Huyết Tu La vốn đã nấp sẵn gần đó, ẩn giấu thân hình của mình vào bóng đêm, không lộ diện.
Đức không cho nó tham chiến từ đầu, chính là vì U Minh chiến sĩ đột ngột quay đầu phản bội khiến hắn cảm thấy không yên tâm, nếu kẻ địch có thể điều khiển U Minh chiến sĩ, lỡ hắn cũng có thể điều khiển Huyết Tu La thì lúc đó sẽ là đại tai họa. Dù hai loại hình thức triệu hoán này về bản chất rất khác nhau nhưng hắn không dám mạo hiểm.
Dù sao thì, để nó trở thành một nhát dao ẩn giấu trong bóng tối, khi cần ra một kích trí mạng vẫn tốt hơn rất nhiều, Huyết Tu La về cái này rất có tiềm chất thành sát thủ bóng tối. Một kích của nó quả thật rất hiệu quả, một phần cũng nhờ sự phối hợp của Đức thu hút hết sự chú ý của gã Lý Văn Đông về phía mình.
Gã chết, xác của gã cũng hóa thành tro bụi, phân hủy ra thành từng mảnh chỉ trong chốc lát, xương cốt hóa thành một mảnh bụi đất, chỉ còn lại trên mặt đất một ngọn lửa nhỏ màu lam nhạt âm u. Ngọn lửa này không tắt mất mà nó vẫn cháy âm ỉ ở đó, hiện ra lơ lửng cách mặt đất chừng nửa tấc nhìn qua như lửa ma trơi.
“U hỏa linh hồn”: Ngọn lửa có thể điều khiển các sinh vật quỷ hồn, sinh vật u linh, khô lâu, thăng cấp cho khô lâu và sinh vật triệu hoán, u hỏa có khả năng khắc chế trời sinh với các sinh vật hắc ám và địa ngục. Điểm giao dịch 5000 điểm, 2 quyền hạn cấp C
Đây là toàn bộ thứ đáng giá từ việc thu thập gã Lý Văn Đông này, quả thật là thu hoạch chỉ có thể nói là cực kỳ nghèo nàn so với công sức chiến đấu khốc liệt nãy giờ. Lần trước chiến đấu với đám xác sống nhẹ nhàng hơn hẳn mà còn thu hoạch ngon lành hơn nhiều. Nguyên do chính là vì đám xương khô triệu hoán từ gã này hoàn toàn không bán được cho M.T.C, đánh vỡ cái là xong luôn, nếu bán được hơn ngàn con đó thì điểm số giờ phải lên tới gần trăm ngàn điểm giao dịch như chơi.
Số điểm lẻ tẻ Đức thu được từ giết bọn xác sống và thú biến dị dọc đường tới giờ thì tổng điểm hiện tại của hắn là: 2.230 điểm giao dịch, 10 quyền hạn cấp C, 5 quyền hạn cấp D, 5 quyền hạn cấp E và 5 quyền hạn cấp F.
Thu ngọn lửa “U hỏa linh hồn” này vào kho trung gian, Đức chưa muốn bán nó cho M.T.C trước. Theo kinh nghiệm của hắn, giá mua và giá bán từ cửa hàng chênh lệch nhau cực kỳ lớn. Chẳng hạn, nếu hắn bán một khẩu AK 47 ở ngoài cho M.T.C nó sẽ định giá còn chưa tới 1 điểm, nhưng nếu muốn mua lại từ nó thì phải tốn tới 6 điểm giao dịch.
Ngọn lửa này có năng lực cực kỳ quỷ dị và kỳ bí, nó có thể biến một tên ất ơ tầm thường trở thành một kẻ cực kỳ đáng sợ, gần như là một mình cân cả đội của Đức, suýt nữa còn khiến hắn ăn quả đắng, nếu chỉ đổi được 5000 điểm giao dịch và 2 quyền hạn cấp C thì kiểu gì cũng thấy thiệt quá.
