Từ Dĩnh Đô mà xuất phát, đầu tiên chiếc xe sẽ đi theo hướng đông nam, đến Thạch Thủ sẽ theo đường thủy đi về hướng tây nam. Đã đi được nửa ngày đường rồi, con đường thủy ở phía trước dần dần hẹp lại, những cây cổ thụ hai bên bờ cao đến tận trời, tiếng vượn hú nghe như tiếng than khóc, chiếc thuyền lớn chở Phạm Lãi và Văn Chủng đã không thể nào tiến thêm được nữa, họ chỉ đành xuống thuyền đi bộ. Lại đi thêm một canh giờ nữa, thì ngay cả con đường mòn gần như cũng không còn thấy, đó là một lối đi nhỏ mọc đầy cỏ dại mà dường như trước kia đã từng là một con đường, những viên đá vụn rơi xuống từ hai bên sườn núi sau mùa mưa làm tắc nghẽn phần lớn con đường, đường như thế đi lại rất khó khăn, lúc thì bước thấp lúc thì bước cao, Phạm Lãi, Văn Chủng và cả những võ sĩ đi theo đều mồ hôi mồ kê nhễ nhại.
“Thiếu Bá cẩn thận !” Văn Chủng đột nhiên kéo cánh tay Phạm Lãi lại, Phạm Lãi dừng bước, nhìn về phía trước theo hướng mắt của Văn Chủng, bất giác như hút phải một luồng hơi lạnh, hắn nhìn thấy một con rắn to lớn hoa văn ngũ sắc, đang ngẩng đầu lè lưỡi, hiên ngang nằm chặn trên con đường, vì con đường này mọc đầy cỏ dại, nên cũng không nhìn rõ là con rắn này rốt cuộc là dài bao nhiêu, chỉ thấy nó ngẩng cao phần đầu, thì đã cách mặt đất hơn ba thước.
Chiếc đầu hình tam giác của con rắn lớn như cái chén, trên đó đầy những con sâu độc, đôi mắt nhìn thẳng, như không coi ai ra gì, chiếc lưỡi dài màu đỏ không ngừng thụt ra thụt vào, nó uể oải bò trên một bên con đường. Phạm Lãi vội vàng nắm chặt cây kiếm, và đám người Văn Chủng nín thở đứng yên, chỉ e kinh động đến con rắn độc này sẽ bị nó nuốt chửng mất. Con rắn này như đang duyệt binh vậy, với một điệu bộ vô cùng cao quý, nó bò ngang qua và đi mất, bất chấp ánh mắt chăm chú nhìn của hai vị đại phu, và hai mươi tên võ sĩ.
Phạm Lãi thở dài thườn thượt, núi rừng xanh um tươi tốt ở phía trước, rừng sâu cây nhiều, cao đến nỗi che hết cả bầu trời, khiến cho con đường mòn vừa ẩm ướt lại vừa âm u. Một võ sĩ tay cầm cây kiếm sắc bén, vừa cẩn thận dọn những cây cỏ ở hai bên để mở đường, vừa lẩm bẩm tự nói: “Trên này à, đâu chỉ có mỗi rắn độc muỗi độc, ngay cả sói lang mãnh hổ, cũng nhiều vô kể, mong là chúng ta có thể bình an mà đến nơi.”
Những người còn lại đều im lặng, nhưng trong lòng họ lại thầm cầu nguyện, tiếp tục đi về phía trước, vượt qua một cánh rừng núi non trùng điệp. Dưới sườn dốc phía trước là một phiến đá đen xì, phía bên này nham thạch liền thành một khối, mỗi khi mưa lớn liền được lũ từ trên núi chảy xuống gột rửa, do vậy phía trên đá rất sạch sẽ, chỉ có lác đác vài cây cỏ dại, cảnh vật chung quanh nhìn sơ qua đã thấy hết, không lo ngại dã thú, rắn độc sẽ bất ngờ xuất hiện, lúc này mọi người mới tìm một chỗ để ngồi xuống, để cho đôi chân đã mỏi nhừ được nghỉ ngơi đôi chút.
Phạm Lãi và Văn Chủng tìm được phiến đá khá bằng phẳng, họ ngồi trên đó, phiến đá bị ánh mặt trời chiếu rọi đến nóng rang lên, đã lót tay nải bên dưới để ngồi mà sức nóng vẫn như thiêu như đốt, một trận gió thổi đến, trên khuôn mặt vẫn còn những giọt mồ hôi chưa khô lại như được hưởng thêm chút mát mẻ, cách đấy không xa có một con suối nhỏ, ào ào đổ thẳng xuống khe đá, có người đã lấy chiếc túi da qua đó lấy nước.
Phạm Lãi nhìn dãy núi bao la ở phía xa, than thở nói: “Có nơi gọi là Lễ Bộc này. Tử Cầm có nghe nói qua chưa ?”
