Sáng hôm sau thức dậy, tôi tới Chiêu Dương
điện thỉnh an theo lệ thường. Các phi tần trong cung lúc này đã tới quá nửa,
nhìn thấy tôi thướt tha đi tới, tất cả liền vội vàng khom người hành lễ, vô số
tiếng châu ngọc va vào nhau vang lên nghe hết sức trong trẻo, êm tai. Nhìn
những gương mặt xinh đẹp như hoa đang tỏ ra kính cẩn kia, tôi nở một nụ cười
bình thản, bọn họ nào có thật lòng coi tôi ra gì, chẳng qua chỉ cúi mình trước
quyền thế của tôi bây giờ mà thôi.
Từ sau khi tôi về cung, những lời đồn thổi
chưa từng ngưng nghỉ, mãi tới khi tôi trấn áp Tường Tần, đè nén Kỳ Tần, lại
sinh Hoàng tử và được phong làm Thục phi, tay nắm quyền hiệp trợ quản lý lục
cung, những lời đồn ấy mới không còn xuất hiện bên tai tôi nữa, ngay đến những
con người vốn đầy lòng ghen tức cũng đều đến trước mặt tôi mà trưng ra vẻ mặt
tươi cười, xiểm nịnh.
Tôi bám vào tay Cận Tịch chậm rãi bước chân
lên bậc thềm, khi đi ngang qua bên cạnh Mục Quý nhân thì đột nhiên dừng lại,
mỉm cười, nói: “Mục Quý nhân vào cung cũng được mấy năm rồi đúng không?”
Nàng ta ngẩng lên, lộ vẻ ngẩn ngơ, bối rối,
nhưng rất nhanh sau đó vẫn ân cần tươi cười. “Nương nương trí nhớ tốt quá, tần
thiếp vào cung cùng năm với Phó Tiệp dư.”
Tôi dừng ánh mắt trên tà váy dài màu tím
của nàng ta, hờ hững nói: “Giữ cho áo váy không dính bụi chính là bổn phận của
một phi tần, cớ sao Quý nhân mới sáng sớm thế này mà đã làm bẩn xiêm y như thế,
là vì bản thân cẩu thả, luộm thuộm hay là do chẳng coi việc thỉnh an Hoàng hậu
ra gì?”
Trên tà váy của Mục Quý nhân có một vết bẩn
màu nâu không bắt mắt lắm, chắc là do bị bụi đất bám vào lúc đi đường. Nàng ta
bất giác mặt đỏ tía tai, hoang mang nói: “Tần thiếp không dám bất kính với
Hoàng hậu.”
Tôi gật đầu, nói: “Muội muội nói thì nói
như vậy, nhưng làm lại không làm như vậy, rõ ràng là loại người tâm khẩu bất
nhất. Thôi Thượng nghi.” Tôi quay đầu sang dặn dò Cận Tịch: “Đi mời ma ma dạy
lễ nghi tới cung của Mục Quý nhân dạy dỗ cô ta một chút.” Sau đó liền thu lại
nụ cười, nghiêm túc nói: “Một tháng sắp tới Quý nhân nhớ học lễ nghi cho cẩn
thận, không cần tới Chiêu Dương điện thỉnh an nữa. Quý nhân nên biết rằng hậu
cung là chốn tai vách mạch rừng, chớ nên nói năng bừa bãi, nghĩ bậy làm bừa,
chưa biết chừng lại có ai nghe thấy rồi đi báo với bản cung đấy. Đợi khi nào
Quý nhân học được cách cư xử, không trước mặt nói một kiểu, sau lưng nói một
kiểu thì hãy trở lại Chiêu Dương điện này thỉnh an.”
Mục Quý nhân mắt rơm rớm lệ, hổ thẹn đến
nỗi mặt mày tím tái, hai bờ môi mím chặt không nói được gì. Tôi nhìn quanh mọi
người, thấy ai cũng đều nín thở đứng im, không dám ho he tiếng nào, Nghiêm Tài
nhân và Ngưỡng Thuận nghi thì lại càng nấp sau lưng người ta chẳng dám ngẩng
lên. Tôi nói với giọng thích thú: “Nghiêm Tài nhân và Ngưỡng Thuận nghi xưa nay
vẫn luôn thân thiết với Mục Quý nhân, chẳng rõ có nhiễm thói xấu kia không nữa,
chi bằng hãy cùng Mục Quý nhân học lễ nghi luôn đi.”
