Đọc Thầm

Chương 59

Lúc ra khỏi phòng thẩm vấn, Lạc Văn Chu cảm thấy thần trí mình cũng có chút mơ hồ, quá trình tra hỏi cường độ cao, thời gian dài, đối với hai bên đều là một loại tra tấn, đặc biệt là khi đối mặt với nghi phạm có tâm lý vững vàng như Hứa Văn Siêu, không cho đối phương thở, kỳ thực cũng là không cho chính mình thở.

Những người chạy ngược chạy xuôi bên ngoài còn đang tìm kiếm các bằng chứng, kẻ thẩm vấn và bị thẩm vấn thì phải thông qua thần sắc đối phương, tin tức rất nhỏ giữa những câu chữ lộ ra để lừa gạt và phán đoán lẫn nhau-

Họ rốt cuộc nắm giữ bao nhiêu chứng cứ, Tô Lạc Trản rốt cuộc đã nói nhiều hay ít?

Hắn vừa rồi chỗ nào tự mâu thuẫn? Câu nào có khả năng là thật, câu nào là tránh nặng tìm nhẹ?

Họ đang trá cung mình phải không?

Trá cung từ hướng nào mới có thể ép hắn thừa nhận?

Hơi buông lỏng là lập tức sẽ bị Hứa Văn Siêu bắt lấy cơ hội giảo biện phản cung, muốn đổi người cũng không được.

Từ cổ Lạc Văn Chu trở lên cơ bản đình công, anh hoàn toàn dựa vào ký ức của cơ thể tự động hướng dẫn quay về phòng làm việc.

Cha mẹ Khúc Đồng nghe tin đã bất chấp khuyên can chạy đến Tân Hải, chỉ còn lại một mình Quách Hằng.

Lạc Văn Chu nhìn thấy bóng lưng ông, cho rằng Quách Hằng đang ngủ, vô thức bước nhẹ hơn, tiện tay cầm một chiếc áo khoác đồng phục cảnh sát không biết ai bỏ ngay gần đó, đang định đắp cho ông, đúng lúc này Quách Hằng lại đột nhiên ngẩng đầu lên.

Nếp nhăn ở khóe mắt ông từ mũi “gồ ghề” đến thái dương, như những vết nứt nẻ trên mặt đất khô khốc, trong tròng trắng hơi vàng, tia máu như mạng nhện bò quanh nhãn cầu, không hề buồn ngủ tẹo nào.

Trong khu vực làm việc của đội trinh sát hình sự thường ngày ồn ào giờ lặng ngắt như tờ, hoặc còn đang bận bịu bên ngoài, hoặc đã không gượng được ngủ gục rồi. Hai người đàn ông im lặng đối mặt, bầu không khí như đông lại, ngưng trệ ở đó, điều hòa mạnh hơn cũng chẳng thổi nổi gió ra.

Rất lâu, Quách Hằng mới khó khăn mở miệng trước: “Vị… vị lãnh đạo họ Lục của các anh đã nói hết với tôi rồi.”

Lạc Văn Chu chậm rãi kéo một chiếc ghế, ngồi xuống đối diện ông.

“Không nói cụ thể lắm,” Quách Hằng nói, “Ông ta bảo các anh còn vài tình tiết vẫn đang xác minh – bây giờ anh có thể cho tôi biết tình hình cụ thể chưa?”

Lạc Văn Chu dừng một chút: “Mùa hè hai mươi năm trước, Quách Phỉ tình cờ kết bạn với một cô bé nói là cùng thầy giáo đến Liên Hoa Sơn, cô bé mặc váy hoa nhí, rất xinh xắn, có điều tựa hồ luôn không phân biệt được đông tây nam bắc, đã vài lần hỏi đường em. Một ngày nọ khi học bù ra về, Quách Phỉ lại lần nữa tình cờ gặp cô bé kia, cô bé dường như rất sốt ruột, nói thầy giáo đã nằm viện, một mình mình không tìm được đường về khách sạn. Quách Phỉ là một cô bé tốt bụng, nhận xét của giáo viên mỗi cuối năm đều có một dòng ‘sẵn lòng giúp người’, đến nay còn nằm trong phòng lưu trữ hồ sơ của trường tiểu học Liên Hoa Sơn. Em cố gắng hướng dẫn mấy lần, mà đối phương vẫn không hiểu, em nghĩ, dù sao chỉ là đi vòng một đoạn đường ngắn, chắc cũng chẳng muộn mấy phút, thế là quyết định tự mình dẫn cô bạn kia đến nơi muốn đi…”

Bắt đầu từ lúc anh lần đầu tiên nhắc tới tên “Quách Phỉ”, Quách Hằng liền không khống chế được run rẩy, nước mắt đùng đục lăn xuống khóe mắt, bị chặn bởi các nếp nhăn, lại chảy tới thái dương hoa râm.

Nói đến đây Lạc Văn Chu dừng một lát, đặt tay lên vai Quách Hằng, đôi vai gầy trơ cả xương và lồng ngực phập phồng không thôi tổ hợp lại, như một cái bễ yếu ớt cũ rích vậy.

Quách Hằng khó khăn hít vào một hơi: “Anh nói, anh nói tiếp đi.”

“Cô bé đó – chính là Tô Tiểu Lam, lừa Quách Phỉ uống nước ngọt bỏ thuốc mê, để em lại khách sạn, chờ đợi hung thủ Ngô Quảng Xuyên xuất viện. Ngô Quảng Xuyên cố ý lấy cớ ‘thân thể không khỏe’ để tách khỏi đoàn, một mình chiếm được một chiếc xe công. Sau khi sát hại Quách Phỉ, Ngô Quảng Xuyên giấu em trong cốp xe, rời khỏi Liên Hoa Sơn, Tô Tiểu Lam cầm hộp bút của Quách Phỉ.” Lạc Văn Chu nói – dù rằng anh biết, bất luận suy đoán từ một loạt sự thật gồm nhật kí của Tô Tiểu Lam, hay tính nhất trí của cách thức phạm tội, người năm xưa sát hại Quách Phỉ kỳ thực là Tô Tiểu Lam, Lạc Văn Chu dùng ngữ điệu tưởng như khách quan nhẹ nhàng bóp méo sự thật, “Mối quan hệ méo mó của Tô Tiểu Lam và hung thủ khiến cô bé rất ghen tị với nạn nhân, trên đường cô bé bởi vì vậy mà xảy ra xung đột với hung thủ, giận dữ chạy xuống xe, trèo qua sườn dốc chú phát hiện, nhìn thấy buồng điện thoại công cộng gần bãi rác, đột nhiên nghĩ ra một cách trút giận – gọi cho chú cú điện thoại có tiếng thét, còn để chú nghe thấy tiếng lắc hộp bút.”

“Cô bé vì sao… vì sao…”

“Bởi vì cô bé đố kỵ với Quách Phỉ có cha mẹ như chú, có gia đình hạnh phúc, thành một bé gái tốt hơn mình một vạn lần, có được thứ mà mình sống thêm hai mươi năm nữa cũng không thể có được.”

Quách Hằng theo câu này nhìn Lạc Văn Chu, nhất thời không nói nên lời.

“Chú Quách, năm ấy chú không giết sai người, chú chỉ là… quá lương thiện, căn bản không hoài nghi một người khác trong nhà,” Lạc Văn Chu nhẹ nhàng nói, “Nhưng bởi vì chú giết Ngô Quảng Xuyên ngay trước mặt, làm Tô Tiểu Lam sợ hãi, Tô Tiểu Lam lần đầu tiên biết những việc mình làm sẽ dẫn đến báo ứng, sau đó cô bé vẫn sống những ngày vừa méo mó vừa đau khổ, hơn nữa giảm mạnh tần suất gây án, chú vô hình trung đã cứu không ít nạn nhân tiềm ẩn – ít nhất trên trăm người.”

Nhưng Quách Hằng lại giơ tay che mắt, khóc không thành tiếng.

Lạc Văn Chu: “Chú Quách…”

“Đừng nói nữa,” Quách Hằng xua tay lung tung, “Đừng mất công tìm lời dễ nghe an ủi tôi, tôi cảm ơn anh.”

Năm ấy vừa vặn do ông tùy tiện ra tay đâm chết Ngô Quảng Xuyên, khiến Tô Lạc Trản không dám sử dụng cùng một cách tra tấn gia đình nạn nhân nữa, thậm chí điều chỉnh cách thức gây án, mới khiến hồ sơ của các bé gái ngộ hại sau im lặng xen lẫn trong đông đảo trẻ em đi lạc, chậm mất hai mươi năm, mới lại thấy ánh mặt trời.

Quách Hằng từng kích động dễ nổi giận, nhưng ông không hề ngu ngốc, ông nhận ra lời nói dối sơ hở rành rành này.

“Thế Phỉ Phỉ của tôi bây giờ ở đâu?”

“Tô Tuệ thủ phạm chính năm đó không hề tham gia vụ án này, cho nên chúng cháu suy đoán, Quách Phỉ nên ở dọc tuyến quốc lộ Liên Hoa Sơn thông đến nội thành lúc ấy.”

“Còn có thể… còn có thể tìm được không? Các anh còn tìm kiếm nữa không?”

“Có thể tìm được,” Lạc Văn Chu nói, “Một người không thể nào vô duyên vô cớ nói mất là mất, nhất định còn giấu ở đó, rồi sẽ có manh mối để lần theo. Dù nhất thời chưa tìm ra, hi vọng luôn còn đó, dù người khác đều quên hết, cháu vẫn nhớ, chú hãy yên tâm.”

Quách Hằng rời khỏi Cục công an vào một buổi sớm mai, Lạc Văn Chu nhìn theo bóng lưng ông cho đến khi không thấy nữa. Anh không biết Quách Hằng về sau sẽ thế nào, nhưng bất kể là sáu mươi tuổi, bảy mươi tuổi hay tám mươi tuổi, con người dù sao vẫn phải sống, cuộc sống dù sao vẫn phải tiếp tục, mắt dù sao vẫn phải nhìn về phía trước.

Cũng có thể là Lạc Văn Chu đang tự an ủi mình, anh cảm thấy lưng Quách Hằng gần đây tựa hồ hơi thẳng hơn.

Lạc Văn Chu lê bước về phòng làm việc, ngồi phịch lên ghế, thở ra một hơi dài, lập tức có cảm giác hình như mình đã quên chuyện gì, ngẩng đầu nhìn thấy trên bàn đặt một ly cà phê đã nguội ngắt.

Đúng rồi, anh bảo Phí Độ chờ anh!

Nhưng hiển nhiên Phí thiếu gia không thể chờ anh trong cục cả đêm, chắc đã đi lâu rồi.

Lạc Văn Chu đang mơ mơ màng màng cầm ly cà phê kia ngắm nghía, thì đột nhiên một bàn tay từ bên cạnh giơ tới nhấc cái ly đi. Ngay sau đó, nước hoa mùi mộc hương u ám từ cổ tay áo người nọ phả vào mũi, Lạc Văn Chu vô thức hít sâu một hơi, mũi hơi khô.

Phí Độ chẳng biết lại từ khách sạn đắt đỏ nào đi ra, đã thay quần áo mới, đặt bữa sáng và cà phê đóng gói từ khách sạn lên bàn làm việc trước ánh mắt mơ màng của Lạc Văn Chu.

Lạc Văn Chu vô thức nói: “Cậu ăn no rửng mỡ à, có nhà không về suốt ngày ở khách sạn, khách sạn đó do nhà cậu mở hả?”

“Cũng có thể nói như vậy,” Phí Độ trả lời một cách đương nhiên, “Tôi nắm giữ sáu mươi phần trăm cổ phần.”

Lạc Văn Chu: “…”

Hạng ông chủ cố ý chạy đến trước mặt tầng lớp làm công ăn lương khoe giàu đều khốn nạn cả.

“Không phải anh bảo tôi chờ, có mấy câu muốn nói với tôi à?”