“Ta có nghe qua”, Văn Chủng cũng thở dài, đáp lại: “Lễ Bộc cách phía nam Thạch Thủ hơn trăm dặm, đó là nơi núi sâu rừng già, đâu đâu cũng là chướng khí, trong rừng sâu có một toán dã nhân chưa khai hóa sinh sống. Nơi đó… ngoài tầm với của nước Sở ta, chỉ có bộ lạc của một số dã nhân không phục vương đạo sinh sống mà thôi.”
Phạm Lãi cười gượng nói: “Đúng vậy, muốn chúng ta đi đến nơi đó để làm gì ? Đi vào chỗ chết à ? Chúng ta chỉ muốn khuyên nhủ đại vương là vừa bình định chiến loạn xong, nên vỗ về lòng dân, an định dân tâm, không nên bóc lột quá nhiều, làm dân oán hận, kết quả… Phí Vô Kỵ liền trả đũa lại, nói một cách hay ho vinh quang rằng thì là cử chúng ta đến Lễ Bộc nhậm chức huyện doãn, huyện tư mã, để an ủi lòng dân, cai quản nơi này, nhưng… Lễ Bộc cái nơi hoang vu không phục vương đạo này làm gì có dân nước Sở ta mà cai quản chứ.”
Bãi đất hoang mà hai người họ vừa nhắc đến, kỳ thực từ thời xa xưa nơi đó đúng là có một nền văn minh còn cổ xưa hơn cả nước Sở tên gọi là nước Bộc. Năm xưa khi Vũ vương phạt Trụ, thì nước Bộc đã được lập cách đây rất lâu đời, là một đất nước lớn mạnh ở phương nam, và đã từng tham gia vào phe của Chu Vũ vương mà phạt Trụ.
Những năm đầu Tây Chu, người Bộc dần dần tiến về phía đông, trở thành láng giềng với Ba Thục và nước Trịnh. Nước Sở hiện nay là nằm ở phía tây nam, rải rác giữa Trường Giang và Hán Thủy. Lúc đó sức mạnh của họ là lớn nhất phương nam, từng đứng đầu hai mươi sáu nước Nam Di và Đông Di, thế mạnh như lửa rừng rực cháy, không nước nào có thể sánh bằng.
Sau đó, nước Sở dần dần hùng mạnh lên, và đã tiến hành tấn công người Bộc, chiếm đất đai của họ, đuổi hết dân của họ đi. Người Bộc lúc này đã yếu dần, với sự tấn công của nước Sở, nước Bộc đã bị diệt vong. Người Bộc bị bức bách phải chạy trốn về hướng nam. Họ tiến dần dần về phía nam và phân tán ở lưu vực Lễ Thủy và Nguyên Thủy. Một nước Bộc lớn mạnh năm xưa nay đã bị chia năm xẻ bảy. Với điều kiện và hoàn cảnh sinh tồn khó khăn gian khổ, họ chỉ có thể tụ tập hơn trăm đến hơn ngàn người sống thành bộ lạc, phân tán cư trú trong những khu rừng nguyên thủy, bách Bộc li cư. Nước Bộc cũng do vậy mà đổi tên thành Bách Bộc.
Sau này những dân tộc thiểu số như Di Tộc, Cáp Ni Tộc, Thổ Tộc, Bố Lãng Tộc, Ngoã Tộc, Ngật Lão Tộc, Đức Ngang Tộc đều là hậu duệ của người Bộc. Vào thời điểm đó mà nói, họ là đại diện cho sự lạc hậu và dã man. Vả lại người Bộc rất hận người Sở đã khiến họ nước mất nhà tan, ép họ phải sống trong rừng núi hoang vu. Do vậy họ vô cùng căm hận người Sở. Những người Sở đơn thân bị lạc cũng chẳng dám đi sâu vào nơi ở của các bộ lạc người Bộc, dù đó có là bộ lạc có người Bộc và người Sở cùng chung sống với nhau. Lễ Bộc, nơi mà Phạm Lãi và Văn Chủng phải đến cũng như thế. Năm xưa khi truy sát những người Bộc phản kháng, cũng chỉ có quân tiên phong của nước Sở đã từng đến qua nơi này. Để cho Phạm Lãi và Văn Chủng đem theo mấy mươi tên võ sĩ đến đó làm quan, quả là ý đồ muốn giết người đã hoàn toàn lộ rõ chẳng cần phải che đậy.
“Tử Cầm, ngươi đã biết tình hình ở Lễ Bộc, đã có dự tính gì chưa ?”
Văn Chủng lấy từ trong túi ra một miếng thịt khô, và túi nước. Đang ăn uống, nghe những lời này ngạc nhiên hỏi: “Dự tính ? Ý Thiếu Bá muốn ám chỉ gì ?”
Phạm Lãi quay đầu nhìn chung quanh, nói: “Phí Vô Kỵ vì chán ghét hai chúng ta chống đối với hắn, nên muốn đưa chúng ta vào chỗ chết, chẳng lẽ ngươi vẫn không nhìn ra sao ?”
Văn Chủng than thở: “Điều này đương nhiên vãn bối nhìn ra được. Đi được đến đây đã bị rắn muỗi hại, chướng khí khắp nơi, càng không cần phải nói ra cũng đủ biết Lễ Bộc là nơi thế nào rồi, những người như ta và ngươi chưa từng sống cuộc sống nơi hoang dã này, đến được nơi đó rồi cũng sẽ không hạp thuỷ thổ, nếu mà bị bệnh thì chẳng bao lâu sau cũng sẽ mất mạng. Huống hồ, người Bộc bị người Sở ta đuổi khỏi cố hương, phải chạy vào rừng sâu mà sống, xưa nay đều thù ghét người Sở, Phí Vô Kỵ đuổi cổ hai ta đến đó, nói không chừng còn muốn mượn tay người Bộc mà lấy mạng của ta và ngươi.”
Phạm Lãi nói: “Nếu ngươi đã hiểu rõ cái lợi và hại bên trong, chẳng lẽ còn muốn mau chóng đến đó nộp mạng sao ?”
Văn Chủng mỉm cười, nhìn xung quanh, nhẹ giọng nói: “Cũng không hẳn thế, Thiếu Bá, ngươi có điều chưa biết, ta ở Dĩnh Đô đã làm một chức quan nhỏ trong vài năm, cũng đã kết giao được với một số bằng hữu, trong đó có một lái buôn, thường đem đặc sản núi rừng và đồ da đến Dĩnh Đô bán, ta thường chiếu cố đến hắn, giao tình giữa hai bên cũng không tệ. Người này là người Bộc đang sống trong các Thành Ấp của nước Sở ta, do thu mua da thú, và đặc sản núi rừng, nên cũng quen biết nhiều với những người Bộc sống trong rừng núi hoang vu này.
Hôm qua lệnh vua vừa được ban xuống, Phí Vô Kỵ đã phái ngay tên Lý Hàn đem người giám sát nhất cử nhất động của ta và huynh, muốn có hành động gì cũng không tiện, ta lấy danh nghĩa là sắp phải đi nhậm chức nơi xa, đã mời mấy người bằng hữu cùng uống rượu, trong đó có người này. Ta đã căn dặn hắn lên đường trước, mau chóng đến Lễ Bộc, có hắn ra mặt, người Bộc ở đó sẽ không gây khó dễ cho ta và ngươi, ta và ngươi cũng có thể học được những cách sinh tồn nơi rừng núi hoang vu này từ các bá tánh ở đấy.”
Phạm Lãi nhè nhẹ vuốt râu, khuôn mặt hắn chẳng có vẻ gì là ngạc nhiên, nói đến đây Văn Chủng cúi đầu xuống uống nước, Phạm Lãi bèn hỏi: “Dù cho là vậy, cứ cho không phải chết, chẳng lẽ ta và ngươi từ nay về sau ở đó làm một đôi dã nhân à ?”
Văn Chủng cố gắng nuốt trôi miếng thịt khô cứng, mỉm cười nói: “Đương nhiên không chỉ như thế, chúng ta có thể xem đó là thời cơ, nói không chừng chúng ta không những có thể có chỗ đứng nơi đó, mà còn có thể dạy cho dã nhân biết trồng trọt, xây thành. Dần dần sẽ khiến cho những dã nhân không phục vương trị này lại bị khuất phục dưới quyền cai trị của ta, chỉ cần chúng ta thành công, thì sẽ có nhiều người Bộc và đất đai của họ sẽ nằm dưới tên nước Sở ta. Thiếu Bá, đó còn là công lao mở mang bờ cõi đấy, Phí Vô Kỵ dù có muốn ngang tàng đến đâu, cũng chẳng dám phạm vào điều đại kỵ trong thiên hạ, gây khó dễ cho người có công mở mang bờ cõi như ta và ngươi đâu.
Ngươi nghĩ xem, đại vương nay tuổi còn nhỏ, đương nhiên sẽ tuỳ cho Phí Vô Kỵ muốn làm gì thì làm, nhưng đại vương đã mười tuổi rồi, qua thêm vài năm nữa là đã có thể đích thân xử lý việc triều chính. Phí Vô Kỵ tên gian tặc này một mình nắm lấy quyền lực, ức hiếp vương thất, lúc đó nhất định sẽ bị tru sát, đến lúc đó, chính là lúc ta và ngươi nở mày nở mặt, có thể oai phong mà trở về Dĩnh Đô, muốn được đại vương ta trọng dụng cũng không có gì khó.”
Phạm Lãi nhìn hắn hồi lâu, nhè nhẹ lắc đầu: “Tử Cầm, ngươi nghĩ đơn giản quá, Nang Ngoã và Phí Vô Kỵ đều là bậc tướng sư, tuy là gian thần, nhưng mưu trí, bản lĩnh đều bất phàm, bằng không hắn đã không thể đứng trên cả đại vương nước Sở ta, nhổ tận gốc lẫn rễ những lão thần có căn cơ thâm hậu mặt không hề biến sắc như Ngũ Xa, Bá Uyển , càng không thể hô phong hoán vũ được như ngày nay, không thể xem thường được.”
