Dịch Lộ Lê Hoa

Chương 46

Lộ Dao cân nhắc tin tức từ bồ câu Thu Nhiên gửi đến. Nàng không phải người giang hồ, dù sống trên núi Võ Đang hơn nửa năm nhưng trừ lần phái Thiếu Lâm lên Võ Đang đó ra, cơ hồ yên bình không giống một môn phái võ lâm chút nào. Nếu không phải mỗi lần đi ngang qua sân luyện công hoặc sân viện của Võ Đang chư hiệp, nghe bên trong có tiếng người luyện công, Lộ Dao cơ hồ cho rằng mình đang ở một đạo quan không hơn không kém. Nhưng lần này, trên chính điện [43] của Phù Điền Thiếu Lâm, ngược lại Lộ Dao được kiến thức đến, kỳ thật giang hồ cũng không khác thương trường là mấy. Một đám người ngươi tới ta lui khách sáo hết chỗ nói, hàn huyên khiêm tốn đôi ba câu, Lộ Dao nhìn mà cứ muốn ngáp miết. Phương trượng Phù Điền Thiếu Lâm pháp danh Tịnh Bi, tuổi gần tám mươi, nhưng thân thể rất cường tráng, nói chuyện hiền từ chậm rãi. Tuy Lộ Dao nghe hơi mệt nhưng so với mấy hòa thượng Thiếu Lâm hở ra là hô chém hô giết mà Lộ Dao gặp kia, Tịnh Bi đại sư này ra dáng người xuất gia tứ đại giai không lấy từ bi làm gốc hơn nhiều.

Lần này diễn viên chính đương nhiên là Du Liên Châu và Ân Lê Đình. Thế là, Lộ Dao vốn có nguyên tắc không thể khách át giọng chủ, sau khi giới thiệu bản thân ngắn gọn thì yên phận ngồi một bên uống trà ngon khó gặp, một bên quan sát cảnh sắc ngoài cửa. Khung cảnh ở Phù Điền Thiếu Lâm này khá là thanh nhã, lúc này đang là mùa hè khí trời nóng bức, trong tự lại cổ thụ chọc trời, không khí mát mẻ, cộng thêm chim chóc sâu bọ hòa ca, gió thổi mát rượi, Lộ Dao thoải mái thiếu điều muốn ngủ gục.

Lúc này bỗng Tịnh Bi lên tiếng “Lộ cô nương nhìn có vẻ mệt mỏi?”

Lộ Dao vội vàng ngồi thẳng dậy, cười nói “Không có không có, tại quý tự quá mát mẻ, quá thoải mái thôi.” Nói rồi nhìn Du Liên Châu, phát hiện hình như họ đã xong việc rồi, vì thế vội vàng nói rõ mục đích mình đến, sau đó đưa thẳng quà tặng do Từ Thiên chuẩn bị sẵn.

“Phó trang chủ và Lộ thí chủ khách sáo quá rồi. Hai vị làm chuyện đại từ đại bi, cứu tính mạng người, Du nhị hiệp và Ân lục hiệp tới trợ giúp càng là nghĩa cử từ bi, đệ tử phật môn ta chỉ có cảm động, nào có trách móc? Giai đoạn bệnh dịch vừa rồi, Lộ thí chủ và Du nhị hiệp, Ân lục hiệp bôn ba vất vả giải thoát nỗi khổ bệnh tật của chúng sinh, so với chúng bần tăng ở trong tự niệm kinh cầu đảo thì càng công đức vô lượng.”

Lộ Dao cười nói “Đại sư quá khen. Dịch bệnh đột phát, hành y là bổn phận của y giả, cầu an chúc phúc lại là bổn phận của đại sư, sao có thể so sánh công đức cao thấp. Huống hồ nếu để ta ở đây tụng kinh ba tháng, với tính tình của ta chắc chắn không chịu nổi, phỏng chừng đến cuối cùng chính đại sư cũng chịu không được, có thể chịu đựng e chỉ có Phật Tổ mà thôi.”

Tịnh Bi nghe Lộ Dao nói một tràng, mỉm cười “Tùy ý mà đến, chợt đến chợt đi. Theo lão nạp thấy, Lộ thí chủ không phải không có tuệ căn, mà là tuệ căn khá sâu, đáng tiếc duyên phận với nhà Phật không lớn.” Nói rồi chắp hai tay lại.