“A, đúng.” Lạc Văn Chu mở cà phê ra uống một ngụm to, muốn nhờ cà phê tìm lại bộ óc đánh rơi, “Tôi muốn nói với cậu…”

Anh định nói gì?

Lạc Văn Chu dừng lại, ngạc nhiên phát hiện trí nhớ của mình xuất hiện đứt khúc, lục thế nào cũng chỉ có trống rỗng, một dấu chấm câu cũng chẳng nhớ nổi, trải nghiệm sớm một lần chứng bệnh Alzheimer.

Sơ mi trắng tinh của Phí Độ bắt đầu hơi lóa mắt, cơ hồ xuất hiện bóng chồng.

“Tôi nói với cậu…”

Phí Độ nhìn anh nói lung tung mấy âm như ngủ mơ, sau đó cả người nghiêng theo hướng lưng ghế, cứ thế ngủ mất. Hắn vội vàng nhanh tay lẹ mắt đỡ ly cà phê Lạc Văn Chu còn cầm trong tay, nhẹ nhàng giải cứu cái ly suýt rơi xuống đất, lại làm một tư thế thoải mái cho tay anh.

Người kia hơi nhíu mày, vô cùng tiều tụy, mắt biến thành ba mí, khuôn cằm bình thường cạo rất sạch lún phún râu, tự dưng có vài phần như “ông chú” chán chường, gầy đi trông thấy. Làm việc liên tục bốn mươi tám tiếng, dù là thần tiên cũng phải mệt phờ, sắc mặt dĩ nhiên sẽ không tươi tắn lắm. Nhưng tự dưng, khí chất công tử miệng lưỡi ngọt xớt bình thường tan đi, thứ gì đó dày và kiên cố hơn theo sát như nước chảy đá lộ.

Phí Độ nghiêng người dựa lên bàn làm việc của anh, dùng hai ngón tay nắm cằm Lạc Văn Chu, khẽ vặn lại ngắm nghía chốc lát, giống như một người sưu tầm đồ cổ thưởng thức một món đồ sứ Nhữ Dao quý giá vậy. Lát sau, hắn đứng thẳng dậy, im lặng thở dài, thừa nhận mình đã rung động trước khuôn mặt này.

Lang Kiều đúng lúc lê bước chân mệt như chó chết từ ngoài lăn vào, vốn cảm thấy mình nằm trên đường cái cũng có thể ngủ say như chết, không khéo đụng trúng ngay màn này, hù cơn buồn ngủ tan tác chim muông, chỉ cảm thấy đống tiểu thuyết màu vàng hệ liệt “tổng tài bá đạo” từ nhỏ đến lớn từng xem hò hét lao qua trước mắt, cô cảnh sát xinh đẹp há hốc miệng cứng đờ thành một cương thi ngay cửa.

“Tổng tài bá đạo” rắp tâm xấu xa chẳng mảy may bối rối, còn quay đầu chớp chớp mắt với cô, nở nụ cười đặc biệt ẩn ý, chỉ chỉ túi thức ăn bên cạnh, ý bảo cô tự lấy, sau đó bưng ly cà phê Lạc Văn Chu vừa uống lên nhấp một ngụm, rồi thong thả bỏ đi.

Đào Nhiên bị nắng sớm chiếu không mở nổi mắt, được đồng nghiệp đến chi viện thay đi nghỉ ngơi, anh phủi bùn đất đầy người, chui đại vào một chiếc xe. Đúng lúc này, di động rung một cái, Thường Ninh gửi một tấm ảnh chụp chung, Thần Thần nằm trong lòng cô, các ngón tay nắm chặt áo chị mình, song vẫn rất cố gắng nhìn vào ống kính mà cười.

“Bác sĩ nói Thần Thần chỉ bị thương nhẹ, có thể xuất viện rồi, cô mình nói phải cảm ơn các bạn cho đàng hoàng, hôm nào có thể mời bạn và đồng nghiệp về nhà ăn cơm không?”

Đào Nhiên lần đầu tiên không lập tức trả lời tin nhắn của nữ thần, cầm di động chìm vào giấc ngủ.