Văn Chủng ngây người ra: “Vậy thì… ý của Thiếu Bá là ?”
Phạm Lãi chậm rãi nói: “Tên Phí Vô Kỵ ngang tàng cuồng vọng này, hắn muốn trừ khử ai, chưa chắc đã có thể nhẫn nại mà ngồi chờ, mượn tay của rừng thiêng nước độc, và những sơn dân dã tính chưa thuần ở đó để lấy mạng của ta và ngươi đâu. Ta và ngươi đã đắc tội với Phí Vô Kỵ, hắn đã quyết tâm xua đuổi lưu đày ta và ngươi, e rằng nước Sở tuy lớn, nhưng về sau lại không còn chỗ cho chúng ta dung thân.”
Ánh mắt Văn Chủng chăm chú, thần sắc có vẻ căng thẳng: “Thiếu Bá chẳng lẽ muốn đến nương nhờ nước khác ?”
Phạm Lãi trầm ngâm, không đáp mà hỏi ngược lại: “Tử Cầm, ngươi xem đương kim Ngô vương Khánh Kỵ, người này thế nào ?”
Văn Chủng thần sắc có chút thay đổi, đáp: “Thiếu niên anh hùng, có chí lớn.”
Phạm Lãi hài lòng cười, nói tiếp: “Mà còn mới đăng vương vị, đang muốn tạo nên thành tựu lớn. Triều thần nước Ngô vừa được thay mới, trong nước còn nhiều việc dang dở cần được tiếp tục, đúng là nơi thi thố tài năng của những kẻ sĩ có chí lớn.”
“Thiếu Bá chẳng lẽ muốn đến nương nhờ Ngô vương Khánh Kỵ ?”
“Không phải ta, mà là ta và ngươi.”
Văn Chủng im lặng không nói câu nào.
Phạm Lãi khuyên: “Nói cho cùng, hôm nay Phí Vô Kỵ có thể một tay che trời là do đại vương tuổi còn nhỏ, nhưng lúc Nang Ngoã, Phí Vô Kỵ trừ khử hai vị lão thần thế khanh Ngũ Xa, Bá Uyển, trong đó không hẳn là không có ý của đại vương. Đương kim đại vương nay đã nằm trong lòng bàn tay của Phí Vô Kỵ, hắn có thể thoát khỏi sự khống chế của Phí Vô Kỵ để làm một minh quân hay không vẫn chưa thể dự liệu được, còn nay hai ta đã đắc tội với Phí Vô Kỵ, đã là đại hoạ lâm đầu rồi. Chi bằng ta và người cùng đến nương nhờ Ngô vương Khánh Kỵ, dưới trướng của một minh quân, hoặc giả có thể tạo dựng nên một sự nghiệp oanh oanh liệt liệt, lập công lớn trong thiên hạ, vang danh tứ hải.”
Văn Chủng chần chừ do dự, nhè nhẹ lắc đầu nói: “Thiếu Bá, ta nghĩ ngươi đã suy nghĩ quá nhiều, Phí Vô Kỵ quyền bính cao, địa vị cao quý, hắn thấy chúng ta chướng mắt, đuổi đi là được rồi, không hẳn đã vội cho người truy sát hai ta. Ta và ngươi đều là quan nước Sở, cũng không có mối huyết hải thâm thù như đám Ngũ Viên, vô duyên vô cớ bỏ trốn đến nước khác, còn gì là đạo lý nữa ?”
Phạm Lãi không lấy làm lạ nói: “Năm xưa Khương Thượng cũng là đại thần nước Thương, cũng vì giúp đỡ bảo vệ Chu thất mà lưu danh thiên cổ sao ? Chủ cũ mà Quản Trọng theo phò tá đã chết dưới sự bức bách của Khương Tiểu Bạch, Quản Trọng cũng vẫn giúp đỡ và bảo vệ Tiểu Bạch, lưu danh muôn đời ? Thường nói là: Chim khôn chọn cành mà đậu, hiền thần chọn chủ mà thờ, những đại hiền thần này không đáng để ta noi theo sao ?”
Mặc cho Phạm Lãi khuyên nhũ thế nào, Văn Chủng vẫn cứ ôm mộng tưởng do dự không quyết, không chịu hạ quyết tâm, Phạm Lãi thấy tình hình như thế chỉ đành thở dài ngao ngán: “ Thôi rồi, nếu đã vậy, Phạm Lãi này đành liều mạng cùng ngươi đến Lễ Bộc một chuyến, chỉ là… nếu trên đường đến Lễ Bộc, Phí Vô Kỵ quả nhiên phái người truy sát, lúc đó ngươi tính thế nào ?”
Văn Chủng chau mày, nói: “Nếu Thiếu Bá quả nhiên đoán đúng, Văn Chủng sẽ không do dự nữa, lập tức theo ngươi đến nương nhờ nước Ngô.”
“Được, quân tử nhất ngôn !”
“Khoái mã nhất biên !”
Mỗi người đưa một tay ra, “bốp bốp bốp” ba kích chưởng, Phạm Lãi đứng thẳng dậy, đứng trên phiến đá lớn nhìn ra xa, lẩm bẩm tự nói: “Đi tiếp về phía trước, chính là Ngãi Bình. Chỉ cần đi ra khỏi Ngãi Bình, chính là thiên hạ của dã nhân, chuyến đi này, có rất nhiều đường mòn, không ai có thể biết rõ chúng ta đang đi trên con đường nào, nhưng Ngãi Bình là nơi buộc phải đi qua. Phí Vô Kỵ nếu muốn phái người theo giết, vậy đây sẽ là cơ hội cuối cùng, ta và ngươi phải cẩn thận hơn.”
Văn Chủng cười hi hi nói: “Thiếu Bá, ngươi lại chẳng phải con sâu trong bụng Phí Vô Kỵ, sao cứ đoán là hắn sẽ phái người giết ta trên đường đi chứ.”
Loading...
Phạm Lãi mỉm cười nói: “Không sai, ngươi không có nỗi lo gia thất, ta thì thê nhi đều có, hôm qua khi ngươi bận tiếp đãi bằng hữu, an bài việc định cư ở Lễ Bộc, ta cũng đã mời một số bằng hữu thân thiết, làm tiệc chia tay. Lúc đó, ta đã sắp xếp cho người nhà xong xuôi, bảo họ sau khi ta và ngươi rời khỏi, hãy mang theo thê nhi của ta rời khỏi nước Sở, ta lại an bài một số võ sĩ tâm phúc, tiếp ứng ở Ngãi Bình.”
Văn Chủng nghe xong há hốc cả mồm, than thở: “Thiếu Bá quả là suy nghĩ chu đáo, nhưng thật ra cũng cẩn thận quá đỗi, nếu Phí Vô Kỵ không phái người phục kích ngươi và ta thì sao ?”
Phạm Lãi mỉm cười: “Không sao, cứ chống mắt mà chờ xem.”
Phí Vô Kỵ từ trong cung trở về, vui mừng ra mặt, trước tiên là vì việc hắn đã đuổi cổ được hai cái gai trong mắt là Phạm Lãi và Văn Chủng, hôm nay những ý kiến của hắn lại được Sở vương chuẩn tấu, đã nhận đại lễ của người Việt, nên hắn giúp họ hoàn thành đại sự này vậy. Phí Vô Kỵ đắc chí hài lòng trở về phủ đệ, vừa gặp Lý Hàn đã vội nói: “Lý Hàn, chuyện đó làm đến đâu rồi ?”
Lý Hàn vội vàng tiến lên phía trước đáp: “Đại nhân yên tâm, tiểu nhân đã an bài thỏa đáng, đã sắp xếp bốn mươi võ sĩ cải trang, mang theo cung và tên độc của người Bộc mai phục ở ngay con đường mà họ buộc phải đi ngang qua, đến lúc đó họ sẽ bỏ mạng nơi hoàng tuyền, người đời chỉ biết là họ do những người Bộc dã man giết chết, chứ không hề có bằng chứng nào mà nghi ngờ đến đại nhân.”
Phí Vô Kỵ cười lớn ha ha: “Rất tốt. Ngươi mau đi, triệu Cao Như nước Việt đến gặp lão phu.”
Lý Hàn vui mừng nói: “Đại sự đã thành rồi ?”
Phí Vô Kỵ kiêu ngạo nói: “Lão phu đã xuất mã, nhất định sẽ mã đáo thành công.”
“Vâng vâng vâng”, Lý Hàn cười tươi như hoa tiến lên phía trước đỡ lấy tay hắn: “Đại nhân có cần về phòng nghỉ ngơi không ?”
Phí Vô Kỵ nói: “Hầy, trời còn chưa tối, nghỉ ngơi gì chứ, vẫn còn chút thời gian, để lão phu đi thăm mấy vị mỹ nhân của nước Việt đã, nữ nhi nước Việt làn da trắng nhất thiên hạ, quả đúng là danh bất hư truyền. Mấy nàng mỹ nhân nước Việt này, da thịt mềm mại mịn màng, một khi đã trút bỏ xiêm y, thì trông như những bông tuyết trắng, đúng thật là trắng đến lóa mắt, nhưng lại có thể sờ vào được, hi hi hi…, lão phu phải đi hưởng thụ một chuyến …”
“Đại nhân mời…” Lý Hàn vẫn giữ nụ cười trên môi chấp tay nhìn Phí Vô Kỵ lắc lư bước vào hậu trạch, sau đó vội vàng quay người lại, đi ra khỏi cửa đánh chiếc xe ngựa đi về phía dịch quán mà Cao Như thượng tướng quân của nước Việt đang ở. Chuyến đi này, lại có thêm một món hời nữa đây, nghĩ đến đấy, Lý hàn vui như mở cờ trong bụng…
Sở đại phu Khuất Đoan vẫn chưa đến Cô Tô, còn cách thành khoảng ba mươi dặm, đã dược đại tư mã Anh Đào và đại hành nhân Thái Nghĩa của nước Ngô dùng nghi lễ mà tiếp đón long trọng. Vị Khuất đại phu này người vừa cao lại gầy, chiếc cằm nhọn, gò má nhô cao, một đôi chân mày đậm và dài, đôi má gầy gò, miệng hơi nhô ra, trông có vẻ khá buồn cười.
Người Ngô phạt Sở, giới quyền quý của nước Sở bị bắt đi hơn nửa, sau khi Sở Vương trở về Dĩnh Đô, Phí Vô Kỵ một mình nắm hết đại quyền, vị Khuất đại phu này vì hùa theo sở thích của hắn, dâng lên tài sản và mỹ nữ, nên rất được lòng của Phí Vô Kỵ, nhận được chức vụ đại hành nhân. Lần này xuất sứ nước Ngô, vốn dĩ trong lòng hắn có chút thấp thỏm không yên, nhưng vừa thấy người Ngô nghênh tiếp hắn long trọng như thế, khuôn mặt vốn dĩ rất nghiêm túc của hắn lộ ra sự vui vẻ và thoải mái.
Vào hai năm trước, đương kim đại vương nước Ngô từng đích thân dẫn đại quân tấn công nước Sở; Còn vào vài tháng trước, lại vừa mới bị tiên vương của nước Ngô, là người đã bị đương kim đại vương nước Ngô giết chết, xông vào Dĩnh Đô, giết người và cướp bóc trắng trợn, sau đó… hai nước lại liên minh với nhau, một quan hệ liên minh vô cùng yếu ớt, quan hệ giữa hai nước đích thực là rất mờ nhạt. Để đại hành nhân của một nước chiến bại xuất sứ sang nước chiến thắng, hai nước lại hình thành một liên minh kỳ dị, nên tâm trạng của hắn không cần nói ra cũng dư biết.
Nước Sở xưa nay là một nước lớn, không chỉ ngự trị trên cả nước Ngô, mà còn ngự trị trên cả nhiều nước chư hầu khác trong thiên hạ, có thể đối kháng với Tề Tấn, khinh thường những nước lớn trong thiên hạ như nhà Chu. Nhưng đại quốc này, mà lại bị nước Ngô tấn công vào kinh đô, để lại một nỗi nhục lớn, nên sau khi Khánh Kỵ phục quốc, trong một thời gian khá dài nước Sở án binh bất động, chờ nước Ngô chủ động đem trả số châu báu và những người quyền quý trở về, không phải tiểu Sở vương tự cao tự đại, mà thực ra là nước Sở không chịu xuống nước mà phải sứ giả đến nước Ngô đòi lại.
Sau một thời gian khá lâu, nước Ngô vẫn không có động tĩnh gì về việc hoàn trả người và số châu báu, quân thần nước Sở mới không nhịn được nữa, vạn bất đắc dĩ, chỉ đành phái sứ giả đến, hy vọng là có thể nhờ đàm phán mà đạt được mục đích của họ. Vai gánh trọng trách, Khuất Đoan quả thật có chút khẩn trương. Nhưng khi thấy lễ nghĩa và cách đón tiếp của nước Ngô, lòng hắn đã dần dần yên tâm hơn.
Đoàn dù lọng cách thành đến hơn mười dặm, Anh Đào và Khuất Đoan ngồi cùng một xe, đang chuyện trò vui vẻ, đột nhiên ở ngã rẽ phía trước xuất hiện một đám người ngựa, ai ai cũng không còn manh giáp, vũ khí cũng không nguyên vẹn, thấy đoàn dù lọng cũng không thèm để mắt đến, la hét ầm ĩ giành đường để chạy về hướng Cô Tô thành.
Khuất đại phu hoảng hồn nói: “Những người đó là ai ?”
Trong tích tắc, một viên tướng lĩnh vội vàng chạy đến bẩm báo với Anh Đào: “Bẩm báo đại tư mã, những bại quân vừa nãy được phái vận chuyển lương thảo ra ngoài, gặp phục kích của những tàn binh thổ phỉ, nên mới chạy về Cô Tô.”
Anh Đào hầm hầm giận dữ, trừng mắt hét to: “Những tên sơn tặc thổ phỉ này càng ngày càng hoành hành. Sẽ có một ngày, bổn tướng quân sẽ xin đại vương ban lệnh, cho ta đích thân đi tiêu diệt những tên không xem vương pháp ra gì này. Hừ ! Những binh lính của Xích Trung cũng thật kém cỏi, đây đã là lần thứ mấy bị cướp quân lương rồi, giờ còn ở trước mặt sứ tiết nước Sở làm ra chuyện mất mặt thế !”
