Đây là lần đầu tiên Thiển Thủy Thanh nhìn thấy Nam Sơn Nhạc, trước kia, thậm chí cả ấn tượng mơ hồ hắn cũng không có.
Thì ra, rốt cục bề ngoài của Nam Sơn Nhạc cũng giống như những lão nhân bình thường mà thôi.
Hắn mỉm cười với Nam Sơn Nhạc, sau đó vái sâu một vái:
- Thiển Thủy Thanh tham kiến Sơn công, Nam Đại công tử, Nam Nhị công tử!
Lúc này, hắn không thèm xưng hô danh hiệu Nam Trấn Đốc mà gọi thẳng là Nhị công tử, sắc mặt Nam Vô Thương hơi tái.
Nam Sơn Nhạc khẽ gật đầu:
- Quả nhiên là hậu sinh khả úy, quả nhiên là nhất biểu nhân tài! Không ngờ Thiển Tướng quân vô cùng ung dung bình tĩnh mà âm thầm bố trí tinh vi như vậy, xem như lão phu đã được mở rộng tầm mắt. Từ nay trở đi, chúng ta là láng giềng với nhau, vậy cũng nên lui tới thường xuyên mới phải!
Thiển Thủy Thanh cười đáp:
- Có thể được làm hàng xóm với Tướng gia, đó là may mắn của tiểu tướng, cũng vì như vậy, tiểu tướng đã phải bỏ ra không ít ngân lượng mua tòa phủ này!
Nam Sơn Nhạc cười nói:
- May mắn là nỗi khổ tâm của ngươi không uổng phí!
- Cũng chỉ là một chút thủ đoạn không lấy gì làm đẹp đẽ mà thôi!
Thiển Thủy Thanh thản nhiên đáp.
- Thủ đoạn đẹp đẽ hay không không có gì khác biệt, chỗ khác nhau chính là thành công hay không mà thôi. Thiển Tướng quân là hào kiệt chốn sa trường, đương nhiên không cần dùng bất cứ phương pháp gì cũng có thể đánh bại đối thủ!
- Tướng gia lão luyện triều đình, quả nhiên sâu sắc nhất trong ba vị (chỉ Tam Công)!
Đối mặt với từng câu đáp trả của Thiển Thủy Thanh, Nam Sơn Nhạc không hề tỏ ra tức giận. Lúc này trong hẻm Hồ Đồng kiếm tuốt cung giương, tất cả những người không phận sự đều đã sớm bị dọa cho sợ hãi mà rút vào trong nhà, trên đường chỉ còn lại người của hai bên.
Nam Sơn Nhạc bật cười ha hả:
- Ta đã già, không so được với những người trẻ tuổi các ngươi, bốc đồng, không sợ chết, hành sự quyết đoán. Ôi, người trẻ tuổi bây giờ xử sự khác xa chúng ta khi trước!
- Tướng gia khen ngợi quá lời, Thủy Thanh xấu hổ không dám nhận!
- Nói như vậy, ngươi không định rút binh ra khỏi hẻm Hồ Đồng hay sao?
- Vì bảo vệ tài sản quốc gia, cho nên bất đắc dĩ phải làm như vậy, xin Tướng gia thứ lỗi!
- Cũng tốt, vậy thuận tiện bảo vệ giùm phủ của ta luôn một thể, sáng nay ta đã giải tán hết thị vệ trong phủ, dù sao có hai ngàn đại quân của Thiển Tướng quân ở đây, xem chừng bọn đạo chích cũng không dám tự tiện tiến vào. Từ nay về sau, e rằng ngay cả một con gà trong hẻm Hồ Đồng cũng không sợ mất!
- Có thể giữ được bình an một cõi, chính là trách nhiệm của quân nhân chúng ta!
Nói chuyện với Nam Sơn Nhạc, Thiển Thủy Thanh nho nhã lễ độ trước sau như một, nhưng không chịu thua kém một câu một chữ nào.
Chưa từng có ai dạy cho Thiển Thủy Thanh cách nói chuyện trong chốn quan trường như vậy, ý ở ngoài lời, nhưng Thiển Thủy Thanh cũng tự mình làm được, giống như hiểu biết của hắn về chiến trận vậy. Lúc này tình cảnh của hắn đối thoại chan chát như vậy, không hề thua kém Nam Sơn Nhạc chút nào, nhưng đã chọc cho một người khác vô cùng giận dữ.
Chính là Nam Vô Thương.
Chưa được bao lâu, tên Thiển Thủy Thanh từng quỳ gối trước mặt mình mà xin cho thuộc hạ của hắn, không ngờ bây giờ đã có thể to gan lớn mật đến mức dám kéo quân bao vây phủ Thừa tướng.
Cũng trong thời gian ngắn ngủi, hắn đã cướp đi nữ nhân của mình, cướp đi vinh quang vốn thuộc về mình, thậm chí còn nghênh ngang mang theo binh của mình tới nơi này.
Cũng chưa được bao lâu, cánh quân lăn lộn sa trường chỉ biết trung thành với mình, mà hiện tại đã trở thành người của Thiển Thủy Thanh hắn.
Còn ai, còn chiến sĩ nào coi trọng Trấn Đốc Thiết Huyết Trấn hắn hay không?
Không kềm được cơn giận trong lòng, hắn bước lên một bước, trầm giọng nói:
- Hai ngàn người là quá nhiều, Mộc Huyết, bản Trấn Đốc ra lệnh cho ngươi lập tức rút đi một ngàn tám, chừa lại ở đây hai trăm người là được!
Hắn không ra lệnh cho Thiển Thủy Thanh, vì hắn biết làm vậy cũng bằng vô dụng.
Mộc Huyết ôm quyền đáp:
- Hồi bẩm Nam Trấn Đốc, thuộc hạ là tướng sĩ của Thiết Phong Kỳ, phục vụ quên mình, chỉ biết có lệnh của cấp trên, lệnh của Nam Trấn Đốc, Mộc Huyết không dám nghe theo!
- Chẳng lẽ lệnh của ta không phải là lệnh của cấp trên hay sao?
- Vậy cũng phải thông qua Thiển Tướng quân chuyển đạt lại mới được, nếu không, đó là chỉ huy vượt cấp, nếu như Chưởng Kỳ phản đối, thuộc hạ có quyền không tuân theo, vì đây là quân quy, không thể thay đổi một cách dễ dàng như vậy được!
Nam Vô Thương hít sâu một hơi.
Mặc dù hắn vô cùng giận dữ, nhưng việc Mộc Huyết không nghe lệnh cũng không ra ngoài dự đoán của hắn, hắn đã không thể chỉ huy binh sĩ Thiết Phong Kỳ được nữa.
Hắn nhìn Thiển Thủy Thanh, trong mắt toát ra ngọn lửa có thể đốt người thành tro bụi, nhưng không làm gì được đối thủ khó chơi này.
Thiển Thủy Thanh, ngươi trở nên khó đối phó như vậy từ bao giờ?
Nhưng rốt cục hắn vẫn lạnh lùng nói:
- Thiển Thủy Thanh, tuy ngươi là Chưởng Kỳ của Thiết Phong Kỳ, nhưng vẫn dưới quyền quản lý của Thiết Huyết Trấn ta, bản Trấn Đốc ra lệnh cho ngươi lập tức rút một phần lớn nhân mã, ngươi định chống lệnh hay sao?
Thiển Thủy Thanh mỉm cười đáp:
- Nam Trấn Đốc đã có lệnh, thuộc hạ đâu dám không tuân, chỉ là hiện tại Nam Trấn Đốc đang chịu tang, tạm thời không tại chức, nơi đây cũng không phải là Quân bộ, thời gian cũng không phải là thời gian xử lý việc công. Dường như mệnh lệnh của Nam Trấn Đốc đưa ra không đúng thời gian, đúng địa điểm có phải không? Vậy xin Nam Trấn Đốc trở về Quân bộ một chuyến, vào thời gian chính xác, địa điểm chính xác dùng phương thức chính thức phát ra quân hàm để ra lệnh cho thuộc hạ, như vậy thuộc hạ mới dám nghe theo. Tuy nhiên cũng phải nói rằng, lần này đại chiến kết thúc, tướng sĩ Thiết Phong Kỳ trở về nghỉ ngơi, tiểu tướng lấy tư cách cá nhân mời binh sĩ thuộc hạ của mình tới nhà tán gẫu, cũng không thể coi là phạm vào quân quy quân pháp gì cả. Nếu Nam Trấn Đốc muốn ép buộc bọn họ rời khỏi thuộc hạ, không cảm thấy rằng tay mình quá dài, vươn ra quá xa hay sao?
Lời nói của Thiển Thủy Thanh hòa nhã lễ phép, giọng điệu lại cứng rắn lạnh lùng, Nam Vô Thương nghe xong toàn thân run lên bần bật, rất lâu sau, hắn mới từ từ nói:
- Thiển Thủy Thanh, ngươi nói đúng, là ta quản lý quá xa quá rộng. Tuy nhiên ta phải nhắc cho ngươi nhớ, chỉ cần một ngày ngươi còn là thuộc hạ của ta, vậy ngày đó ngươi còn phải nghe theo mệnh lệnh của ta, ngươi đừng quá đắc ý như vậy!
Lúc ấy, Thiển Thủy Thanh đưa đầu ra kề sát tai Nam Vô Thương, nhẹ giọng nói một câu:
- Ngày ấy sẽ qua đi rất mau!
Lời nói đơn giản mà trắng trợn như một mũi tên sắc nhọn xuyên thủng tim Nam Vô Thương.
Giọng Thiển Thủy Thanh bình tĩnh, ánh mắt tự tin, đầy vẻ quả quyết không hề sợ sệt.
Đây là một trận đọ sức không sống thì chết, không phải là như trước, chỉ điểm tới rồi thôi. Nếu đã là như vậy, dùng lời lẽ hùng hồn để nói một câu thì đã sao?
Ngực Nam Vô Thương phập phồng kịch liệt, hắn thở hồng hộc như kéo bễ, cố gắng đè nén để không bộc phát cơn giận dữ. Hiện giờ binh sĩ Thiết Phong Kỳ bao vây khắp phủ, thế cục trước mắt, mình không thể nào khống chế. Nam gia một già hai trẻ, dù cho trong triều đầy rẫy mánh khóe, nhưng giờ này chỉ có thể ngậm bồ hòn làm ngọt mà thôi.
Cho dù Nam Sơn Nhạc không nghe được câu nói của Thiển Thủy Thanh, nhưng cũng đoán được rằng không phải là lời lẽ tốt lành gì, chỉ có thể cười gượng:
- Xem ra Thiển Tướng quân đã hạ quyết tâm phải đóng binh tại đây, được, được lắm, hành sự nhanh mạnh như gió giật sét giăng, dám làm dám chịu, lão phu thật sự vô cùng bội phục! Chỉ không bao lâu sau, Tướng quân nhất định sẽ là trụ cột của quốc gia ta. Hôm khác lão phu sẽ đăng môn bái phỏng, thỉnh giáo Tướng quân đạo tung hoành chốn sa trường, lúc ấy còn phải nhờ Tướng quân chỉ giáo cho!
Thiển Thủy Thanh lập tức đáp:
- Nam Thừa tướng là trọng thần đương triều, nguyên lão hai triều, nói chỉ giáo Nam Thừa tướng, mạt tướng không dám! Lại thêm mạt tướng chỉ là một tên vũ phu, chỉ dựa vào một chữ Dũng làm cho đến cùng, dám làm những gì mà người khác không dám làm, ngoài ra không còn sở trường gì khác. Chuyện đăng môn bái phỏng, xin miễn đi thôi!
Nam Sơn Nhạc nheo mắt nhìn Thiển Thủy Thanh, miệng lão lẩm bẩm lời Thiển Thủy Thanh vừa nói:
- Chỉ dựa vào một chữ Dũng làm cho đến cùng, dám làm những gì mà người khác không dám làm...Thì ra là như vậy, rốt cục ta đã nhìn lầm ngươi! Ha ha, Thiển Tướng quân nói rất hay, mặc dù lời nói đơn giản nhưng ý tứ sâu xa, tuy nhiên, cần gì phải cự tuyệt người ngoài ngàn dặm như vậy? Có câu 'sáng nghe giảng đạo, chiều chết cũng vui', lão phu thật lòng muốn thỉnh giáo Tướng quân kia mà!
Thiển Thủy Thanh lạnh lùng đáp trả:
- Đã không cùng chí hướng thì khó mà ngồi nói chuyện với nhau, xin Tướng gia miễn cho việc này đi thôi!
Thân thể Nam Sơn Nhạc run lên bần bật, nhưng không thể nào không đè nén cơn tức giận, nhẫn nhịn một lần.
Lão ôm lòng căm phẫn quay trở về.
Mặc dù lão chỉ cần quay người là có thể trở vào phủ của mình, nhưng chỉ có vài bước lại đi một cách khó khăn, dường như phải đi qua cả một thế giới.
Thiển Thủy Thanh nhìn theo bóng người của Nam gia trở vào trong phủ, sau đó hai cánh cửa lớn chậm rãi khép lại, áp lức toàn thân lúc này mới dần dần thư giãn, cũng thở ra một hơi thật dài.
Hoàn cảnh lúc nãy vô cùng căng thẳng như kiếm tuốt cung giương, đối thoại chan chát với nhau, nói với nhau bằng thái độ khẩu Phật tâm xà, ánh mắt cả hai tràn đầy sát khí, chưa bao giờ Thiển Thủy Thanh có cảm giác căng thẳng cao độ như vậy. Hắn có cảm giác dường như đang leo lên một vách đá dựng đứng cao ngất, bất cứ lúc nào cũng có thể rơi xuống, nhưng rốt cục cũng đã bám trụ được, ngẩng cao đầu, mới có tư cách đối chọi trực diện cùng đối thủ hùng mạnh kia.
Cảm giác rất mệt mỏi, nhưng cũng vô cùng khoan khoái.
- Hội triều ngày mai ắt sẽ vô cùng phấn khích!
Đột nhiên Mộc Huyết nói.
Thiển Thủy Thanh chậm rãi đáp:
- Có lẽ không cần tới ngày mai, ngay bây giờ đã...
Hắn còn chưa dứt lời, một con khoái mã phi nhanh vào hẻm Hồ Đồng, chính là một tên thái giám trẻ, hắn kêu to với bọn Thiển Thủy Thanh:
- Bệ hạ có chỉ, lệnh cho Chưởng Kỳ của Thiết Phong Kỳ Thiển Thủy Thanh lập tức vào cung kiến giá, không được chậm trễ!
Tin tức của Thương Dã Vọng tới cũng rất nhanh.
O0o
Điện Cần Chính là nơi Hoàng đế phê duyệt tấu chương, xử lý quốc sự, đồng thời cũng là nơi mà Hoàng đế tiếp kiến một ít quan viên để nói chuyện đặc biệt một chút.
Hương khói lượn lờ trong chiếc đỉnh ba chân nằm giữa điện, phía sau hoàng án (bàn), Thương Dã Vọng đang khoanh tay đứng thẳng.
Trên bức tường phía sau treo một tấm bản đồ gần như phủ kín cả bức tường, chiền dài lên gần tới nóc điện.
Lúc này Thương Dã Vọng đang xem bản đồ vô cùng chăm chú, cho nên khi quan trực nhật hô to câu: "Thiết Phong Kỳ Thiển Thủy Thanh cầu kiến bệ hạ!" tới lần thứ ba, ông ta mới nghe thấy.
- Bảo hắn vào đây!
Ông ta thuận miệng nói, cũng không xoay người lại.
Vì thế lúc Thiển Thủy Thanh bước vào trong điện, cái đập vào mắt hắn đầu tiên là bóng dáng hào hùng của Thương Dã Vọng.
- Thần Thiển Thủy Thanh tham kiến bệ hạ, bệ hạ vạn tuế!
Thương Dã Vọng chậm rãi xoay người lại.
Lần đầu tiên nhìn thấy Thương Dã Vọng, người ta sẽ nhận thấy gương mặt của ông ta hết sức bình thường, hơi dài như mặt ngựa, đang độ tuổi trung niên, có một chiếc mũi ưng khoằm xuống. Thế nhưng khi nhìn kỹ, sẽ phát hiện ra Thương Dã Vọng có một cái trán rất rộng rãi, tươi tốt tròn đầy, ngoài ra thì xương xẩu trên gương mặt trông rất thô. Điều này khiến cho nhìn qua ông ta có một phong thái hết sức cứng rắn, hơn nữa hai mắt sâu hoắm, hai gò má nổi cao, lại thêm ánh mắt khiến cho người ta vừa thấy phải kinh sợ, vẻ mặt đế vương không giận mà oai, làm cho người ta có cảm giác vô cùng rúng động. Text được lấy tại
Tướng mạo của một bậc đế vương chân chính luôn luôn làm cho người ta vừa nhìn thấy lần đầu đã có cảm giác muốn vái lạy. Thương Dã Vọng chính là một người như vậy.
Nếu xét theo vẻ ngoài, người này có tính quả quyết, cứng rắn, khí phách rộng rãi nhưng kèm thêm một chút tàn nhẫn và hung bạo.
Ánh mắt Thương Dã Vọng dừng trên người Thiển Thủy Thanh một hồi, sau đó thản nhiên nói:
- Ngươi đứng lên đi, lại gần đây với trẫm!
- Thần không dám!
Thiển Thủy Thanh lớn tiếng đáp.
- Nếu ngươi không dám, chính là chống lệnh!
Lời nói của ông ta đơn giản, nhưng có một sức mạnh làm cho người ta không thể nào chống lại.
Thiển Thủy Thanh bèn đứng lên.
Thương Dã Vọng lại xoay người một lần nữa, đưa lưng về phía Thiển Thủy Thanh:
- Đến bên cạnh trẫm, xem qua bản đồ một chút!
Đây là lần đầu tiên từ trước tới nay Thiển Thủy Thanh gặp mặt Hoàng đế, trong lòng hết sức khẩn trương. Trên thực tế, tất cả quan viên mới gặp Hoàng đế lần đầu, không thể tránh khỏi trong lòng thắc thỏm không yên, chỉ sợ mình có cử chỉ thất lễ, Hoàng đế sẽ trách tội. Cho dù Thiển Thủy Thanh trời sinh to gan lớn mật, nhưng ở trước mặt vua của một nước, cũng vẫn có cảm giác không yên. Nhưng hắn lại không ngờ, mới vừa bước vào, thậm chí ngay cả một câu thăm hỏi ân cần Hoàng đế cũng chưa nói, cũng không hỏi một câu nào, cũng không chỉ trích bất cứ chuyện gì, chỉ nói một câu vô cùng đơn giản: "Đến bên cạnh trẫm, xem qua bản đồ một chút!"
Vậy mình phải làm sao?
Bắt chước các đại thần quỳ xuống tung hô vạn tuế, miệng nói không dám đứng ngang hàng cùng bệ hạ, vập đầu đến nỗi máu chảy ròng ròng hay sao? Hay là nên nghênh ngang bước tới, cứ như vậy sánh vai đứng cùng Hoàng đế như lời ông ta bảo, quả thật là chết người mà!
Nhưng rốt cục hắn không có thời gian.
Thiển Thủy Thanh không khỏi nở nụ cười khổ.
Hắn đi tới đứng cạnh Thương Dã Vọng.
Nếu bảo hắn quỳ trước mặt Hoàng đế, hắn không phản đối, nhưng nếu bảo hắn la hét rằng thần không dám sánh vai cùng bệ hạ, hắn tự biết mình làm không được.
Nếu đã là như vậy, cứ việc thản nhiên đối mặt.
Bản đồ trước mặt rõ ràng là một tấm bản đồ vẽ toàn bộ đại lục Quan Lan, trên bản đồ sông núi dọc ngang, sông ngòi chằng chịt, đồi núi thảo nguyên, rừng núi nhất nhất đều thể hiện đầy đủ rõ ràng. Những chi tiết ấy đều được thể hiện bằng những đường mực khác nhau, cũng có chú giải dưới góc bản đồ, thậm chí còn phân biệt với nhau bằng màu sắc. Cũng nhờ vào tấm bản đồ này, Thiển Thủy Thanh mới thật sự có một sự hiểu biết rõ ràng và toàn diện về địa hình của đại lục Quan Lan.
Nếu xem như cả đại lục Quan Lan là một hình vuông hoàn chỉnh, lại vẽ một đường chữ thập giữa đại lục này, chia cả đại lục làm bốn phần bằng nhau, như vậy Thiên Phong, Chỉ Thủy, Kinh Hồng cùng với một số nước nhỏ chung quanh như Sơn quốc, Liên minh các thành thị tự do nằm cùng một chỗ, chiếm diện tích khoảng bốn trăm vạn dặm vuông, gần như chiếm toàn bộ phần góc phải phía dưới bản đồ, cũng chính là vùng phía Đông Nam.
Theo đó, Đế quốc Mạch Gia có danh hiệu là kho lương thực của đại lục Quan Lan, lấy sông Ác Lãng làm biên giới, nằm ở phía Đông Bắc. Nơi đó ngoài Đế quốc Mạch Gia ra, còn có những nước xứ lạnh nằm sát cực Bắc, cực Đông nằm sát góc trên cùng bên tay phải là Nhai quốc, cùng một số nước nhỏ nằm chung quanh Đế quốc Mạch Gia.
Đế quốc Kinh Hồng nằm ở phía Tây, nằm vào phần góc trái phía dưới bản đồ. Vùng rừng nhiệt đới có lượng mưa rất cao trải dài trong khu vực này, gần Đế quốc Kinh Hồng nhất có một số quốc gia nhỏ như Phong quốc.
Góc Tây Bắc của đại lục có ít quốc gia nhất, nhưng có diện tích rộng rãi nhất. Ở nơi đây, tộc Tây Xi là một dân tộc thiểu số xây dựng lãnh thổ trên một vùng thảo nguyên có diện tích mà người người mơ tưởng. Lãnh thổ của bọn họ không chỉ bao trùm gần như toàn bộ vùng Tây Bắc, lại còn kéo dài thêm một dải hẹp ở cả miền Bắc, giống như một sợi râu thật dài, bao trùm toàn bộ đại lục.
Khu vực có nhiều quốc gia diện tích nhỏ nhất, lực lượng yếu nhất nằm ở vùng trung tâm đại lục. Ở nơi này, ngoài Công quốc Thánh Uy Nhĩ ra, còn có hàng chục nước nhỏ nằm san sát. Hành lang Thánh Khiết là một con đường xuyên ngang toàn bộ đại lục, bởi vậy dọc theo hành lang này, những quốc gia có địa hình thuận lợi triển khai chém giết với nhau vô cùng thảm thiết. Các quốc gia quanh đó không hy vọng khu trung tâm này có thể lập nên một quốc gia lớn mà độc lập, cho nên dùng hết khả năng châm ngòi mâu thuẫn, vừa làm cho giữa các quốc gia xung đột với nhau, vừa cố gắng lôi kéo đồng minh về phía mình. Công quốc Thánh Uy Nhĩ chính là một liên minh các nước nhỏ được lập nên dưới tình hình như vậy, nó chỉ có lãnh thổ không tới bốn mươi vạn dặm, nhưng lại do hơn hai mươi quốc gia tạo thành, có thể thấy chiến sự trong vùng này hỗn loạn tới mức nào.
Đế quốc Kinh Hồng là quốc gia có lượng mưa rất cao, cực Bắc là nơi đóng băng quanh năm. Đại Đế quốc Tây Xi, có thảo nguyên bao la rộng rãi nhưng tài nguyên thiếu thốn, cũng dồi dào kỵ binh giống như người Đế quốc Thiên Phong, lại hung ác dã man, thô lỗ hơn người Đế quốc Thiên Phong. Nhưng bọn họ thiếu tính tổ chức nghiêm ngặt, chỉ có khinh kỵ binh của họ gần như thiên hạ vô song, nhưng trọng giáp thiết kỵ lại vô cùng kém cỏi.
Nhai quốc là cường quốc về thủy chiến, kỹ thuật chiến đấu trên biển của bọn họ mạnh hơn rất nhiều so với Chỉ Thủy, Đế quốc Kinh Hồng, Đế quốc Mạch Gia.
So ra, Chỉ Thủy, Đế quốc Kinh Hồng vì bị người Đế quốc Thiên Phong uy hiếp nên bắt buộc phải phát triển năng lực thủy chiến, dùng để tăng năng lực phòng ngự. Vì vậy tuy bọn họ có được lực lượng Thủy quân rất đông, nhưng lại thiếu thốn các loại tàu thuyền lớn có khả năng đi trên biển dài ngày. Đế quốc Mạch Gia nằm ở vùng sông nước, nằm vào vùng bình nguyên tam giác sông Lan Thương, tuy rằng năng lực thủy chiến khá xuất sắc nhờ vào lãnh thổ của bọn họ có rất nhiều sông ngòi, giỏi về hiệp đồng tác chiến trong phạm vi sông nước nhỏ hẹp, nhưng chiến đấu trong phạm vi sông nước nhỏ hẹp như vậy hoàn toàn khác xa so với chiến đấu trên mặt biển rộng bao la, bởi vậy cho nên bọn họ cũng không phải là cường quốc về thủy chiến.
Đại Đế quốc Tây Xi nằm gần cực Bắc, trên cao nguyên, khá cao so với mực nước biển, không khí rất loãng, cho nên chiến sĩ của họ vô cùng vất vả gian lao. Bọn họ không chỉ có kỵ binh rất đông, còn có rất nhiều quân Hồng Ngưu là một binh chủng mang sắc thái địa phương hết sức đặc thù, tuy tốc độ không nhanh, nhưng sức mạnh có thể chống chọi được với binh chủng trọng giáp thiết kỵ.
Ngoại trừ cao nguyên, nơi đây còn có dãy núi cao nhất đại lục: Núi Thiên Thần, cùng với đỉnh núi cao nhất đại lục: Xử Nữ phong.
Nghe nói độ cao của Xử Nữ phong so với mực nước biển là hơn bảy ngàn thước, sở dĩ được gọi là Xử Nữ phong bởi vì chưa từng có người nào có thể leo lên tới đỉnh của nó mà còn sống trở xuống.
So với nó, dãy núi Liên Vân vô cùng nổi tiếng chỉ cao hơn mực nước biển ba ngàn thước mà thôi, còn núi Đoạn Long, Bàn Sơn chỉ có độ cao trên dưới hai ngàn thước. Dãy núi Thương Thiên là tấm bình phong của người Đế quốc Kinh Hồng, đỉnh cao nhất của nó cũng chỉ xấp xỉ ba ngàn thước. Những dãy núi kể trên nếu đem so sánh với núi Thiên Thần giống như đem trẻ con so cùng người lớn, nhưng vì địa thế cheo leo hiểm trở khó có thể trèo lên, được người ta xây dựng những quan ải, đặt tên đủ loại hùng quan, nên trở thành ải trời hiểm trở khó có thể vượt qua.
Trong truyền thuyết của đại Đế quốc Tây Xi, núi Thiên Thần có thể nói là nơi khởi nguồn của chúng sinh, nếu không có núi Thiên Thần, sẽ không có những sinh linh trên mặt đất sinh sản và tồn tại. Bởi vậy dân chúng của đại Đế quốc Tây Xi đều cho rằng hàng chục quốc gia trên đại lục đều là dựa vào núi Thiên Thần - núi mẹ của bọn họ mà sinh tồn. Lại thêm các vùng Đông, Nam vẫn còn hoang dã, chưa được bàn tay con người khai phá nhiều, nên dân tộc Tây Xi càng thêm khinh thường dân chúng ở những vùng đó.
Tuy nhiên nói như vậy cũng không lấy gì làm quá đáng.
Trên dãy núi Thiên Thần tuyết đọng quanh năm, cho nên lượng nước tồn đọng trên đó hơn xa dãy núi Liên Vân. Cả dãy núi Liên Vân tạo nên dòng sông Nguyệt Nha, chỉ cung cấp nước cho một mình Chỉ Thủy mà thôi, nhưng dãy núi Thiên Thần lại tạo nên hàng chục con sông lớn, cung cấp nước cho khắp đại lục.
Trong đó con sông lớn nhất dài nhất chính là sông Cách Nhĩ Mục Sa.
Sông Cách Nhĩ Mục Sa uốn lượn quanh co chảy từ Tây sang Đông, đi ngang qua toàn đại lục Quan Lan, dọc đường phân ra hàng trăm nhánh sông nhỏ, cung cấp nước cho vô số khu vực. Trong đó có hai nhánh sông quan trọng nhất là sông Mị Nhi và sông Lan Thương.
Sông Mị Nhi chảy dài theo hướng Nam, ngang qua các quốc gia như Phong quốc, Khâu quốc, thậm chí cũng chảy ngang qua Đế quốc Kinh Hồng, cuối cùng chảy về phía Nam của biển Lam Linh, tạo nên vùng đất xinh đẹp nhất trên đại lục.
Sông Lan Thương chảy dài theo hướng Bắc, ngang qua vùng Trung bộ của đại lục, xuyên qua Công quốc Thánh Uy Nhĩ to lớn, cuối cùng chảy lên phía Bắc vào Đế quốc Mạch Gia, chảy qua Nhai quốc, đổ vào nơi giáp giới giữa biển Linh Cầm và Mâu Hải. Sông Ác Lãng là tấm bình phong lớn nhất ngăn giữa Đế quốc Thiên Phong và Đế quốc Kinh Hồng, thật ra chỉ là nhánh của sông Lan Thương.
Cái tên Quan Lan của đại lục này thật ra là do sông Lan Thương mà ra, thế nước của sông Mị Nhi tương đối êm đềm hơn nhiều so với sông Lan Thương. Nước sông Lan Thương chảy xiết, triều dâng hung mãnh, tuy rằng hàng năm cung cấp nước cho rất nhiều vùng đất, nhưng mỗi đầu năm sẽ dâng cao một lần, tấn công hàng chục các quốc gia nằm ở chung quanh nó, nước sông bao phủ một diện tích hàng trăm vạn dặm vuông, khiến cho hàng ngàn hàng vạn dân chúng trôi giạt khắp nơi.
Mỗi một lần sông Lan Thương ngẫu nhiên phát ra uy lực của nó gây nên tai họa như vậy, so ra nếu như đập Lý Quan trên sông Nguyệt Nha bị vỡ chẳng đáng kể gì. Còn sông Ác Lãng nổi danh hung hãn thật ra chỉ là một đứa nhỏ bướng bỉnh mà thôi, dưới những đợt triều dâng giận dữ của sông Lan Thương, chỉ có thể ngoan ngoãn vâng lời.
Hành lang Thánh Khiết và vùng châu thổ Lan Thương đều nhờ sông Lan Thương bồi đắp phù sa hàng năm mà trở nên màu mỡ. Mọi người đều dựa vào sông Lan Thương mà sinh sống, cũng chịu biết bao cực khổ vì nó, giống như một đứa trẻ không may gặp phải cha mẹ hung dữ, tuy được nuôi nấng dạy dỗ, nhưng hàng ngày cũng phải nếm trải hành hạ bởi đòn roi.
Dù cho con người có sức mạnh đến mức nào, đứng trước lực lượng của tự nhiên cũng trở nên bé nhỏ và yếu ớt.
Đế quốc Mạch Gia được tôn xưng là kho lương thực của đại lục Quan Lan, nằm ở phía dưới vùng châu thổ Lan Thương gần như là quốc gia được lợi nhiều nhất mà thiệt hại ít nhất. Khi sông Lan Thương chảy tới vùng này, thế nước hung hãn vì chia ra quá xa, quá nhiều mà trở nên bình ổn lại. Trừ sông Ác Lãng ra, gần như không còn con sông nào có thế nước hung dữ khác trong lãnh thổ của Đế quốc Mạch Gia, ngược lại Đế quốc Mạch Gia có rất nhiều sông nhỏ, tưới khắp cả quốc gia, vì vậy mới tạo nên danh hiệu kho lương thực trên đại lục.
So với sông Lan Thương mạnh mẽ hung hăng, sông Mị Nhi là một dòng sông mà mỗi một người dân ở phía Nam đại lục vô cùng yêu thích. Nếu nói sông Cách Nhĩ Mục Sa sinh ra hai đứa con, như vậy sông Lan Thương là đứa có thân hình cường tráng khỏe mạnh, tính tình hung hãn, không chịu vâng lời. Còn sông Mị Nhi là một bé gái hiền dịu đáng yêu, thế nước hết sức êm đềm. Nếu chúng ta căn cứ vào tình thế địa lý như đã miêu tả tự nãy giờ mà phân tích, như vậy nguyên nhân mà sông Mị Nhi có thế nước êm đềm, không liên quan lắm đến chuyện nó là chi nhánh của sông Cách Nhĩ Mục Sa. Cho nên không thể phủ nhận rằng, sông Mị Nhi chảy về phía Nam cung cấp nước cho rất nhiều vùng đất, đồng thời phiền phức mà nó tạo ra gần như không đáng kể.
Bởi vậy lưu vực của sông Mị Nhi càng chảy về phía Nam, nhánh của nó lại càng ít, sau khi chảy ngang qua rất nhiều vùng đất có khí hậu nóng bức làm cho lượng mưa khá cao, cuối cùng nó lặng lẽ chảy vào phía Nam biển Lam Linh.
Tất cả nội dung vừa kể trên đều được miêu tả rõ ràng trên tấm bản đồ này.
Chuyện hiếm có hơn nữa chính là, cả tấm bản đồ ngang mười hai thước, cao tám thước, cần phải có một tòa điện có diện tích tương xứng mới có thể treo lên. Vì vậy cho nên Thiển Thủy Thanh không thể không suy nghĩ đến một chuyện, rằng người vẽ nên tấm bản đồ này nhất định ngay từ đầu đã chuẩn bị đặt tấm bản đồ ở nơi đây, cho nên quy cách thể hiện trên bản đồ mới có được sự thống nhất hài hòa như vậy.
Đây là tấm bản đồ vừa tinh xảo vừa rõ ràng, thể hiện được toàn bộ địa hình trên đại lục chính xác tỉ mỉ nhất mà Thiển Thủy Thanh đã từng thấy qua kể từ khi hắn gia nhập thế giới này, vì vậy cho nên hắn không nhịn được bật thốt lên:
- Tấm bản đồ này là do ai vẽ ra vậy?
Gương mặt Thương Dã Vọng xuất hiện một nụ cười:
- Ngươi có nghe qua cái tên Tần Nghi bao giờ chưa?