Phí Độ đi taxi về công ty, nhân còn chưa tới giờ làm, kí mấy xấp giấy tờ đã hứa với trợ lý Miêu, sau đó một mình ngồi một lúc trong văn phòng trang hoàng sang trọng.

Đây là văn phòng của chủ tịch Phí năm đó, chỗ cửa vào là một phòng tiếp khách, có một tủ rượu ẩn trong vách tường, bên cạnh là một tủ sách lớn cao đến nóc nhà, nửa trên là các loại sách hiếm, cuộn da dê, tơ lụa thậm chí thẻ tre, loại nào cũng có, nửa dưới trưng bày đồng hồ hiệu chủ cũ năm ấy sưu tầm.

Một bên tường khác thì là tủ trưng bày lắp kính, treo toàn binh khí cổ, chính giữa là một thanh yêu đao, nghe nói là đế vương cổ đại đeo, chuôi đao lộng lẫy, thời gian trôi qua đã lâu mà lưỡi đao vẫn sáng loáng, dưới ánh sáng lành lạnh của tủ trưng bày, nó cơ hồ muốn phá tủ lao ra ăn thịt uống máu.

Giữa các sofa là một bục trưng bày cao một mét tư, hình tròn, vòng ngoài là các loại tiền đã không còn phát hành lưu thông, vây quanh một kệ trưng bày be bé, bày tác phẩm quán quân của một cuộc thi thiết kế châu báu quốc tế trong ba năm liền – chỉ có ba năm, năm thứ tư chưa kịp bày lên thì người sưu tầm đã nằm duỗi xác trong viện an dưỡng Tân Hải.

Mỗi một vị khách lần đầu đến văn phòng của hắn đều hơi chấn động trước phòng tiếp khách như viện bảo tàng cỡ nhỏ này, người ở lại đây thời gian dài, tiền tài, quyền lực, dã tâm, dục vọng quả thực muốn chui khỏi mỗi một lỗ chân lông mở ra.

Mà phòng làm việc và phòng tiếp khách nửa liền nửa cách, nối nhau bằng một hành lang nhỏ chỉ lọt một người, hành lang có một khúc ngoặt khéo léo, tránh ánh sáng của phòng làm việc chiếu vào – trong phòng làm việc hai bên có cửa sổ nhỏ thông gió, phía sau thì là một cửa sổ lớn sát sàn, từ đây có thể nhìn rõ hơn một nửa Yến Thành bên dưới, dòng xe cộ thong thả đi thành hàng và người qua đường bé tí như kiến được thu hết vào đáy mắt.

Phí Độ đứng dậy, cầm một cái túi đựng hồ sơ không dày từ tủ hồ sơ khóa kín, bên trong có mấy bản hợp đồng, báo cáo tài chính và mấy bản diễn giải thay đổi tài sản lớn, là năm đó lấy danh nghĩa tập đoàn hợp tác với một chỗ tên “quỹ Quang Diệu”. Lúc cha hắn còn giữ chức từng có hợp tác với quỹ này, còn định kỳ quyên tiền cho một quỹ công ích bên dưới nó.

Hợp đồng đã hết, hợp tác tự nhiên kết thúc, đối phương cũng không có ý định ký tiếp.

Mà bản kế hoạch “Thánh địa nghỉ ngơi tài nguyên biển Tân Hải – tạo ra Maldives Trung Quốc” lặng lẽ nằm dưới cùng tập tài liệu, là một hạng mục quỹ Quang Diệu từng vừa ý, muốn mời họ đầu tư, năm đó hội đồng quản trị độc đoán của cha hắn lấy cớ “lượng tài chính chiếm dụng lớn, không có hình thức lợi nhuận hoàn thiện” để từ chối, bỏ dở ở đây.

“Tân Hải…” Phí Độ dùng nắp bút gạch mạnh một đường trên đó.

Ba nguyên tắc lớn trong vứt xác-

Thứ nhất, địa điểm vứt xác tuyệt đối an toàn, không có người nằm ngoài tầm khống chế đến đào xới, sẽ không ai phát hiện bí mật chôn dưới đất.