Khuất đại phu hoảng hồn hỏi: “Tư mã đại nhân, đã xảy ra chuyện gì ?”
“À, cũng chẳng có chuyện gì lớn , đã làm Khuất đại phu kinh sợ.”
Khi Anh Đào quay mặt sang phía hắn, vẻ mặt đã vui vẻ hòa nhã lại: “Từ khi công tử Quang bị bại ở nước Sở, khi trở về đến bên dưới núi Thiên Mục đã bị chúng ta phục kích, bị đánh tan tác, rất nhiều binh sĩ đã bỏ trốn. Sau khi công tử Quang chết, những người này lại không muốn quy thuận đại vương ta, lại không biết lấy gì mà sống qua ngày, chỉ đành đi cướp bóc, nên đã trở thành sơn tặc. Ngài đừng nghĩ rằng ngày trước họ chiến đấu không được anh dũng như binh lính của ta, nhưng hiện nay họ đơn thuần chỉ vì sự sinh tồn, nên ai ai cũng rất liều mạng, có thể một đánh mười, cho nên không thể xem thường được.”
Khuất đại phu nghe xong lập tức đã tin như thật, vẻ mặt vẫn còn nỗi kinh sợ hắn nói: “Đội quân vừa nãy đi qua, quân số cũng vào khoảng năm trăm người, nhiều… nhiều người như thế, mà vẫn không phải là đối thủ của đám binh tặc đó sao, họ… sức mạnh của đám sơn tặc này quả thật là không thể xem thường được.”
Hắn quay đầu lại nhìn ba trăm thị vệ mà hắn mang theo, trong lòng sợ hãi nói: “Cũng may, trên đường đi ta không gặp phải bọn họ, bằng không thì hôm nay e rằng đã không gặp được Anh Đào đại nhân rồi.”
“Đúng vậy, đúng vậy, những tên cướp này lẩn trốn khắp nơi, một khi đại binh đến gần, liền chạy vào nơi sông hồ rừng núi, hễ nghe nói nơi đâu có người có của, liền mò qua để cướp. Tay chân vô cùng lanh lẹ, muốn tróc nã cũng không dễ dàng gì, thật khiến ta phải đau đầu. Lần này đại phu đến may mắn là không gặp phải bọn họ, quả thật là may mắn vô cùng.”
Khuất đại phu trong lòng thầm nghĩ: “Xem ra tuy Khánh Kỵ đã là đại vương, nước Ngô trước mắt vẫn chưa được thái bình, chả trách hắn không lo tới chuyện của nước Sở ta. Ừm, nếu là vậy, xem ra người Ngô không có ý nuốt chửng số châu báu của nước Sở ta, chuyến nay ta đi rất có hy vọng sẽ thành công.”
Nghĩ đến đây, trong lòng Khuất đại phu bắt đầu thư thái hơn, nhưng hắn lại e ngại Anh Đào sẽ cho rằng hắn nghe được tin nước Ngô có thổ phỉ làm loạn nên vui vẻ mà cười trên sự đau khổ của họ, nên lại không tiện thể hiện ra, nên chỉ đành vểnh môi lên, hai đôi mày chau lại, khuôn mắt vốn không khó coi của hắn lại thêm cái thái độ kỳ quặc này, khiến hắn trông giống một con khỉ.
Khuất đại phu vào Cô Tô thành, chỉ thấy cảnh tượng trong thành lại một phen giật mình. Vừa nãy hắn thấy đoàn dù lọng trên đường của Anh Đào áo giáp sáng bóng, các quân sĩ mặt mày nghiêm chỉnh, không ngờ những thủ binh trước cửa thành lại ăn mặc rách rưới, đường phố trong thành lác đác vài người đi lại, thỉnh thoảng lại thấy những người già và trẻ, đều mang bộ dạng khốn khổ chán nản.
Thỉnh thoảng ở đâu đó lại bất chợt thấy một số người đẩy những chiếc xe chở xác người vội vội vàng vàng đi qua, phía sau còn có một đám phụ nữ và hài nhi khóc thút thít, cũng chẳng biết đã xảy ra việc gì, đại chiến đã qua lâu rồi, mà vẫn còn có người chết hàng ngày vậy sao. Khuất đại phu cũng không tiện hỏi, nào là loáng thoáng nghe được chuyện ôn dịch gì đó. Lại nhớ đến địa khu Đại Mộng Trạch nước Sở, số binh sĩ tử trận lên đến hàng vạn người, xác phơi đầy đồng hoang, mùi xác thối bốc lên nồng nặc, những nhà nông cạnh bên cũng bị nhiễm ôn dịch chết không biết bao nhiêu người, Khuất đại phu thầm than khổ, trước mặt Anh Đào lại không thể lập tức lấy khăn mặt mà che miệng lại, chỉ đành cố gắng hít thở không khí ở nước Ngô ít lại, thế là hắn tập trung nín thở, hít một hơi dài, nín đến khi nào mặt đỏ cả lên mới lấy tay che mũi lại lén lút hít thêm một hơi, vẻ mặt vểnh môi chau mày vừa nãy của hắn trông như một con khỉ, lúc này lại trông giống như một con ếch đang ngồi trên xe, Anh Đào liếc mắt thoáng thấy những cử động của hắn, cười thầm trong bụng.