Xử lý sơ qua cái chiến trường này, Lan vận dụng kỹ năng chữa thương chữa trị mấy vết chém ghê người trên lưng Đức, Đức cũng triệu hồi tiểu Dương ra ngoài bảo nó phun nước dập vài ngọn lửa đang bùng cháy trong mấy cành cây mà hỏa cầu của Lan gây ra, nếu lỡ xảy ra cháy rừng cũng không hay lắm, lỡ gió đổi chiều quật về hướng cả đám định đi thì phiền phức to.
Thu dọn xong, mọi người nhanh chóng rời khỏi khu vực này. Không phải đi về phía rừng cây phía trước mà đi ngược lại chỗ thị trấn, nếu hắn đoán không lầm, thị trấn là địa bàn của gã này, hắn đã chết đi thì khu đó sẽ cực kỳ an toàn. Còn rừng cây phía trước ẩn chứa bao nhiêu nguy hiểm, ai mà biết được đây.
Tiếng động khi giao chiến vừa rồi rất lớn, thời gian cũng khá lâu, cả nhóm cũng không còn bao nhiêu chiến lực, một vài con thú biến dị kéo đến không sao chứ lỡ kéo cả bầy, xui xẻo lại có một hai con biến thái như gã Lý Văn Đông này thì mệt rồi.
Đức leo lên lưng tiểu Dương, Lan và Hân nhảy lên lưng tiểu Quang, Toàn thì nhảy lên người Phong lang, cả ba tung hết tốc độ phóng ngược lại rời khỏi chiến trường u ám này.
Tính ra thì đường cũng không xa lắm, nên chỉ chừng hai mươi phút mọi người đã trở lại trong thị trấn, chọn một căn nhà vắng người khá sang trọng, Đức dẫn đầu mọi người tiến vào bên trong.
Đây là một căn nhà khá lớn và kiên cố, nằm ở chính giữa đường lớn của thị trấn, có hai tầng, khuôn viên bên trong khá là rộng rãi, một cây nhãn trồng ngay góc sân, giờ đã khô héo, lá rụng hết chỉ còn cành khô đong đưa trong gió.
Phía trong nhà cũng khá là rộng rãi, chủ nhà của nó trước đây có vẻ khá là giàu có, nhà lát gạch men cao cấp, bộ đồ gỗ ở phòng khách đoán chừng cũng cả trăm triệu rồi, ti vi, tủ lạnh, đầu máy kara đầy đủ cả.
Nhà vắng lặng không có một ai, chắc chủ nhà cũng đã trở thành thành viên trong đám xương khô đông đảo của gã Lý Văn Đông kia rồi.
Giũ sơ qua bụi bặm trong phòng, mọi người tự tiến vào mỗi căn phòng trống nghỉ ngơi. Chiến đấu vừa rồi thực sự quá mệt mỏi, ai nấy cũng lăn ra ngủ say.
Đức ngồi ở trên giữa phòng khách, trải một tấm thảm lên sàn, lấy ra bộ Ngũ hành trận pháp, đặt một bộ đá Ngũ hành nguyên thạch trung phẩm vào rồi bắt đầu nhắm mắt nhập định tiến vào tu luyện.
Mặc dù lúc này hắn cũng cực kỳ mệt mỏi, rất muốn lăn ra ngủ một giấc không cần biết trời trăng mây gió, nhưng trải qua một thời gian dài nghiêm khắc với bản thân, hắn hiểu được một đạo lý rằng, càng trải qua được khó khăn cực khổ, con người ta mới càng có thể mạnh mẽ hơn được.
Dù sao thì việc tu luyện của hắn cũng có thể giúp cơ thể rơi vào trạng thái thư giãn và nạp lại năng lượng tốt hơn cả giấc ngủ. Hắn cũng để ý thấy rằng, mỗi lần cơ thể càng rơi vào trạng thái kiệt quệ thì tu luyện có hiệu quả càng cao, khả năng hấp thu của cơ thể càng tốt hơn.
Trong đêm tối, trận pháp Ngũ hành nguyên thạch sáng lên, Kim nguyên thạch màu vàng, mộc nguyên thạch màu xanh lá, thủy nguyên thạch màu xanh dương, hỏa nguyên thạch màu đỏ, thổ nguyên thạch màu nâu đất, tất cả được kết nối qua lại. Đức nhắm mắt tu luyện, năng lượng cuồn cuộn tràn vào đi qua Lõi Burst để thanh lọc rồi chuyển đến lõi Trance và Lõi Rise hóa thành một dịch thể màu vàng kim lưu động khắp cơ thể. Ánh sáng từ nguyên thạch trung phẩm cũng cô đọng hơn nguyên thạch hạ phẩm hắn sử dụng trước đây nhiều.
Trải qua hơn hai giờ đồng hồ, toàn bộ năm viên trung phẩm ngũ hành nguyên thạch đã bị hắn hấp thu sạch sẽ. Cơ thể hắn đang ngày càng có khả năng hấp thu năng lượng tốt hơn trước nhiều. Giờ chỉ còn lại một bộ ngũ hành nguyên thạch trung phẩm nữa thôi.
Chặc lưỡi một cái, Đức lấy nốt ra để tiến hành tu luyện luôn, qua nhiều ngày tu luyện, hắn cảm nhận cơ thể của mình đang gần đến mức độ đột phá cấp C để chuẩn bị lên cấp 2C rồi chỉ còn thiếu một chút nữa.
Một bộ ngũ hành nguyên thạch trung phẩm mới được đặt vào trận pháp. Năng lượng tỏa ra, Đức tiếp tục chìm vào trong tu luyện, dòng dịch thể vàng kim lưu động trong lõi Trance – Burst – Rise ngày càng trở nên dồi dào, lúc trước chỉ như từng dòng nước nhỏ giờ đã hóa thành một dòng suối róc rách chảy qua kinh mạch (*) trong cơ thể.
Năng lượng không ngừng hấp thu, di chuyển vào trong các lõi chuyển hóa, rồi tuần hoàn qua khắp nơi trong cơ thể, mang đến cho hắn một cảm giác khoan khoái lạ thường.
“Kịch” một tiếng, giống như đã đạt đến giới hạn chung cực nào đó, dòng dịch thể vàng kim trong các lõi Trance – Burst – Rise xoáy tròn tản mát ra từng tế bào trên thân thể khiến hắn có một cảm giác tràn đầy năng lượng.
“Oành” kình khí từ người hắn toát ra bên ngoài khiến tấm thảm dưới chân tan nát, bộ bàn ghế cạnh đó cũng bị hất tuốt ra xa đụng hẳn vào tường.
Thở ra một hơi dài, Đức vươn vai đứng dậy, cơ thể cảm giác từng trận nhẹ nhàng, tiến hành nội thị.
Hắn đã đột phá cấp 2C, quá trình nhẹ nhàng như nước chảy thành sông, dù gì đây cũng chỉ là một cấp nhỏ quá độ từ cấp C đến cấp B mà thôi, quá trình này chỉ đòi hỏi tích lũy và tích lũy năng lượng không ngừng. Chính thức đột phá qua cấp B mới là khó khăn.
Nở một nụ cười thoải mái, mọi người trong nhà vẫn còn ngủ say, có lẽ do đã quá mệt rồi.
Đức mở cửa bước ra sân, trời lúc này vẫn còn âm u, nhìn hướng mọc của trăng thì chắc chỉ vào tầm ba, bốn giờ sáng là cùng.
Hít sâu một hơi, Đức rút thanh Lạc phong kiếm ra tiếp tục bài tập kiếm thường ngày của mình.
……………………………………………….