“Nhà Phật coi trọng tứ đại giai không, tục nhân như ta chắc chắn chịu không được rồi.”

Tịnh Bi bất ngờ ngước mắt, nhìn kỹ Lộ Dao một hồi, nói “Lộ thí chủ hành y tế thế, vốn dĩ nên được phúc lớn hồi báo. Đệ tử Phật môn ta vốn không nói số mệnh, nhưng Lộ thí chủ khí trung hàm sát [44], cần phải cẩn thận chú ý, tương lai e gặp báo kiếp, chẳng phải thế sự vô thường mà sự thật rành rành là số trời đã định.”

Lời nói quá đột ngột, Lộ Dao hơi sửng sốt nhìn Tịnh Bi, nửa ngày không nói.

Du Liên Châu cũng không hiểu lắm, nhưng Ân Lê Đình nghe mấy chữ “khí trung hàm sát, e có báo kiếp”, hết sức lo lắng nhìn Lộ Dao, hàng lông mày đẹp đẽ nhíu chặt, thấy Lộ Dao không lên tiếng, chàng quay sang gặng hỏi “Đại sư nói thế có ý gì? Có thể giảng giải rõ hơn chăng?”

Tịnh Bi lắc đầu nói “Không phải bần tăng không giải mà là không biết cách nào giải, tất cả đều dựa vào số trời. Bần tăng tu vi nông cạn, không cách nào thấu triệt.”

Nhất thời trong sảnh lặng im, Lộ Dao đăm chiêu nghiêng đầu nhìn Tịnh Bi, hồi lâu mới lên tiếng hỏi “Liệu đại sư có thể nói rõ báo kiếp này do đâu mà tới chăng?”

“Số trời đã định, truy đến ngọn nguồn chẳng qua là hai chữ nhân quả mà thôi. Ngày xưa gieo nhân, bây giờ gặt quả. Hôm nay gieo nhân, kiếp sau gặt quả. Báo kiếp do đâu mà tới, bần tăng không biết, nếu cả thí chủ cũng không biết, vậy thì chỉ có ông trời mới biết thôi.”

Lộ Dao nghe xong, bờ vai khẽ rung, cứ nhìn Tịnh Bi thật lâu, thành kính vái một vái “Đa tạ đại sư chỉ điểm, Lộ Dao hiểu rồi.”

Trong một lúc, bốn người đều im lặng. Du Liên Châu trò chuyện đội câu liền muốn cáo từ, nhưng Tịnh Bi giữ mọi người ở lại tự quanh quẩn hết ngày. Nghĩ đến Lộ Dao còn phải tra xét dịch bệnh trong thành Phù Điền, Du Liên Châu bèn đồng ý. Vì thế, giữa trưa hôm đó dùng cơm chay xong, Du Liên Châu về phòng đả tọa điều tức, Lộ Dao thì cùng Ân Lê Đình đi tra xét tình hình dịch bệnh trong thành Phù Điền mấy ngày trước đã hết hay chưa. Đi hết nửa thành Phù Điền, quay về khá mệt mỏi, cùng Ân Lê Đình ăn xong bữa tối, cơ hồ nhắm mắt lần mò về phòng, gắng gượng tắm rửa xong, ngã xuống giường lập tức thiếp đi.

Riêng Ân Lê Đình, chàng suy nghĩ lời Tịnh Bi nói lúc trưa cả một ngày, càng nghĩ càng thấy không thể yên tâm được. Mỗi lần định hỏi Lộ Dao, lại nhìn thấy bộ dạng đã quăng hết mọi việc ra sau ót của nàng, cảm thấy vẫn không nên vì mấy câu không đầu đuôi mà làm nàng lo thêm thì hơn. Thế nên ăn cơm xong, Ân Lê Đình suy đi tính lại, một mình đi tới thiền phòng của Tịnh Bi.

Tịnh Bi mời chàng vào phòng, hai người ngồi xếp bằng, Ân Lê Đình chưa mở miệng, Tịnh Bi đã ngẩng đầu mỉm cười “Ân lục hiệp đầy bụng tâm sự đến đây, vì chuyện của Lộ thí chủ phải không?”