Nghiêm Tài nhân và Ngưỡng Thuận nghi đều cả
kinh, vội vàng nói: “Tần thiếp không dám.”
Mục Quý nhân biện bạch: “Tần thiếp hiểu ý
của nương nương, nhưng An Quý tần là người chẳng lành, những lời bừa bãi bôi
nhọ tần thiếp của cô ta, nương nương đừng tin, tần thiếp thực sự bị oan mà.”
Tôi biết nàng ta nghĩ nhất định là An Lăng
Dung đã đem những lời của nàng ta ngày đó nói lại với tôi, bèn mỉm cười ung
dung nói: “An Quý tần đâu có từng nói gì với bản cung, Quý nhân chớ nên cả
nghĩ. Bản cung chẳng qua chỉ nhắc Quý nhân về vấn đề lễ nghi mà thôi.” Sau đó
lại căn dặn Hoa Nghi đang đi theo phía sau mình: “Bây giờ trời đã trở lạnh,
ngươi đi dặn dò phủ Nội vụ mang thêm ít chăn đệm tới Cảnh Xuân điện cho ta. An
Quý tần tuy là người chẳng lành nhưng cũng không thể bạc đãi quá được. Nói gì
thì nói, An Quý tần dù tệ đến mấy cũng còn hiểu chuyện hơn Mục Quý nhân một
chút.”
Mục Quý nhân, Nghiêm Tài nhân và Ngưỡng
Thuận nghi thoáng đưa mắt liếc nhau, ánh mắt lộ rõ vẻ căm hận, rất nhanh sau đó
đã lại vội cúi đầu xuống.
Giữa gian điện uy nghi, hùng vĩ, Hoàng hậu
lúc này đã ngồi vào ghế phượng, hờ hững cất tiếng: “Thục phi tới rồi.” Dứt lời
liền chỉ vào bên cạnh, thế là mọi người mới lần lượt an tọa.
Hoàng hậu hôm nay mặc một chiếc áo gấm kiểu
dáng đơn giản, bên trên chỉ thêu những bông hoa lăng màu trắng bình dị, dễ gần,
hoàn toàn không có cái bộ dạng uy nghiêm, ngạo nghễ như thuở trước.
Sau một hồi tán gẫu, Hồ Chiêu nghi đột
nhiên ngoảnh đầu nhìn sang phía tôi. “Nghe nói hôm qua có một cung nữ của phủ
Nội vụ tự vẫn thì phải?”
Tôi khẽ gật đầu, mỉm cười, nói: “Tin tức
của Chiêu nghi đúng là nhanh nhạy thực.”
Hồ Chiêu nghi nở nụ cười tươi, đôi hàng
lông mày được vẽ rất tinh tế hơi nhếch lên mang theo một tia ý vị sâu xa. “Thần
thiếp vốn là một người nhàn tản, do đó mới nghe được nhiều tin đồn.” Dừng một
chút rồi lại tiếp: “Trong chốn cung đình phi tần tự vẫn là trọng tội, cung nữ
tự sát cũng không thể tùy tiện dung thứ, Thục phi định xử trí thế nào đây?”
Tôi đưa mắt nhìn mười đầu ngón tay lộ ra
nơi ống tay áo, cất giọng hững hờ: “Cứ dùng phép liên đới theo như quy củ, thân
tộc của thị nếu là nam thì cho đi lưu đày, nếu là nữ thì mang vào cung cho làm
loại nô tỳ hạ tiện nhất.” Hoàng hậu vốn một mực im lặng lắng nghe, lúc này đột
nhiên cất tiếng: “Thục phi thực đã nhân từ quá rồi.” Nàng ta đưa mắt nhìn tôi
chăm chú, trên mặt không có lấy một tia cười thừa thãi nào. “Mạt Nhi hiện mang
mối hiềm nghi mưu hại nhị Hoàng tử, mà trong chuyện này còn rất nhiều điều chưa
rõ, như dịch độc đậu mùa từ đâu mà tới, có kẻ nào đứng sau xúi giục hay không,
thị là sợ tội tự vẫn hay là bị người ta diệt khẩu. Nhưng bất kể là như thế nào
thị cũng đều là kẻ mang tội, sao có thể dễ dàng cho qua được. Mưu hại hoàng tử
là trọng tội, theo luật thì nam quyến phải bị chém đầu, nữ quyến thì bị sung
làm quan kĩ, vậy mới có thể giết gà răn khỉ.”