(*) Thực ra nó là các ống dẫn truyền năng lượng chú tạo từ thượng cổ phù ngữ, nhưng mình ghi kinh mạch cho mọi người dễ hình dung vậy.
Credit chương hôm nay, mục Hào hùng sử Việt mình sẽ viết về một nữ hào kiệt mà mọi người chắc ai cũng ít nhất đã một lần nghe danh: “Bà Triệu”.
(Những ai không muốn đọc có thể bỏ qua nha, nó không hề ảnh hưởng gì tới mạch truyện cả)
Trước khi nói về Bà Triệu thì mình xin nêu một số nhận xét cá nhân của mình về phụ nữ Việt.
Trước hết là về dung mạo, tự tin nói chắc một câu, nước Việt từ cổ xưa đến nay có rất nhiều mỹ nhân, tỷ lệ phụ nữ xinh đẹp cũng rất cao, đến giờ vẫn vậy, đôi khi ra đường vẫn bắt gặp nhiều cô gái xinh hút hồn còn hơn cả diễn viên, ca sĩ.
Danh sách các trường đại học mà con gái đa phần xinh có thể kể đến là: Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại, Đại học Ngoại thương, Đại học kinh tế, mấy trường khác thì mình chưa vô chưa biết. Nói cho một số bạn tham khảo, với cho lão DongHo, lỡ bấn gái quá có thể bắt xe lên đây ngắm cho đỡ thèm nha =))))
Mỹ nhân Việt thời xưa đẹp nghiêng nước nghiêng thành thậm chí là so với tiêu chí của người hiện đại, thông qua một số ảnh chụp đen trắng, hoặc tranh vẽ truyền thần từ hồi đó truyền lưu lại, chứ không phải kiểu như cung tần mỹ nữ của Trung Quốc, nhìn ảnh đen trắng của đám cung phi mỹ nữ của vua nhà Thanh mà mình chỉ có thể thốt lên một câu: “Móa, vua chúa Trung Quốc hồi đó khẩu vị nặng quá, chịu không nổi” (Có ai coi chưa, mình có link dưới cmt ấy, xem xong chắc phản ứng cũng như mình thôi)
Kế đó là nói tới tài năng, nước Việt sản sinh ra nhiều nữ nhân không chỉ là xinh đẹp, mà còn có tài, có đức, công dung ngôn hạnh, văn có, võ có, thơ văn ca phú có, tài kinh bang trị quốc có. Mặc dù bị hạn chế bởi thời đại, phong kiến mà, vẫn trọng nam khinh nữ (Cái này là do mình bị ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, chứ trước thời Hai Bà Trưng thì vẫn thoải mái lắm) nhưng vẫn có rất nhiều nữ nhân Việt lừng danh sử sách vì tài năng, bản lĩnh và trí tuệ của mình, nói chung các bạn cứ rà thử sử mình từ thời Hai Bà Trưng cho đến cận đại luôn sẽ thấy đời nào cũng có nữ trung hào kiệt, nhiều người nức danh sử sách còn mãi cho đời sau.
Hôm nay mình sẽ nói về một người như vậy trong rất nhiều rất nhiều nữ danh nhân Sử Việt: Bà Triệu
Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, sinh năm 226 tại miền núi Quân Yên, quận Cửu Chân, nếu tính theo địa phận thì nay trực thuộc Thanh Hóa, thưở nhỏ cha mẹ mất sớm bà đến ở cùng với anh trai của bà là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng trong vùng.
Sinh thời, tương truyền bà cực kỳ xinh đẹp, lại rất giỏi võ, có tài thuần voi, có rất nhiều người dạm hỏi, nhiều người từng giục bà lấy chồng do sợ quá tuổi lỡ thì, bà đã đáp lại rằng:
“Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người!”
Câu nói đầy khí phách của bà đến nay vẫn còn lưu danh sử sách, nhắc đến bà thì không thể không nhớ đến câu nói này.
Để hiểu được nguồn gốc của khởi nghĩa Bà Triệu thì phải nói một chút về bối cảnh lịch sử lúc đó.
Thời đó chiếu theo sử là cùng thời Tam Quốc phân tranh của nhà Hán, nước ta lúc đó tính ra là thuộc địa phận cai trị của Ngô quốc, dưới tay vua Đông Ngô là Tôn Quyền.
Đám bọn chúng vốn không coi chúng ta là con người, chỉ là một đám man di, mọi rợ, cai trị cực kỳ tàn khốc, sưu cao thuế nặng, bắt lính, gian dâm cưỡng hiếp, đụng chuyện là giết không cần xét xử, từng có rất nhiều cuộc tàn sát nổi tiếng là cuộc tàn sát của Lữ Đại dẫn quân vào Cửu Chân giết hại một lúc hàng vạn người.
Bất bình trước cảnh đó, bà Triệu thuyết phục anh trai mình là Triệu Quốc Đạt lập kế hoạch khởi nghĩa dành độc lập cho dân tộc.
Bắt đầu từ vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà giương cao ngọn cờ khởi nghĩa, viết hịch vạch tội ác giặc Ngô đối với dân ta, kêu gọi binh sĩ khởi nghĩa. Mọi người đồng lòng hưởng ứng theo dưới ngọn cờ của anh em bà.
Hai anh em dẫn quân đánh thẳng đến Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã, một đường hát vang tiến mạnh đánh tới, thành ấp của quân Ngô liên tục bị đánh bại, đám quan lại tàn ác nhà Ngô từ Thái thú đến huyện lệnh bị bắt, bị giết, có kẻ may mắn thì chạy trốn trong hoảng loạn.
Tư Phố lúc ấy là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân, đứng đầu là Tiết Kính Hàn. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.
Đúng lúc ấy thì anh trai bà, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời. Bà lúc ấy rất có uy vọng trong quân, được mọi người nhất trí tôn lên làm chủ soái chỉ huy nghĩa quân, gọi là Nhụy Kiều tướng quân.
Cuộc khởi nghĩa lan rộng, bắt buộc Tôn Quyền phải cử Lục Dận (Cháu của Lục Tốn) dẫn tám ngàn binh sĩ sang đàn áp, Lục Dận lúc ấy sử dụng chính sách chia để trị, dùng vàng bạc, của cải, mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để suy yếu và chia rẽ nghĩa quân.
Quân cô, thế cô, kẻ địch lại quá đông và quá mạnh, Bà Triệu chỉ chống đỡ được với quân Ngô được sáu tháng thì không chống đỡ nổi nữa. Bà đã tuẫn tiết trên núi Tùng, năm ấy bà chỉ mới 23 tuổi.
Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng thất bại. Vì chúng ta yếu, yếu hơn kẻ địch rất nhiều, nhưng nó nói rõ một điều rằng: Con dân Việt không khuất phục, không cam chịu.
Sau bà Triệu còn có rất nhiều, rất nhiều người nối gót đi theo, rất nhiều cuộc khởi nghĩa đẫm máu nổ ra, mình cũng không muốn nói lời dối trá, rất nhiều cuộc chiến đã thất bại, không phải là bại để rút kinh nghiệm gì cả, bại là bại, rất nhiều con dân Việt đã bị tàn sát dưới gót sắt quân Ngô.
Nhưng chúng ta không bỏ cuộc, chúng ta vẫn đứng lên, dù đổ bao nhiêu máu tươi thì người này vẫn nối tiếp người khác để rồi cuối cùng cũng tới một lúc, chúng ta đã thành công giành lại được độc lập cho dân tộc.
“Độc lập” hai chữ nhẹ nhàng này, đối với nước ta là nỗ lực đời đời, là máu đổ đầu rơi, là dùng không biết bao nhiêu xương máu của ngàn vạn con người để đổi lấy.