Đến phía trước vương cung, Khuất đại phu xuống xe, cầm theo kiếm, do Anh Đào, Thái Nghĩa và thái giám trong cung cùng hắn đi vào chính điện, trên đường đi, thấy không ít thợ thủ công, lực sĩ và nô lệ, lúc thì dùng xe lừa, lúc thì dùng sức người, gánh đi và chuyển đi không biết bao nhiêu là đất cát, đá lớn, cây gỗ lớn và nhiều vật liệu khác vào phía sau hậu cung.
Lúc này đã đi vào Vương cung, sắp được diện kiến đại vương, phải giữ lễ tiết, nên Khuất Đoan không tiện hỏi, trong lòng hắn thầm cảm thấy kỳ lạ: “Nước Ngô vừa đánh xong mấy trận chiến lớn, nơi đây đã cần bao nhiêu là gỗ lớn, chẳng lẽ là xây lại vương cung ? Nếu Khánh Kỵ là một kẻ ham hố hưởng thụ như thế, thế thì ta cũng chẳng cần chi phải lo lắng nữa.”
“Sứ thần nước Sở Khuất Đoan đại phu cầu kiến !”
‘Truyền !”
Tin tuyên triệu từ đại điện truyền ra, Khuất Đoan cùng với Anh Đào, Thái Nghĩa bước vào đại điện, hai bên điện có rất nhiều quan viên đang ngồi, trước mặt mỗi người đều có một bàn kỷ án, thấy hắn bước vào, tất cả họ đều chăm chú nhìn, còn có người lấy tay áo che miệng bàn tán xì xầm với người bên cạnh.
Khuất Đoan mắt nhìn thẳng, đi một mạch vào trong đại điện, vái lạy rồi nói: “Sở đại phu Khuất Đoan, tham kiến Ngô vương bệ hạ.”
“Khuất đại phu miễn lễ bình thân, mời an toạ.”
“Tạ đại vương !”
Phía bên trái Khánh Kỵ có một bàn kỷ án để trống, Khuất Đoan tạ lễ, theo thái giám qua đó an tọa. Khuất Đoan an tọa xong, chấp tay nói: “Đại vương đã thu phục được nước Ngô, đúng là đáng vui đáng mừng. Khi Khuất Đoan chuẩn bị lên đường, đại vương ta đã nhiều lần căn dặn, phải thay người chúc mừng đại vương, nguyện cho nước Ngô ngày càng hùng mạnh, tình hảo hữu Ngô Sở, vững vàng đến muôn đời.”
Khánh Kỵ cười nói: “Khi quả nhân đăng cơ ở ngoài thành Cô Tô, nước Sở cũng đã phái sứ giả đến chúc mừng, lúc đó giang sơn chưa định, bên trong Cô Tô thành hãy còn Phù Sai đang loạn chính, vậy mà nước Sở có thể đứng về phía Khánh Kỵ kiên định ủng hộ, quả nhân sẽ ghi nhớ trong lòng. Ngô và Sở đều cùng nằm ở Giang Nam, nếu đời đời hữu hảo, kết thành huynh đệ bang giao, đó cũng hợp ý nguyện của quả nhân. Lần này quý Sứ đến ngước Ngô ta, không biết là mang theo sứ mệnh gì của Sở vương bệ hạ đến ?”
Khuất Đoan lưỡng lự một hồi, chỉ đành miễn cưỡng nói: “Khuất Đoan lần này đến quý quốc, mang theo hai sứ mệnh của đại vương ta. Khi Hạp Lư tập kích vào Dĩnh Đô, từng cướp đi rất nhiều ngọc ngà châu báu của nước Sở ta, trong đó có nhiều vật báu đã được kế thừa nhiều năm, có ý nghĩa trọng đại với nước Sở. Sau khi Đại vương ta trở về Dĩnh Đô, suốt ngày buồn bã không vui, không còn mặt mũi vào Tông Miếu mà gặp tổ tiên. Đại vương nay đã đánh bại Phù Sai, có thể nhất thống thiên hạ, đại vương ta hay tin rất đỗi vui mừng, mong chờ đại vương có thể sớm ngày hoàn lại những báu vật của nước Sở ta đã bị cướp đi. Nhưng do nước Ngô mới ổn định, còn nhiều việc dang dở cần phải tiếp tục, đại vương ta nghĩ đại vương ngày lo trăm việc, bận rộn quốc gia đại sự. Thế nên bèn phái hạ thần đi Sứ sang Cô Tô, để vận chuyển những báu vật của nước Sở về.”