Giọng của Hoàng hậu tuy không lớn, thế
nhưng cái ý tứ bên trong thì lại hoàn toàn khác biệt với bộ dạng bên ngoài của
nàng ta, từng từ đều như chém đinh chặt sắt, nện vào tai tất cả những người
đang có mặt.
Tôi ngoảnh đầu qua nhìn nàng ta. “Chuyện
này Hoàng hậu cũng đã biết rồi sao? Vốn thần thiếp định chờ điều tra rõ ràng
xong rồi mới bẩm lên Hoàng hậu, do đó vừa rồi mới không nhắc tới. Thần thiếp
cũng rất muốn biết rốt cuộc là kẻ nào đứng phía sau xúi bẩy, làm ra một việc
không bằng cầm thú thế này!” Ánh mắt tôi nhìn lướt qua mọi người trong điện,
chậm rãi nói tiếp: “Con người ta sống trên đời làm việc gì cũng nên nghĩ tới
người khác một chút, có ai mà chưa từng làm con cái của cha mẹ, sao có thể nhẫn
tâm dùng dịch độc đậu mùa để hãm hại con của Trinh Quý tần như thế chứ.”
Hoàng hậu hơi nhếch khóe môi để lộ một nụ
cười đầy ý vị, trầm giọng nói: “Thục phi đúng là người đã có hoàng tử rồi có
khác, hiểu rất rõ cái tình mẹ con sâu nặng thế nào.” Sau đó lại nhìn mấy chục
phi tần phía dưới, vẻ mặt trầm lặng như làn nước mùa thu. “Hoàng thượng hiện
giờ đã có ba vị hoàng tử, thế nhưng vì sự hưng thịnh muôn đời của Đại Chu ta,
hy vọng các vị muội muội hãy cố gắng nhiều hơn nữa. Bản cung chẳng thể sinh nở,
ắt sẽ coi con của mọi người như con mình, nhất loạt đối xử bình đẳng.”
Mọi người nghe thế liền vội vàng đứng dậy,
nói: “Chúng thần thiếp xin vâng theo lời dạy của Hoàng hậu.” Bỗng có một nữ tử
bước ra phía trước, cất giọng cao vang rành rọt: “Hoàng hậu nương nương nói rất
phải. Thân mẫu của Hoàng trưởng tử đã qua đời từ sớm, nếu không có nương nương
dạy bảo, Hoàng trưởng tử làm sao có thể trở thành một nhân tài xuất chúng như
ngày hôm nay, tấm lòng hiền từ của nương nương chính là tấm gương cho mọi nữ tử
trong thiên hạ.” Người này hóa ra là Dung hoa Triệu thị, nàng ta lớn hơn tôi ba
tuổi, chính là Vận Tần ngày trước. Tôi và nàng ta vốn chẳng qua lại với nhau
nhiều, những năm nay nàng ta tuy không đắc sủng lắm nhưng cũng chưa từng thất
sủng, có thể coi là khá có thâm niên trong cung.
Hồ Chiêu nghi ngoảnh đầu qua một bên vẻ
không tán đồng, Hoàng hậu chỉ coi như không nhìn thấy, nở nụ cười tươi. “Bản
cung chẳng qua chỉ dặn dò đôi câu như vậy thôi, các vị muội muội hà tất phải
đứng lên làm gì, mau ngồi xuống cả đi.”
Tôi cố đè nén lửa giận nơi đáy lòng, ôn tồn
nói: “Hoàng hậu là đích mẫu của tất cả các vị hoàng tử và công chúa trong cung,
còn bọn thần thiếp thì chỉ là thứ mẫu mà thôi.” Tôi chăm chú nhìn khuôn mặt
đoan trang, hiền từ của Hoàng hậu, chậm rãi nói: “Nếu ai ai cũng hiền thục như
Hoàng hậu thì thật là tốt quá!”
Trong mắt Hoàng hậu thấp thoáng một nét
cười lạnh lùng, ánh mắt nàng ta dừng lại trên người tôi tựa như mang theo một
làn sương lạnh, nhưng giọng nói cất lên thì lại tỏ ra thân thiết vô cùng: “Thục
phi là người đứng đầu trong các phi tần, vậy mà vẫn hiểu về tôn ti đích thứ,
chẳng trách lại được Hoàng thượng thương yêu như vậy.” Nàng ta hơi ngả người về
phía sau, chậm rãi nói: “Bản cung mệt rồi, các ngươi tạm lui đi. