First Comes Marriage

Chương 21

Vanessa cứ nghĩ rằng việc giới thiệu chị và em gái mình trước giới quý tộc sẽ là một nhiệm vụ nặng nề. Xét cho cùng thì đối với xã hội này cô cũng như họ, đều là người mới đến, dù cho cô đã cưới một tử tước, người thừa kế tước vị công tước. Cô hầu như mù tịt về mọi thứ và không biết một ai.

Nhưng rốt cuộc việc ấy hóa ra lại không khó khăn lắm. Tất cả những gì nó cần là địa vị đáng trọng của cô với tư cách một quý cô đã lấy một người đàn ông trong giới. Elliott thì quá đủ điều kiện cho vai trò đó.

Họ là một thứ gì đó gây tò mò, cả ba chị em. Ở Vanessa là vì cô mới kết hôn với một trong những người độc thân sáng giá nhất nước Anh. Còn Margaret và Katherine vì họ là chị gái của tân bá tước Merton, người hóa ra còn rất trẻ và rất đẹp trai và rất hấp dẫn bất chấp - hoặc có lẽ cũng là một nguyên nhân - sự thiếu hụt nhất định của phong cách quý phái. Và Margaret với Katherine đã bổ sung thêm sức thu hút bằng sắc đẹp hiếm có của họ.

Giới quý tộc, Vanessa sớm biết được rằng, luôn say sưa đến ngấu nghiến được nhìn thấy những khuôn mặt mới, nghe những câu chuyện mới, ngong ngóng phong thanh những vụ scandal mới. Câu chuyện về tân bá tước và các chị gái của cậu được tìm thấy ở một ngôi làng hẻo lánh, sống trong một ngôi nhà tranh còn nhỏ hơn kho chứa đồ trong vườn của hầu hết mọi người - cái giới này cũng có xu hướng mạnh mẽ muốn cường điệu hóa - đã thu hút được một bộ sưu tập trí tưởng tượng và là đầu đề của các cuộc trò chuyện nơi phòng khách hơn một tuần. Khi sự thực là một trong ba chị em đã túm được bàn tay, nếu không phải trái tim, của một nhân vật vai vế tầm cỡ như tử tước Lyngate. Cô ấy không phải là giai nhân, và do đó người ta không được cho rằng đấy là một sự gắn kết của tình yêu - mặc dù nếu như không phải - thì cũng thật lạ khi anh lại không lấy chị gái cô ấy. Và một cơn sóng cồn của phấn khích đã dâng lên khi có nguồn tin lan truyền rằng Mrs. Bromley-Hayes đã bị hớ một cú nghiêm trọng với tư cách là tình nhân của tử tước Lyngate sau khi cô ta bị bắt gặp sóng đôi với nữ tử tước vào một buổi chiều ở Hyde Park.

Uy tín của nữ tử tước đã tăng lên đáng kể.

Nhà Huxtable được mời đến mọi nơi mà những người sang trọng được mời - những vũ hội, dạ hội, những buổi hòa nhạc, dã ngoại, những bữa điểm tâm kiểu Venice, những bữa ăn tối, tiệc nhà hát...Cái danh sách dài dằng dặc. Thực ra họ có thể bận rộn hội hè đình đám suốt ngày từ sáng cho tới tối. Chà, có lẽ không phải là sáng khi họ xác định rõ nó. Hầu hết mọi người ngủ cho đến quá trưa, vì đã khiêu vũ hoặc chơi bài hoặc tán chuyện hoặc nhiều cách khác để tiêu khiển cho bản thân gần như hết cả đêm.

Nó khiến Vanessa thích thú khi khám phá ra một lời mời ăn sáng thực chất là lời mời đến một bữa ăn bắt đầu từ giữa trưa. Cô thấy ngạc nhiên vì hầu hết mọi người dường như hết sức bằng lòng khi bắt đầu ngày mới của họ vào buổi trưa và kết thúc vào sáng hôm sau.

Thật là một sự lãng phí đáng buồn của nắng trời và ánh sáng ban ngày!

Cô đi cùng các chị em của mình đến những sự kiện giải trí đông đảo, nhưng cô không phải tốn bất kỳ nỗ lực nào để giới thiệu họ với những người mà tên tuổi của họ cô thường không thể tự nhớ ra hoặc đi tìm những nhóm người đàm thoại để họ tham gia hoặc những bạn nhảy để họ khiêu vũ cùng. Đúng như Elliott dự đoán, họ gặp lại hầu hết những con người ấy ở mọi nơi họ tới, và những cái tên, những gương mặt, và tước hiệu chẳng mấy chốc đã trở nên quen thuộc.

Margaret và Katherine sớm tìm được bạn bè và nhiều người quen, và mỗi người rất nhanh chóng nhận được sự tán tỉnh của nhiều kẻ ngưỡng mộ - cũng như bản thân Vanessa, trước sự kinh ngạc của cô. Những quý ông trẻ tuổi mà tên của họ hiếm khi cô nhớ được đã mời cô nhảy hoặc đề nghị đưa cô đi hít thở không khí trong lành hoặc hộ tống cô tản bộ quanh vườn hoặc sàn nhảy. Một hoặc hai người thậm chí còn mời cô đi xe ngựa trong công viên hoặc cưỡi ngựa lên Rotten Row với cô.

Đó không phải chuyện bất thường gì, tất nhiên, đối với những phụ nữ có chồng lại có đàn ông theo đuổi. Và cô nhớ Elliott có nói với cô ở nhà hát rằng không thể chỉ trích được một phụ nữ đã kết hôn vì họ được hộ tống ở nơi công cộng bởi một người đàn ông không phải là chồng mình.

Nó chứng minh một cách hùng hồn với Vanessa về tình trạng hôn nhân trong giới quý tộc, dù cô không có ý muốn hành xử như những người khác. Nếu Elliott không thể ở bên cô, thì cô vẫn thích sự bầu bạn của chị và em gái hoặc mẹ chồng cô hơn là một người đàn ông xa lạ nào đó.

Cô không buồn rầu trong suốt những tuần lễ sau buổi trình diện của cô ở cung điện.

Cô cũng không đặc biệt vui vẻ.

Đã có một sự dè dặt nào đó giữa cô và Elliott kể từ ngày cô đối mặt với anh về vấn đề của Mrs. Bromley-Hayes. Họ không xa cách. Anh hộ tống cô đến vài sự kiện giải trí, đặc biệt vào những buổi tối. Anh nói chuyện với cô bất cứ khi nào cơ hội đó tự xảy ra. Anh làm tình với cô hàng đêm. Anh ngủ lại trong giường cô.

Nhưng có... một điều gì đó. Một cảm giác như căng thẳng.

Cô tin anh, vậy mà cô vẫn thấy bị tổn thương. Không phải tổn thương vì anh đã có một nhân tình trước khi lấy cô - như thế sẽ là vô lí. Có lẽ tổn thương vì anh đã đến thăm nhân tình cũ sau khi lấy cô và sẽ chẳng nói gì với cô nếu như cô không tự mình phát hiện ra. Và có lẽ tổn thương vì Mrs. Bromley-Hayes đẹp theo mọi cách kì diệu nhất có thể tưởng tượng - ít nhất là về hình thức bên ngoài.

Không có điều gì bất ổn đối với hôn nhân của cô cả, Vanessa cứ tự nhủ với mình. Thực tế là nó chỉ có hoàn hảo mà thôi. Cô có một người chồng quan tâm đến cô, chung thủy với cô, người đã thề sẽ giữ lòng chung thủy. Cô là người may mắn tột bậc. Cô còn muốn gì hơn nữa?

Trái tim của anh?

Nếu người ta đã có mặt trăng và các vì sao, thì người ta có tham lam muốn cả mặt trời nữa không?

Dường như câu trả lời là có.

Katherine đối xử với những chàng trai ngưỡng mộ mình hệt như hồi còn ở Throckbridge. Cô mỉm cười nhã nhặn và bao dung với tất cả, ban cho họ những sự quý mến ngang bằng nhau, thích tất cả số đó. Nhưng khi được hỏi, cô sẽ thú nhận rằng trong những người đó chẳng có ai đặc biệt.

“Em không muốn một người nào đặc biệt trong đời mình hay sao?” Vanessa hỏi cô vào một buổi sáng khi họ thực hiện một chuyến đi bộ sảng khoái qua một công viên gần như vắng tanh.

“Tất nhiên là em muốn chứ,” Katherine nói với tiếng thở dài. “Nhưng vấn đề là, chị thấy đó, Nessie. Anh ta phải thật đặc biệt cơ. Em đang đi đến kết luận là chẳng có người nào như thế, rằng em đang tìm kiếm trong vô vọng. Nhưng không thể như vậy được, đúng không chị? Hedley là người đặc biệt với chị, và Lord Lyngate nữa. Sao mà em ghen tị với chị quá sức khi em nhìn hai người nhảy điệu van với nhau ở vũ hội ra mắt của Cecily. Nếu chuyện đó xảy ra với chị đến hai lần, thì cũng không phải là quá đáng để đòi hỏi nó xảy ra với em chỉ một lần?”

“Ồ, nó sẽ đến với em thôi,” Vanessa đảm bảo với em gái, khoác lấy tay cô và siết chặt. “Chị mừng vì em sẽ tìm bến đỗ cho mình vì tình yêu. Và Meg thế nào rồi?”

Chị của họ không đi với hai người. Cô đã đến thư viện của Hookham với hầu tước Allingham.

“Và ngài hầu tước, chị định hỏi thế chứ gì?” Katherine nói. “Em thực sự tin là người đó đang tìm hiểu chị ấy một cách nghiêm túc.”

“Và chị ấy sẽ nhận lời chứ?” Vanessa hỏi.

“Em không biết,” Katherine thú nhận. “Dường như chị ấy có cảm tình với ngài ấy. Chắc chắn chị ấy không dành sự quan tâm cho bất cứ ai, cho dù có hàng loạt quý ông đủ tư cách và dễ coi để ý đến chị ấy. Mà chị ấy cũng không hành xử giống như người đang yêu, đúng không?”

Đó là sự thật. Meg còn mải bận tâm với việc cố gắng kiểm soát những hoạt động của Stephen và khuyến khích Katherine vui chơi nhiều hết mức có thể và tự trấn an mình rằng Vanessa đang hạnh phúc hơn là tiến vào cuộc sống mới của mình.

Vậy mà ngài hầu tước, người thực sự là một quý ông tốt bụng, vẫn rất ân cần với cô.

Và Crispin Dew đã lấy vợ. Chẳng có cơ sở nào để hi vọng xa xôi ở anh ta nữa. Ah, mình nói thì dễ lắm, Vanessa nghĩ thầm.

“Meg sẽ chẳng bao giờ nói về bản thân mình phải không?” Katherine nói. “Bấy lâu nay em chưa bao giờ thực sự để ý đến điều đó, nhưng nó là sự thật. Đó là lí do em chưa từng biết về chuyện Crispin Dew, em cho là vậy. Oh, Nessie, chị ấy quan tâm đến anh ta lắm sao?”

“Chị sợ là đúng thế,” Vanessa nói. “Nhưng có lẽ thời gian sẽ cho chị ấy tìm được một người khác. Có lẽ người đó sẽ là hầu tước Allingham cũng nên. Chị ấy có vẻ thích sự bầu bạn của ngài ấy.”

Nhưng đó là một hi vọng sớm bị tan thành mây khói.

Khi Vanessa đến Merton House vào khoảng một tuần sau đó, cô gặp Stephen trong hành lang, chuẩn bị đi ra ngoài cùng Constantine. Họ định đến trường đua. Cậu đang cau có.

“Chết tiệt, Nessie,” cậu nói, “đến bao giờ Meg mới hiểu được rằng chị ấy là chị gái, chứ không phải mẹ em? Và đến khi nào chị ấy mới hiểu rằng em đã mười bảy tuổi, sắp được mười tám, và đã quá lớn để bị cai quản chằm chặp?”

“Ôi trời,” cô nói. “Đã xảy ra chuyện gì thế?”

“Vừa nãy Allingham đến đây,” cậu nói, “và đề nghị được nói chuyện với em. Đó là sự lịch thiệp rất đáng quý ở ngài ấy vì em mới có mười bảy tuổi và ngài ấy hẳn phải gấp đôi tuổi em và Meg thì đã hai lăm tuổi. Ngài ấy đến xin sự cho phép của em để đặt vấn đề chị ấy.

“Oh, Stephen,” Vanessa nói, chặn cả hai tay lên ngực. “Và...?”

“Và dĩ nhiên em nói đồng ý,” cậu nói. “Em thấy mừng thực sự. Có thể ngài ấy không có những bộ đồ cắt may đắt tiền hay những đôi giày được đóng tốt nhất, nhưng ngài ấy chỉ cách ngưỡng đó có một sợi tóc mà thôi và được đồn là một nhân vật xuất sắc trong những người tử tế và chẳng quan trọng việc ngài ấy không được cao cho lắm. Ngài ấy có vóc dáng. Và Meg đã dành đủ thời gian với ngài ấy từ vài tuần trước, có Chúa biết điều đó. Người ta có thể được tha thứ vì nghĩ rằng chị ấy sẽ đón chào lời cầu hôn từ ngài ấy chứ.”

“Nhưng chị ấy không làm thế?” cô hỏi.

“Từ chối thẳng thừng,” cậu nói.

“Ah,” cô nói, “vậy thì rốt cuộc chị ấy không quý mến hầu tước đủ mức.”

“Còn lâu em mới biết,” cậu nói. “Chị ấy từ chối giải thích. Bảo rằng chẳng làm bất cứ chuyện gì hết. Chị ấy đã thực hiện lời hứa trời đánh ấy với Papa và sẽ tiếp tục giữ nó, lạy Chúa, cho đến khi em hai mươi tuổi và Kate đi lấy chồng.”

“Ôi trời,” Vanessa nói. “Chị nghĩ có lẽ chị ấy lo lắng mọi việc sẽ thay đổi theo chiều hướng khác.”

“Chúng đã thay đổi chóng mặt rồi,” cậu nói. “Giờ em đã là bá tước Merton, chị Nessie. Em có đất đai và tài sản và một cuộc sống. Em có những người bạn mới. Em có tương lai. Không phải em không yêu Meg. Không phải em không biết ơn những gì chị ấy đã làm cho em từ khi bố mất. Em sẽ chẳng bao giờ quên, và em sẽ luôn biết ơn. Nhưng em bực mình vì phải báo cáo nhất cử nhất động của em mỗi giờ trong ngày. Và em phẫn nội vì mình lại là nguyên nhân để chị ấy gạt bỏ lời cầu hôn tốt nhất chị ấy có thể nhận được. Nếu chị ấy không thích hầu tước đủ mức, thì tốt thôi. Em ủng hộ vì chị ấy đã thẳng thắn từ chối ngài ấy. Nhưng nếu không phải thế...nếu chỉ là vì em...Ah, Hẳn là Constantine đến rồi.”

Cậu phấn khởi lên rõ rệt.

Vanessa không muốn gặp trực diện ông anh họ. Cô vỗ lên cánh tay Stephen.

“Chị sẽ đi xem xem chị ấy có thể nói gì,” cô nói. “Chúc vui vẻ.”

“Oh, chắc chắn rồi,” cậu nói, “Constantine là người hết xảy. Ngài Lyngate cũng thế, Nessie, em phải công nhận điều đó. Anh ấy luôn để mắt đến em, đó là sự thật, nhưng anh ấy không cố tròng dây cương lên người em.”

Cậu ra khỏi nhà mà không đợi Constantine gõ cửa.

Margaret mím chặt môi và sa sầm mặt khi Vanessa vào phòng khách và giải thích là mình vừa nói chuyện với Stephen.

“Rắc rối với em trai của chúng ta,” Margaret nói, “là nó nghĩ rằng hoàn cảnh mới của nó đã cộng thêm cho tuổi đời của nó khoảng bốn năm hoặc hơn. Nhưng sự thật là, Nessie, nó vẫn chỉ là một thằng bé, và là thằng bé đang trở nên bất trị từng giờ.”

“Có lẽ nó là một cậu bé cần đến một bàn tay bớt cứng rắn hơn để gò vào khuôn phép,” Vanessa gợi ý.

“Oh, không phải cả em nữa chứ,” Margaret nói, rõ ràng là nổi cáu. “Đáng ra nó nên ở Warren Hall với những gia sư.”

“Và nó sẽ sớm về đấy thôi,” Vanessa nói. “Nó cũng cần làm quen với cái thế giới đang chờ đợi nó khi nó đến tuổi trưởng thành. Nhưng chúng ta đừng tranh cãi về thằng bé nữa. Hầu tước Alling ham đã bày tỏ sự quan tâm tới chị phải không?”

“Ngài ấy rất nhiệt thành,” Margaret nói. “Nhưng chị đã từ chối, tất nhiên”

“Tất nhiên?” Vanessa nhướng mày. “Em cứ nghĩ có lẽ chị đang ngày càng mến ngài ấy.”

“Vậy thì em đã nghĩ sai,” Margaret nói. “Em cũng như tất cả mọi người phải biết rằng chị không thể nghĩ đến hôn nhân cho đến khi hoàn thành trách nhiệm với gia đình mà chị đã nhận từ tám năm trước.”

“Nhưng Elliott và em sống ngay cạnh Warren Hall,” Vanessa nói. “Và Kate sẽ đến tuổi trưởng thành trong khoảng vài tháng nữa. Stephen sẽ học đại học trong cả bấy năm tới. Đến lúc đó nó đã là một người lớn đích thực.”

“Nhưng thời điếm ấy vẫn chưa tới,” Margaret nói.

Vanessa nghiêng đầu quan sát chị gái kĩ càng.

“Chị không muốn kết hôn phải không, Meg?” cô hỏi. “Không bao giờ?”

Crispin Dew chiếm quá nhiều chỗ trong câu trả lời, cô nghĩ.

Margaret xòe hai bàn tay trên lòng và nghắm nghía mặt sau của chúng.

“Nếu chị không kết hôn,” cô nói, “thì sau này chị sẽ phải sống ở Warren Hall với vợ của Stephen là bà chủ. Hoặc ở Finchley Park với em. Hoặc nơi nào đó với Kate và chồng con bé. Chị cho rằng khi thời điểm đó tới chị sẽ lấy bất kì ai đủ tốt bụng để cầu hôn. Nhưng chưa đến lúc.”

Vanessa nhìn chằm chằm mái đầu cúi xuống của chị mình. Sự im lặng kéo dài.

“Meg,” cuối cùng cô lên tiếng, “Có thể Stephen không biết gì về...về Crispin, trừ phi Kate nói điều gì đó với nó. Nó nghĩ sự khước từ của chị với hầu tước Allingham là do nó.”

“Và đúng như thế,” Margaret nói.

“Không, không phải thế,” Vanessa nói. “Đó là về Crispin.”

Margaret ngẩng đầu nhìn cô, một nếp nhăn hằn trên vầng trán.

“Stephen cần phải biết điều đó,” Vanessa nói. “Nó cần phải biết rằng nó không có lỗi trong việc không cho chị có hạnh phúc.”

“Stephen là hạnh phúc của chị,” Margaret nói dữ dội. “Cũng như em và Kate.”

“Và thế cho nên chị tạo áp lực lên tất cả bọn em,” Vanessa nói. “Em rất yêu chị, Meg. Em cũng yêu Kate và Stephen. Nhưng em sẽ không mô tả bất cứ cái gì ở chị được gọi là hạnh phúc. Hạnh phúc của em không thể đến từ người khác.”

“Kể cả từ Lord Lyngate?” Margaret hỏi. “Hoặc Hedley?”

Vanessa lắc đầu.

“Kể cả Hedley hay Elliot cũng không,” cô nói. “Hạnh phúc của em đến từ bản thân em hoặc nó là một thứ quá đỗi mỏng manh để có bất cứ tác động nào với em và là gánh nặng quá lớn để mang lại bất cứ lợi ích nào cho những người em yêu.”

Margaret đứng dậy và bước đến bên cửa sổ nhìn chăm chăm xuống quảng trường Berkeley bên dưới.

“Em không hiểu, Nessie,” cô nói, “không một ai hiểu cả. Khi chị hứa với Papa, chị biết mình đang thực hiện một lời cam kết mười hai năm - cho đến khi Stephen trưởng thành. Chị đã đi được tám năm của lời cam kết đó. Chị sẽ không giũ sạch bốn năm còn lại chỉ vì hoàn cảnh của chúng ta đã thay đổi, chỉ vì em có một cuộc hôn nhân hạnh phúc và Kate đang được vây quanh bởi hơn một tá quý ông đủ tư cách và Stephen đang cáu tiết vì bị kìm hãm tự do. Hoặc vì chị có một đám tốt cầu hôn và có thể chuyển đến Northumberland để bắt đầu cuộc sống mới và để Kate và Stephen lại cho sự chăm sóc của em và Lord Lyngate. Chuyện này không dính líu gì đến Crispin Dew. Nó không liên quan đến bất cứ cái gì ngoài một lời hứa tự nguyện và được tiến hành trong vui vẻ. Chị yêu tất cả các em. Chị sẽ không từ bỏ bổn phận của mình dù cho Stephen thấy nó khó chịu. Chị không từ bỏ đâu.”

Vanessa đi tới bên cô và vòng tay qua eo cô.

“Chúng ta đi mua sắm đi,” cô nói, “hôm qua em đã bắt gặp một chiếc mũ bonnet tuyệt vời, nhưng nó là màu xanh hoàng gia và chẳng hợp với em chút nào. Nhưng nó trông sẽ rất mê hồn trên người chị. Ta hãy đi xem trước khi ai khác kịp mua nó. Mà nhân tiện, Kate đâu rồi?”

“Nó vừa lên xe ngựa đi chơi với Miss Flaxley và Lord Bretby và Mr. Ames rồi,” Margaret nói. “Chị đã có nhiều mũ Bonnet đến mức chẳng biết làm gì với chúng nữa, Nessie.”

“Vậy thì thêm một cái nữa cũng chẳng hại gì,” Vanessa nói. “Đi thôi.”

“Oh, Nessie,” Margaret cười run run. “Chị sẽ làm được gì nếu không có em đây?”

“Chị sẽ có thêm khoảng trống trong tủ quần áo của mình, đó là điều chắc chắn,” Vanessa nói, và cả hai phì cười.

Nhưng hai tiếng đồng hồ sau, Vanessa về đến Moreland House với con tim nặng trĩu. Nỗi buồn của một người dành tình yêu cho những người khác thường khó chịu đựng hơn nỗi buồn của người nhận được tình yêu, cô nghĩ - và Meg không nghi ngờ gì là đang buồn.

Không phải là cô cũng buồn. Mà chỉ là...

Chà, chỉ là cô đã biết tới niềm vui cuồng nhiệt trong tuần trăng mật của mình và lặp lại được vài ngày trước và sau buổi trình diện của cô. Và niềm vui đó đã khiến cô thèm muốn thêm nữa.

Tất nhiên cô chắc chắn là mình đã có em bé. Có lẽ điều đó tạo ra khác biệt chăng. Nhưng tại sao lại thế? Cô chỉ đơn thuần đang thể hiện cái chức năng mà vì nó anh mới lấy cô thôi mà.

Nhưng, ôi trời - cô đang mang thai đứa con của Elliott và của cô. Đứa con của họ. Cô mong muốn đến tuyệt vọng được hạnh phúc một lần nữa. Không chỉ là hạnh phúc riêng mình cô, mặc kệ điều cô đã nói với Margaret lúc nãy. Cô muốn được hạnh phúc với anh. Cô muốn anh phấn khích vì vui sướng khi cô thông báo cho anh. Cô muốn...

Cô muốn những gì tốt đẹp, tất nhiên.

Sao cô ngớ ngẩn thế không biết.

Không có mấy buổi tối được tự do. Dường như nó là một sự đãi ngộ hiếm hoi khi thỉnh thoảng mới xuất hiện.

Vào một buổi tối như thế Cecily đã đến nhà hát với một nhóm bạn, dưới sự đi kèm của mẹ một người trong số đó. Elliott rút lui vào thư viện sau bữa ăn tối. Mẹ anh, người đang ngồi uống trà và trò chuyện với Vanessa trong phòng khách, không thể che giấu những cái ngáp của mình và cuối cùng đã xin thứ lỗi, giải thích là bà đã hoàn toàn kiệt sức.

“Ta cảm thấy,” bà nói khi Vanessa hôn lên má mình, “như là ta có thể ngủ suốt một tuần.”

“Con dám chắc là một đêm ngủ ngon không đứt quãng sẽ đáp ứng đủ,” Vanessa nói, “nhưng nếu không tác dụng, thì con sẽ đi kèm Cecily tới bữa tiệc vườn ngày mai và mẹ có thể có một ngày yên ả. Chúc mẹ ngủ ngon.”

“Con lúc nào cũng thật là tốt,” mẹ chồng cô nói. “Ta rất vui mừng vì Elliott đã lấy con. Chúc con ngủ ngon, Vanessa.”

Vanessa ngồi lại một mình trong một lúc, đọc vài trang sách. Nhưng cái cảm giác quen thuộc đang ngày càng lớn dần của sự chán nản bao trùm lên cô và làm sao lãng sự chú ý của cô khỏi những cuộc phiêu lưu của Odysseus khi chàng cố gắng trở về Ithaca và nàng Penelope của chàng.

Elliott đang ở trong thư viện dưới nhà và cô đang ở phòng khách trên này trong cả một buổi tối quý báu khi cả hai cùng ở nhà. Đây có phải là hình mẫu cuộc sống hôn nhân của họ?

Cô sẽ để nó diễn ra như thế ư?

Có thể anh sẽ lên đây nếu như biết mẹ anh đã đi ngủ và cô có một mình.

Có thể anh sẽ bực mình nếu cô xuống dưới đó.

Và có thể, cuối cùng cô nghĩ, kiên quyết đứng lên và kẹp một ngón tay trong cuốn sách để đánh dấu trang, cô phải đi và tự tìm hiểu. Xét cho cùng đây cũng là nhà cô cơ mà, và anh là chồng cô. Và họ không ghẻ lạnh nhau. Họ đã không cãi cọ. Nếu họ trôi dạt ra hai phía thành một mối quan hệ xa cách, thì ít nhất sẽ có phần lỗi của cô nếu cô không thử làm điều gì đó về chuyện này.

Cô gõ lên cánh cửa thư viện và mở ra khi anh lên tiếng bảo cô vào.

Một ngọn lửa đang cháy bập bùng trong lò sưởi cho dù tối nay không lạnh.Anh đang ngồi trong chiếc ghế bọc da sâu lòng kê chếch một bên lò sưởi, cuốn sách để mở nằm trên một bàn tay. Thư viện là một căn phòng cô yêu thích, với những kệ sách cao chất ngất xếp kín những quyển sách bọc da dựa vào ba mặt tường và chiếc bàn bằng gỗ sồi cổ đủ lớn cho ba người nằm xoài ra cạnh nhau.

Nó ấm cúng hơn hẳn phòng khách. Cô không trách Elliott vì đã chọn ngồi đây vào buổi tối. Trông nó có vẻ mời gọi hơn bao giờ hết trong tối nay. Anh cũng vậy. Anh ngồi hơi ườn ra trong ghế. Gác mắt cá chân bên này lên đầu gối chân bên kia.

“Mẹ ngài thấy mệt,” cô nói. “Bà đã đi nằm rồi. Ngài có phiền nếu em ở đây với ngài không?”

Anh uể oải đứng lên.

“Tôi hi vọng em sẽ ở lại,” anh nói, chỉ vào chiếc ghế đối diện, ở phía bên kia lò sưởi.

Một khúc gỗ gãy răng rắc trong lò sưởi, bắn ra một trận tia lửa lên ống khói lò.

Cô ngồi xuống và mỉm cười với anh và rồi, vì chẳng nghĩ được câu gì để nói, cô liền mở sách ra, hắng giọng, và bắt đầu đọc.

Anh cũng làm tương tự, nhưng không hắng giọng. Anh không ngồi ngả ngớn nữa, mà đặt cả hai chân xuống đất.

Cái ghế của cô quá sâu đối với khổ người cô. Cô phải ngồi ngay ngắn dựa vào lưng ghế và chân thì đung đưa cách mặt sàn vài inch hoặc với hai chân đặt xuống sàn và lưng uốn cong như móc câu dựa vào thành ghế hoặc với hai chân đặt xuống sàn và lưng thẳng như cái que thông nòng súng và không dựa được vào đâu.

Sau vài phút, trong suốt lúc đó cô đã thử cả ba tư thế và chẳng thấy cái nào thoải mái cả, cô bỏ dép ra, co chân lên thu về bên cạnh người trên nệm ghế, xếp lại nếp váy xung quanh, và nép mình gối đầu lên tay ghế. Cô nhìn vào lò sưởi rồi nhìn sang Elliott.

Anh đang chăm chú nhìn cô.

“Như thế này không có dáng quý phái, em biết,” cô nói vẻ hối lỗi. “Cha mẹ em đã nói em mãi là phải ngồi cho thẳng thớm. Nhưng em thì thấp mà hầu hết những chiếc ghế lại quá lớn so với em. Hơn nữa, em thấy thoải mái với vị trí này.”

“Trông em rất thoải mái,” anh nói.

Cô mỉm cười với anh và không biết vì sao mà không ai quay lại đọc sách nữa. Họ chỉ nhìn nhau.

“Kể cho em nghe về cha ngài đi,” cô khẽ nói.

Cô vẫn nhớ mẹ anh đã nói với cô rằng bà hi vọng anh sẽ khác với cha mình. Elliott chưa từng kể về ông.

Anh tiếp tục nhìn cô chăm chăm một lúc lâu. Rồi anh chuyển ánh mắt sang ngọn lửa và đặt cuốn sách xuống chiếc bàn bên cạnh.

“Tôi tôn thờ ông ấy,” anh nói. “Ông là vị anh hùng vĩ đại của tôi, nền tảng cho sự tồn tại của tôi. Ông là hình mẫu của tất cả những gì tôi khao khát được trở thành khi nào lớn lên. Tôi làm mọi thứ để khiến ông hài lòng. Ông thường xa nhà thành những đợt dài kế tiếp nhau. Tôi mong mỏi ông trở về. Khi còn rất nhỏ, tôi thường đóng đô trước cổng vườn để ngóng tiếng chân ngựa hoặc cỗ xe của ông và trong một vài dịp hiếm hoi ông mới về trong lúc tôi đang ở đó, tôi sẽ quấn lấy ông và kè kè bên ông trước khi mẹ và các em của tôi có thể dành lại lượt của họ. Khi tôi lớn hơn và bắt đầu lêu lổng với Con, hành vi của tôi luôn được kìm chế bởi nỗi sợ làm cha mình thất vọng và khơi lên cơn tức giận của ông. Khi tôi bắt đầu ăn chơi trác tác ở tuổi thanh niên, một phần trong tôi lo lắng rằng mình sẽ chẳng bao giờ sánh ngang với ông, rằng sẽ chẳng bao giờ đạt được tiêu chuẩn ông đã đề ra.”

Anh im lặng một lúc. Vanessa cố gắng không nói bất cứ lời nào. Cô cảm thấy phía trước còn nhiều điều hơn nữa. Có một nỗi đau đớn trong ánh mắt và giọng nói của anh, một nếp nhăn hằn giữa đôi lông mày.

“Không có gia đình nào gắn bó, hạnh phúc được hơn gia đình chúng tôi,” anh nói, “không người chồng nào tận tụy hơn với vợ hoặc một người cha tận tụy với các con của mình hơn cha tôi. Mọi mặt của cuộc sống đều êm đềm bất chấp những lần vắng nhà dài ngày của ông. Nó được lấp đầy bởi tình yêu. Hơn bất cứ thứ gì trên thế giới này tôi muốn có một cuộc hôn nhân và gia đình giống như của ông. Tôi muốn được sưởi ấm trong sự tán thành của ông. Tôi muốn ai ai cũng có thể nói về chúng tôi, ‘đúng là cha nào con nấy’.”

Vanessa gấp quyển sách lại trên lòng mà không đánh dấu trang và khoanh hai cánh tay lại, dù chắc chắn cô không thấy lạnh khi ngồi sát lò sưởi.

“Và rồi một năm rưỡi trước đây,” anh nói, “ông chết đột ngột trên giường của nhân tình.”

Vanessa nhìn anh trân trân, choáng váng bởi những lời nói ấy.

“Họ đã sống với nhau hơn ba mươi năm,” anh bảo cô, “lâu hơn một chút so với cuộc hôn nhân của cha mẹ tôi. Họ đã có năm người con, đứa bé nhất mười lăm tuổi, nhỏ hơn Cecily đôi chút, người con cả ba mươi tuổi, lớn hơn tôi đôi chút.”

“Ôi,” Vanessa thốt lên.

“Ông đã chu cấp đầy đủ cho nhân tình trong trường hợp ông chết đi,” anh nói. “Ông đã đưa hai người con trai của mình vào nơi công ăn việc làm ổn định và sinh lời, đứa con thứ ba học ở ngôi trường chất lượng, ông đã kiếm cho hai cô con gái hai người chồng đáng kính, giàu có. Ông đã dành thời gian của mình cho gia đình ấy ngang bằng với gia đình tôi.”

“Ôi, Elliott,” cô nói, cảm nhận sâu sắc được nỗi đau của anh đến mức mắt cô nhòa lệ.

Anh nhìn cô.

“Hài hước ở chỗ,” anh nói, “tôi biết về ông nội tôi và một gia đình khác của ông. Cô nhân tình bốn mươi năm của ông mới chết khoảng mười năm trước. Mối quan hệ bất chính đó cũng có kết quả là mấy đứa con. Tôi thậm chí còn biết rằng đó là một loại truyền thống của gia đình - một cách mà những người đàn ông nhà Wallace chúng tôi chứng tỏ khí chất đàn ông và sự vượt trội của mình trước phụ nữ, tôi cho là thế. Nhưng tôi chưa từng nghĩ rằng có lẽ cha mình cũng nâng cao truyền thống ấy.”

“Ôi, Elliott,” Cô không thể nghĩ ra điều gì khác để nói.