Thứ hai, có thể hoàn hảo trộn lẫn xác chết vào xác tử vong bình thường, cho dù bị phát hiện thì người ta cũng sẽ không báo cảnh sát.

Thứ ba, dù có báo thì cảnh sát cũng chẳng cách nào tìm ra danh tính người chết.

Trong đó, điều thứ ba phù hợp với hai mươi năm trước, đến bây giờ theo các loại kỹ thuật hình sự pháp y phát triển, cơ bản đã không thể thực hiện, như vậy với IQ của Hứa Văn Siêu, nhất định hắn sẽ tuân theo hai điều trước.

Tại sao hắn lại lựa chọn Tân Hải?

Nếu vứt ở bờ biển, nguy cơ xác bị vớt lên là vô cùng lớn, nơi xa hơn thì cần phải có phương tiện ra khơi, hơn nữa không phải mùa nào cũng đi được, tất có một số xác chết chỉ có thể chôn trên đất liền.

Quê quán và những gì Hứa Văn Siêu với ba đời nhà họ Tô đã trải qua cho thấy, họ đều không có mối liên hệ gì với thành phố Tân Hải, vậy rốt cuộc vì lý do gì mà Hứa Văn Siêu lựa chọn nơi đây? Chẳng lẽ chỉ là nhiếp ảnh gia tự do ngẫu nhiên cảm thấy nơi đó phong cảnh tuyệt đẹp, ít ai lui tới?

Một tuần sau, vụ án lớn đặc biệt phức tạp, thời gian đặc biệt kéo dài, đặc biệt sởn gai ốc này, dưới sự hợp tác của cảnh sát hai khu vực, rốt cuộc đã kết thúc – nhạc công ở trường đua xe bắt cóc Khúc Đồng dưới các loại đe dọa và dụ dỗ, cuối cùng đã khai ra một trong bốn người khác trên ảnh, họ có chế độ nhập hội nghiêm ngặt, cần phải có người giới thiệu, mới đầu chỉ được phép mời cô bé Tô Lạc Trản ăn bữa cơm, phải tốn rất nhiều tiền, giữ mối quan hệ rất lâu dài, mới được phép trở thành “hội viên cao cấp”.

Các “hội viên” khai ra nhau, nhổ củ cải lôi cả đất lên mà bắt về một loạt – bao gồm một số “hội viên cũ” không hề có trên ảnh, đã rút khỏi giao dịch từ lâu. Trong số này lại không thiếu một số “nhân vật thành công” trông rõ đàng hoàng, cảnh sát tìm tới cửa đã gây chấn động một thời gian.

Xác Quách Phỉ rất gần với lối suy nghĩ Phí Độ đưa ra, nằm trong một bãi tha ma vùng nông thôn trên đường quốc lộ từ Liên Hoa Sơn đến nội thành năm đó. Theo người dân địa phương nói, trước kia khi chưa phổ biến hỏa táng, nơi này chuyên dùng để chôn xác đột tử và chết non, bản địa có rất nhiều truyền thuyết mê tín, bình thường không ai dám tới gần, năm ấy có một người dân trong thôn say rượu vào nhầm, tình cờ phát hiện một ngôi mộ khác lạ, sợ phát điên ngay tại đó, còn lưu truyền chuyện ma suốt một thời gian dài.

Tiếc rằng, do kiêng kị nên chưa từng có ai tích cực xác minh.

Đưa tin, tìm kiếm bằng chứng, khởi tố… đủ các công việc giai đoạn sau làm liên tục không nghỉ ngơi, đến khi kết thúc một giai đoạn, Lạc Văn Chu mới giật mình nhận ra, đã vào trung tuần tháng Chín rồi.

Ngày đầu tiên quay lại cuộc sống đi về sát giờ, anh còn chưa kịp phấn chấn, thì đã thấy một chiếc xe kiểu dáng thể thao đậu trước cổng, một tên khốn quen mắt đứng kế bên, cười tít mắt nhìn cảnh sát giao thông dán giấy phạt.
Bình Luận (0)
Comment