Ân Lê Đình thấy Tịnh Bi biết lý do chàng đến, có phần ngượng ngập nhưng hai chữ “báo kiếp” thật tình khiến chàng lo lắng không thôi, thành thử cũng không e dè nữa, mở miệng nói “Giờ này vãn bối đến quấy nhiễu đại sư thật sự không nên nhưng sáng nay lời đại sư nói quả thật khiến tại hạ đứng ngồi không yên. Rất mong thỉnh giáo đại sư, “báo kiếp” ngài nói rốt cuộc là gì? Có cách hóa giải chăng?”

Tịnh Bi chắp tay niệm Phật “A Di Đà Phật, Ân lục hiệp, cái gọi là báo kiếp, kỳ thật chính là quả báo nhân duyên. Ngày xưa gieo nhân bây giờ gặt quả, kiếp này nhận quả là việc tất nhiên. Nếu có thể hóa giải liền rối loạn đạo trời xoay vần.”

Ân Lê Đình nghe xong, chân mày nhíu chặt, sắc mặt tái đi “Đại sư… Lộ Dao thân là y giả, cứu người giúp đời vô số. Y thuật lại cao minh, đến vết thương của tam ca tại hạ, tất cả đại phu đều bó tay cũng có thể chữa lành. Người như vậy, dẫu không có quả lành thì sao lại có báo kiếp?”

“Ân lục hiệp, bần tăng cũng đã nói qua. Điểm này không phải bần tăng có thể tham ngộ được, chuyện nhân duyên nghiệp báo là chuyện rối rắm khó gỡ nhất trên đời này, tất cả đều do ý trời.”

“Vậy… liệu Lộ Dao có gặp nguy hiểm?”

“Thế sự kỳ thật không hề vô thường. Ân lục hiệp nhớ kỹ đạo lý họa phúc đan xen, lành dữ lẫn lộn. Vả lại, đừng quên nhân hôm nay cũng là quả ngày mai, đan xen lẫn nhau, cuối cùng đi đến đâu, nhận được nghiệp báo thế nào, không phụ thuộc vào năng lực của con người.” Tịnh Bi nhìn Ân Lê Đình.

Ân Lê Đình nghe xong, trầm ngâm suy nghĩ mấy khắc, đang định lên tiếng lại nghe Tịnh Bi nói tiếp “Ân lục hiệp cũng không cần lo lắng. Tuy báo kiếp của Lộ thí chủ không giải được nhưng ta thấy khí chất Ân lục hiệp hòa nhã chính trực, đơn thuần sạch sẽ, được phúc lớn ban ơn những ba đời, có lẽ có thể hóa giải được hung kiếp trong số mạng của Lộ thí chủ. Đến chừng đó quả báo tuy còn nhưng tai ác đã hết, chính là đạo lý trong họa có phúc. Chỉ là, nếu thật như thế, vậy số mệnh của Ân lục hiệp e rằng cũng bị cuốn vào trong vận mệnh của Lộ thí chủ, cũng khó mà đoán được.”

Mắt Ân Lê Đình sáng ngời, giọng nói du dương, dường như mây mù đè nén cả một ngày nháy mắt tan biến, hỏi dồn “Đại sư, phải thế nào mới hóa giải được hung kiếp của Lộ Dao? Ân mỗ cầu đại sư chỉ giáo.” Nói rồi đứng dậy, khom người hành lễ.

Tịnh Bi nâng Ân Lê Đình dậy, nói “Ân lục hiệp xin đứng dậy, điều cậu hỏi lão nạp cũng không biết. Không giấu gì Ân lục hiệp, mệnh cách Lộ thí chủ đặc biệt, thật sự không đi theo lẽ thường.”

Ân Lê Đình ngẩng đầu, vẻ mặt kỳ lại nhìn Tịnh Bi “Ý đại sư là?”

“Ân lục hiệp và Lộ thí chủ mỗi người hãy thuận theo lòng mình đi, nếu có lúc mơ hồ, chỉ cần nhớ kỹ đạo lý nhân quả là được. A Di Đà Phật!” Dứt lời chắp tay lại.

Đạo lý nhân quả. Ân Lê Đình cúi đầu suy nghĩ, dường như đã ngộ ra.

Tịnh Bi nhìn thần sắc Ân Lê Đình, mỉm cười chắp tay niệm Phật.

Đủ một nén nhang, Ân Lê Đình ngẩng đầu, bỗng dưng phát hiện đã muộn, liền bái tạ Tịnh Bi, ra khỏi thiền phòng. Dọc đường đi cứ mãi suy tư “đạo nhân quả” mà Tịnh Bi nói, mãi đến về tới viện mình và Du Liên Châu ngụ tạm cũng không ngẩng lên. Đột nhiên bả vai bị người ta gõ một cái “Lục đệ.”

Ân Lê Đình quay người, Du Liên Châu đứng sau lưng chàng. Vừa rồi chàng suy nghĩ quá nhập tâm, thậm chí không phát hiện Du Liên Châu đã ngồi trên ghế trong viện chờ chàng thật lâu.

“Nhị ca.”

Mấy ngày nay hình như Du Liên Châu đã quen với tật hở ra là mất hồn của Ân Lê Đình. Chàng trông Ân Lê Đình lớn lên từ nhỏ, từ sau khi Trương Tùng Khê nói cho chàng nghe chuyện Ân Lê Đình và Lộ Dao, tâm sự của lục đệ ít nhiều gì chàng cũng hiểu được vài phần. Hôm nay vừa nghe Tịnh Bi nói, tuy chàng không tỏ vẻ gì nhưng phản ứng của Lộ Dao và Ân Lê Đình chàng nhìn rõ mồn một. Cho dù chưa từng trải qua tình cảm nam nữ, cũng nhận ra được Ân Lê Đình lo lắng cho Lộ Dao thế nào, bây giờ nhìn bộ dạng chau mày suy nghĩ của Ân Lê Đình, bèn hỏi “Đi tìm Tịnh Bi đại sư rồi hả?”

Ân Lê Đình ngồi xuống ghế trong viện cùng Du Liên Châu, gật đầu.

Du Liên Châu nói: “Ta và đệ xuống núi gần ba tháng rồi, bây giờ hai việc kia đều làm ổn thỏa, nên về Võ Đang trình sư phụ mới được, tránh cho sư phụ lão nhân gia lo lắng.”

Ân Lê Đình vừa nghe lập tức nói “Nhị ca, đệ…”

Du Liên Châu phẩy tay trái: “Nhị ca biết đệ lo cho Lộ cô nương, huống chi Phó trang chủ cũng mời hai người chúng ta Trung Thu này đến Thu Linh trang gặp mặt. Thành thử ta tính tới Phúc Châu, sau đó về Võ Đang trước. Lục đệ, đệ đưa Lộ cô nương về Kim Lăng Thu Linh trang trước. Bây giờ đã gần giữa tháng sáu, tất Phó trang chủ sẽ giữ đệ lại chơi một thời gian, đợi đến Trung Thu, nhị ca lại đến Thu Linh trang, chừng đó huynh đệ ta cùng về là được.”

Ân Lê Đình mừng rỡ túm tay áo Du Liên Châu “Nhị ca, cám ơn huynh!”

Du Liên Châu thấy bộ dạng mừng không để đâu cho hết của chàng, nhớ tới trước khi hai người xuống núi, Trương Tùng Khê kéo chàng qua một bên nói chuyện, bèn nói “Lục đệ, trước khi xuống núi, tứ đệ dặn ta trước khi chia tay thì dặn đệ hai câu.”

Ân Lê Đình lấy làm lạ: “Hả? Tứ ca nói gì ư?”

“Thứ nhất, tứ đệ dặn ta hỏi đệ đã hiểu rõ tâm ý của mình với Lộ cô nương chưa?”

Ân Lê Đình nghe sư huynh nhà mình hỏi thế, lập tức cúi đầu, mặt đỏ tới mang tai nhưng vẫn gật đầu mạnh mẽ.

Du Liên Châu thấy dáng vẻ ngượng nghịu của Ân Lê Đình, vừa hết cách vừa buồn cười nhưng cũng không chọc chàng, nói tiếp “Thứ hai, tứ đệ dặn ta hỏi đệ có từng để Lộ cô nương biết tâm ý của đệ chưa?”

Vừa dứt lời, Ân Lê Đình hít mạnh một hơi, ngước lên, kinh ngạc tròn mắt nhìn Du Liên Châu. Hơi nóng trên má chưa tan, nửa ngày mới nhìn thẳng vào Du Liên Châu, chậm rãi lắc đầu “Nhị ca, đệ không thể.”

Hai chữ “không thể” khiến Du Liên Châu không sao hiểu được. Theo chàng thấy, thiếu niên nam nữ phải lòng nhau tự định chung thân, tuy rằng không hợp lễ giáo nhưng nhi nữ giang hồ cũng không cần quá để ý tiểu tiết. Chỉ cần giữ đúng lễ nghĩa [45] thì cũng chẳng có gì. “Lục đệ nói thế có ý gì?”

Ân Lê Đình thoáng rũ mắt, khẽ nói “Lộ Dao, nàng… e rằng trong lòng có một người khác.”

Câu này vượt ngoài dự đoán của Du Liên Châu, không ngờ sự việc lại phức tạp thế này. Rốt cuộc hiểu được do đâu mà mấy ngày nay từ đầu chí cuối tâm sự của sư đệ nhà mình luôn nặng nề. Ân Lê Đình từ nhỏ đã hiền lành lương thiện, tính tình sư đệ chàng rõ hơn ai hết, thế nên chân mày chau càng chặt, nhất thời cũng không biết nên để Ân Lê Đình đưa Lộ Dao về Thu Linh trang hay là đi về Võ Đang cùng chàng, đỡ cho sư đệ đau lòng khổ sở.

Ân Lê Đình thấy vẻ mặt lưỡng lự của Du Liên Châu, đại khái đoán được tâm tư chàng, vội nói “Sư huynh, huynh đừng nghĩ nhiều. Thật ra… đệ không khổ sở.” Ngừng một chút, thấy Du Liên Châu lắng nghe, nói tiếp “Người trong lòng của Lộ Dao… là bạn chí thân từ nhỏ cùng nàng nương tựa.”

“Phó trang chủ?”

Ân Lê Đình lắc đầu “Không phải, người nọ tên Cố Nhược Trường, cùng lớn lên với Lộ Dao và Phó trang chủ. Người đó hơn Lộ Dao hai tuổi, từ nhỏ đã chăm sóc Lộ Dao, như hình với bóng. Sau khi ttruownrg thành, vì bảo vệ Lộ Dao mà cùng nàng đi vào nơi nguy hiểm, giúp nàng thực hiện chí hướng của mình, thật sự là như cha như anh như thầy như bạn.”

L

ần đầu tiên Du Liên Châu nghe tới cái tên Cố Nhược Trường này, càng không ngờ Lộ Dao và người đó có quan hệ sâu xa như thế “Vị Cố công tử đó bây giờ ở đâu?”

Ân Lê Đình cười khổ lắc đầu “Người đó đã mất rồi. Lộ Dao và Phó trang chủ chỉ có thể hàng năm hướng về phương bắc bái tế, an ủi nỗi nhớ nhung.”

Du Liên Châu nghe xong chân mày khẽ nhíu, chỉ cảm thấy sự tình càng lúc càng khó giải quyết.

Giọng Ân Lê Đình khe khẽ, trầm thấp nhưng chữ nào chữ nấy rõ ràng “Nhị ca, đệ biết huynh lo cái gì. Thật ra đáy lòng đệ rất cảm kích Cố công tử, nếu không phải huynh ấy săn sóc dạy dỗ Lộ Dao mười mấy năm, có lẽ đã không có Lộ Dao ngày hôm nay. Trước khi lâm chung huynh ấy căn dặn Lộ Dao không cho nàng khóc vào ngày giỗ của mình, ắt hẳn hi vọng sau này có một ngày Lộ Dao sẽ không đau lòng khổ sở vì mình nữa. Nhị ca… mấy ngày nay đệ cẩn thận suy gẫm, nàng, trong lòng nàng tất nhiên có Cố công tử. Người như thế, đổi lại là đệ cũng không cách nào quên được. Mà đệ… không muốn dùng tình cảm của mình ép buộc nàng, hoặc là làm nàng khó xử. Đệ có thể chậm rãi bầu bạn nàng, cứ như bây giờ là tốt nhất. Lộ Dao không phải nữ nhi tầm thường, nàng có ý nghĩ, có chí hướng, kể cả quá khứ trước kia, đệ nên tôn trọng, cũng là thể hiện sự tôn trọng và cảm kích dành cho Cố công tử.”

Lời Ân Lê Đình thật sự khiến Du Liên Châu giật mình, nửa ngày mới hỏi “Như đệ nói thì Cố công tử này chiếm vị trí rất quan trọng trong lòng Lộ cô nương. Tuy nhị ca không hiểu mấy chuyện tình cảm nam nữ nhưng cũng nhìn ra được Lộ cô nương là người nặng tình. Nếu cả đời nàng cũng không muốn quên Cố công tử thì sao?”

Ân Lê Đình hơi sững ra, rũ mắt xuống, hồi lâu khẽ đáp “Đệ vốn không hi vọng Lộ Dao sẽ quên Cố công tử, nếu thật thế nàng đã không phải Lộ Dao. Đệ nghĩ tình cảm của Lộ Dao và Cố công tử cũng sâu đậm như tình sư huynh đệ chúng ta, sao có thể quên được? Nếu có một ngày trời xanh chiếu cố bọn đệ… đó là duyên phận, nếu cả đời cũng không… thật ra cứ như vậy bầu bạn nàng hết đời, cũng rất tốt mà.”

Du Liên Châu nhìn Ân Lê Đình đăm đăm, ánh mắt quanh quẩn trên người chàng mãi, cân nhắc lời Ân Lê Đình. Mấy ngày nay chàng mơ hồ cảm thấy sư đệ nhà mình dần dần có vẻ gì đó không giống trước nữa, bây giờ rốt cuộc cũng hiểu. Lục đệ hiền lành yếu đuối thiện lương trước đây bây giờ loáng thoáng thêm một phần kiên trì bền bỉ và quyết đoán, kín đáo không bộc lộ, dung nhập vào lời ăn tiếng nói cử chỉ, khiến người hết sức hiểu sư đệ như chàng rất kinh ngạc. Nửa ngày, Du Liên Châu nở nụ cười rất khẽ, vui mừng thốt lên “Lục đệ, đệ trưởng thành rồi.”

Ân Lê Đình thấy mới đầu thần sắc Du Liên Châu vô chừng, lòng rất thấp thỏm, sợ sư huynh không hiểu ý mình, càng sợ chàng quy tội cho Lộ Dao, bây giờ bỗng nhiên Du Liên Châu nở nụ cười rất hiếm hoi, còn khen mình nữa, nhất thời hết sức cao hứng, túm tay Du Liên Châu “Nhị ca, đệ…”

Du Liên Châu vỗ vai chàng nói “Mấy chuyện nhi nữ tình trường nhị ca không hiểu, nhưng tính tình Lộ cô nương rộng rãi, đệ và nàng cùng nhau, đừng để những chuyện xưa cũ câu thúc. Trước giờ các sư huynh luôn lo tính đệ mềm yếu, chần chừ không quyết, võ công cao mấy cũng dễ chịu thiệt khi ra ngoài. Bây giờ xem ra, chúng ta có thể yên tâm rồi. Vả lại Lộ cô nương thông minh, cá tính lại phóng khoáng thẳng thắn, hai người đệ bên nhau, đi đến đâu cũng không sợ thiệt thòi.”

Ân Lê Đình nghe Du Liên Châu nói “hai người đệ bên nhau”, thẹn thùng nhìn sang chỗ khác.

Du Liên Châu vỗ vỗ sư đệ “Được rồi, đệ và Lộ cô nương đi trong thành cả ngày cũng mệt rồi, mau vào nghỉ đi.”

Ân Lê Đình gật đầu. Hai sư huynh đệ mạnh ai nấy về phòng nghỉ ngơi. Ân Lê Đình ngủ thiếp đi rất nhanh. Du Liên Châu ở phòng kế bên lại nhìn ánh trăng trong đêm, côn trùng nỉ non, nhớ tới năm xưa mấy sư huynh đệ cùng nhau học võ, Trương Thúy Sơn, Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc còn bé thơ, trằn trọc không ngủ.

[42] Một giáp bằng 60 năm

[43] Nguyên gốc nó là 大雄宝殿 (đại hùng bảo điện) – chính điện của chùa chiền phật giáo.

[44] Trên người ẩn chứa điềm hung ác

[45] Nguyên gốc: 发乎情止乎礼(phát hồ tình chỉ hồ lễ) trích trong học thuyết của Khổng Tử, nghĩa là cho dù ái tình có phát sinh thì bên trong ái tình ấy vẫn luôn có những khuôn phép của lễ nghi đạo đức ràng buộc giới hạn con người ta không nên đi vượt quá lằn ranh đó.
Bình Luận (0)
Comment