“Tôi tin là,” anh nói, “cả thế giới đã biết hết trừ tôi ra. Làm sao tôi có thể không biết, tôi chịu. Tôi dành hết thời gian ở thành phố này sau khi tốt nghiệp Oxford, Chúa biết thế, và tôi nghĩ mình đã biết mọi thứ xảy ra trong giới thượng lưu, thậm chí cả những mặt trái đê tiện của nó. Nhưng tôi chưa từng nghe thấy một lời thì thầm nào về cha tôi. Mẹ tôi thì biết - bà luôn luôn biết. Cả Jessica cũng biết luôn.”

Cô cố hình dung cả thế giới của anh đã sụp đổ như thể nào chỉ hơn một năm trước đây.

“Tất cả,” anh nói như thể đọc được ý nghĩ của cô. “Tất cả mọi thứ tôi biết, mọi điều tôi đã tôn sùng và tin tưởng - tất cả đều là ảo ảnh, là dối trá. Tôi đã nghĩ chúng tôi đã có tình yêu không sứt mẻ của cha. Tôi đã nghĩ có lẽ mình là trường hợp đặc biệt bởi vì tôi là con trai, là người thừa kế, là người kế vị cuối cùng của ông. Nhưng ông đã có một đứa con trai lớn hơn tôi và một đứa suýt soát tuổi tôi và ba đứa nữa. Thật khó khăn để nuốt trôi cái sự thật đó. Nó vẫn thật khó khăn. Tất cả những năm tháng ấy mẹ tôi không là gì cả với ông ngoài một người vợ hợp pháp, người tạo ra cho ông kẻ thừa kế hợp pháp. Và tôi chẳng là gì cả đối với ông ngoài kẻ thừa kế hợp pháp đó.”

“Ôi, Elliott,” cô bỏ chân xuống khỏi ghế, đứng lên, thậm chí không nhận thấy quyển sách đã rơi bịch xuống sàn, và vội vã bước đến chỗ anh. Cô ngồi xuống lòng anh, vòng hai cánh tay qua eo anh, và gục đầu vào vai anh. “Ngài không biết điều đó. Ngài là con trai của ông. Chị và em gái ngài là con gái của ông. Ông không cần phải bớt yêu ngài chỉ vì ông có những đứa con ở nơi khác. Tình yêu không phải một mặt hàng hạn chế đến độ chỉ nới rộng có chừng mực. Nó là vô tận. Đừng nghi ngờ là ông không yêu ngài. Xin đừng làm vậy.”

“Tất cả những sự dối trá ấy,” anh nói, tựa đầu vào lưng ghế. “Về việc ông phải bận rộn ở London đến mức nào, về việc ông ghét phải xa nhà, và rồi về chuyện ông nhớ chúng tôi xiết bao, ông cô đơn đến độ nào khi không có chúng tôi, ông vui mừng biết bao nhiêu khi trở về nhà. Tất cả là dối trá, chắc chắn được lặp lại với gia đình kia của ông khi ông quay về với họ.”

Cô ngẩng đầu để nhìn vào gương mặt anh và rút tay ra để cô có thể vuốt lên mái tóc anh.

“Đừng,” cô nói. “Đừng nghi ngờ hết thảy, Elliott. Nếu ông nói ông yêu ngài, nếu ngài cảm thấy tình yêu đó, thì đừng nghi ngờ ông nói dối.”

“Vấn đề là,” anh nói, “chẳng có gì trong số này là của hiếm cả. Tôi có thể nêu một tá ví dụ khác mà chẳng cần nhọc công nghĩ ngợi. Nó nảy sinh từ đời sống một xã hội mà ở đó dòng dõi, địa vị và gia tài là tất cả và hôn nhân chiến lược là tiêu chuẩn. Nó là chuyện bình thường khi tìm kiếm thú vui xác thịt và cảm xúc thoải mái ở nơi khác. Chỉ là tôi không biết điều đó ở cha tôi, thậm chí không một chút nghi ngờ. Đột ngột tôi trở thành tử tước Lyngate với sự chuẩn bị vô cùng ít ỏi cho tất cả bổn phận và trách nhiệm giờ đây là của mình - là lỗi của tôi, tất nhiên. Tôi đã là một thằng thanh niên bất cần quá lâu. Và đột nhiên tôi trở thành người bảo trợ của Jonathan. Tất cả những chuyện đó tôi sẽ giải quyết, đột ngột và không mong đợi như khi chúng đến với tôi. Xét cho cùng tôi là con trai của cha tôi cơ mà. Nhưng cũng đột ngột và không mong đợi như vậy tôi đã bị -“

“tước đoạt những kí ức của mình?” cô gợi ý khi anh dừng phắt lại.

“Phải, nhận ra là chúng hoàn toàn sai, tất cả chỉ là ảo tưởng,” anh nói. “Tôi bị trôi vào một thế giới mà tôi không biết gì.”

“Và,” cô nói, “mọi niềm vui và yêu thương và hi vọng đã bay đi khỏi cuộc sống của ngài.”

“Tất cả những lí tưởng ngu ngốc và ngây thơ,” anh nói. “Tôi đã trở thành một người thực tế rất nhanh chóng, hầu như chỉ qua một đêm. Tôi học bài học của mình khá chóng vánh và sáng dạ.”

“Ôi, tội nghiệp ngài, con người dại dột,” cô nói. “Sự thực tế không loại trừ tình yêu hay niềm vui. Nó được làm từ những yếu tố đó.”

“Vanessa,” anh nói, giơ tay lên và áp mặt sau những ngón tay lên má cô một lúc, “tất cả chúng tôi nên thơ ngây và lạc quan như em. Tôi đã từng như thế cho đến một năm rưỡi trước.”

