát? Từ các trận bắt đầu truyền đến tiếng kêu kinh hãi.
Trận xe đụng dễ dàng phá trận tuyến thứ nhất của Đoan quân, tiến về phía trận thứ hai. Khi xe đến sát trận, vù vù ầm ầm, Đoan quân rút dây chão, kéo vô số bàn chông buộc từ những thanh gỗ tròn từ dưới đất lên, mặt đất nhất thời sụp xuống, thì ra đã sớm đào xong chiến hào vừa dài vừa sâu, cỗ xe đụng kia cồng kềnh không hãm lại được, hàng chục chiếc ầm ầm rơi xuống, Đoan quân hoan hô vang dội.
Nhưng quân Bắc Phủ không ngừng lại, vẫn một mực đẩy về phía trước, những cỗ xe đụng trong khoảnh khắc lại rơi xuống gần trăm chiếc. Những thân xe khổng lồ nhất thời lấp đầy đến hơn nửa chiến hào, tấm sắt phía sau xe đụng mở ra, thứ chở bên trong chính là đất cát, rào rào đổ xuống chiến hào, quân sĩ Hữu Kim từ trong xe nhảy ra, bắt đầu lấy ván gỗ, muốn lấp hào trải đường.
Tiễn thủ của Đoan quân nhích lên vài bước, thừa cơ bắn một loạt tên, nhưng quân lệnh phía Hữu Kim cực nghiêm, quân sĩ thà bị bắn chết cũng quyết không chạy trốn, đội này bất chấp mưa tên ngã xuống thì lại có đội khác xông lên, dường như muốn dùng thi thể lấp đầy chiến hào.
Lúc này lại có tiếng gõ làm hiệu, nỏ sắt trong xe bắt đầu bắn, vù vù vù vù liên thanh, trên không tên dày như châu chấu, đến khi rơi xuống, trong hàng ngũ tiễn thủ Đoan quân liên tục vang lên tiếng kêu thảm thiết thấu trời, nỏ mạnh như vậy, lập tức xuyên qua người. Trong trận thân thể tàn phế khắp nơi, một lúc đã mất đến nửa số người.
Mục Như Hàn Giang phất cờ lệnh, hô to: “Không được lùi lại, xông lên phía trước, bắn với khoảng cách gần!”
Trong trận Đoan quân nổi trống, cung tiễn thủ bất chấp mưa tên đầy trời, khom lưng xông về phía trước, ra khỏi tầm bắn gần nhất của nỏ sắt, tới bên chiến hào, nhắm chuẩn vào quân địch chỉ cách bờ bên kia chiến hào mười mấy thước mà bắn. Các cung tiễn thủ chưa từng bắn địch với cự ly gần tới vậy, mắt thấy người bị bắn trúng ngã xuống ngay trước mắt, nhìn rõ mặt mũi, tiếng kêu thảm vang ngay bên tai, cũng không vì vậy mà run sợ. Còn quân Bắc Phủ bên kia, dù thấy đối diện có người nhắm thẳng vào mình, không thể xông lên, cũng không thể lùi bước, chỉ có một con tim bất khuất, không nhìn kẻ địch nữa, cúi đầu lấp hào, đến khi bị tên nhọn bắn ngã.
Nhưng phía trước của xe đụng mở ra một ô cửa nhỏ, tên nỏ lại từ đó b ắn ra, lực bắn mạnh không gì sánh được, bắn trúng thân người, chỉ “Phập” một tiếng người nọ sẽ bay thẳng về phía sau cả trượng mới rớt xuống đất, cán tên thô to xuyên qua thân thể, còn rung bần bật trên mặt đất.
Có tiễn thủ sợ vỡ mật, quay đầu chạy trốn về. Nhưng Đoan quân không thể để đào binh trở lại trận của mình, quan tướng hộ trận vẫy cờ lệnh, bắn chết các binh sĩ trốn về ngay trước trận.
Ba ngàn tiễn quân, chưa đến nửa khắc đã tử thương gần hết.
Hai bên chiến hào đều chất đầy thi thể. Rốt cục cũng lấp chiến hào ra được rất nhiều lối đi, xe đụng lại bắt đầu đẩy mạnh về phía trước. Đoan quân lại tưới dầu lên đống nhánh cây trước trận, cháy thành một đai lửa. Dù xe đụng không sợ lửa, nhưng quân Bắc Phủ đẩy xe cũng không thể vượt qua, vậy nên lại ngừng, quân sĩ lao ra, dùng bùn đất đắp lên đai lửa tạo thành lối đi. Đoan quân dùng hỏa tiễn bắn liên tục, hàng ngũ quân Hữu Kim chìm trong biển lửa, người bắt lửa cháy như bó đuốc chạy lung tung, rất nhiều người tự đâm vào mũi nhọn trên xe đụng mà chết.