“Tất cả chúng ta nên thực tế như em,” cô nói. “Tại sao sự thực tế luôn được nhìn nhận như một thứ cấm đoán? Tại sao chúng ta thấy quá đỗi khó khăn để tin tưởng bất cứ điều gì ngoài thảm họa và bạo lực và phản bội? Cuộc sống là tốt đẹp. Ngay cả khi những người tốt lại chết quá trẻ và những người lớn hơn phản bội chúng ta, cuộc sống là tốt đẹp. Cuộc sống là những gì chúng ta tạo ra. Chúng ta phải chọn cách nhìn nhận nó như thế nào.”

Cô hôn nhẹ lên môi anh. Nhưng cô sẽ không xem nhẹ nỗi đau mà anh vẫn không thể gọi tên thậm chí sau hơn một năm.

“Và vậy là anh cũng mất nốt người bạn thân nhất?” cô nói dịu dàng. “Anh mất Constantine?”

“Cọng rơm cuối cùng, đúng vậy,” anh thú nhận. “Tôi cho rằng mình có một phần lỗi. Tôi về lại đó, về Warren Hall, với sự sốt sắng vĩ đại để thực hiện bổn phận của mình với Jonathan, khá là sẵn sàng hiếp đáp bất cứ ai dính líu đến thằng bé nếu cần thiết. Có lẽ tôi sẽ sớm học được rằng phải bớt nhiệt huyết quá đáng đi nếu tất cả đã diễn ra theo chiều tất yếu. Nhưng không, rất nhanh chóng tôi thấy rõ rằng cha tôi đã đặt hết niềm tin vào Con và rằng Con đã tận dụng lòng tin đó.”

“Bằng cách nào?” cô hỏi anh, hai bàn tay ôm lấy gương mặt anh.

Anh thở dài.

“Gã đánh cắp của Jonathan,” anh nói. “Có những món nữ trang, đồ gia bảo. Hầu hết đều là vật vô giá, dù tôi dám chắc chúng đã mang lại một món tiền đáng kể. Phần lớn trong số đó đã biến mất. Jon chẳng biết gì về chúng khi được hỏi, nhưng nó nhớ là cha nó đã đưa cho nó xem một lần. Con sẽ không thú nhận đã lấy chúng, nhưng gã cũng chẳng chối. Gã khoác một vẻ mặt khi tôi nói chuyện với gã, một vẻ mặt mà tôi đã quen thuộc từ lâu - nửa chế giễu, nửa khinh miệt. Nó là một vẻ mặt nói với tôi một cách rõ ràng như từng chữ một rằng đúng là gã đã lấy đấy. Nhưng tôi không có bằng chứng. Tôi không nói với bất cứ ai. Nó là nỗi nhục nhã trong nhà mà tôi cảm thấy có bổn phận phải che dấu với thế giới. Em là người đầu tiên được biết. Gã không phải một người bạn xứng đáng. Tôi đã bị gã lường gạt cả đời cũng như bị lường gạt bởi cha tôi. Gã không phải là một tính cách dễ chịu đâu, Vanessa.”

“Không,” cô buồn bã đồng ý.

Anh nhắm mắt, cánh tay rơi trở lại bên sườn.

“Ôi Chúa,” anh nói, “sao tôi lại trút lên em tất cả lịch sử bẩn thỉu của gia đình này vậy?”

“Bởi vì em là vợ ngài,” cô nói. “Elliott, ngài không được từ bỏ tình yêu cho dù hình như tất cả những người ngài yêu quý đều phản bội ngài. Thật ra chỉ có hai người trong tất cả những người ngài biết mà thôi, những người ấy cũng quý giá như hai người đó. Và ngài không được từ bỏ hạnh phúc ngay cả khi những hồi ức hạnh phúc của ngài dường như chỉ là những hồi ức giả dối. Tình yêu và niềm vui đang chờ ngài phía trước.”

“Vậy sao?” anh mệt mỏi nhìn vào mắt cô.

“Và hi vọng,” cô nói. “Luôn luôn phải hi vọng, Elliott.”

“Phải ư? Tại sao?”

Và rồi, khi cô vẫn nhìn, hai bàn tay cô vẫn khum lấy hai bên gương mặt anh, cô thấy những giọt nước mắt ứa ra trong mắt anh và chảy xuống má anh.

Anh giật đầu ra khỏi tay cô và bật ra một lời nguyền rủa phải làm đỏ bừng gương mặt cô.

“Mẹ kiếp,” anh nói, tiếp nối câu chửi thề đầu tiên bằng một câu nhẹ nhàng hơn. Anh dò dẫm xung quanh tìm khăn tay và thấy một cái. “Quỷ tha ma bắt, Vanessa. Em phải thứ lỗi cho tôi.”

Anh cố nhấc cô khỏi lòng mình, đẩy cô ra, xua đuổi cô. Nhưng cô sẽ không cho phép chuyện đó. Cô vòng cả hai tay qua cổ anh, kéo gương mặt anh vào ngực mình.

“Đừng cự tuyệt em,” cô nói trong tóc anh. “Đừng mãi cự tuyệt em, Elliott. Em không phải cha anh hay Constantine. Em là vợ anh. Và em sẽ không bao giờ phản bội anh.”

Cô quay mặt để áp má lên đỉnh đầu anh khi anh khóc với những tiếng thổn thức sâu và đau đớn cùng những tiếng thở nghẹn ngào.

Anh sẽ xấu hổ chết mất khi khóc xong, cô nghĩ. Có lẽ bao nhiêu năm nay anh chưa nhỏ một giọt nước mắt nào. Đàn ông thật ngớ ngẩn về những chuyện như vậy. Nó là sự nhục nhã cho khí chất nam nhi của họ khi khóc lóc.

Cô hôn lên mái đầu anh và thái dương anh. Cô vuốt ve những ngón tay lên tóc anh.

“Tình yêu của em,” cô thì thầm với anh. “Ôi, tình yêu của em.”
Bình Luận (0)
Comment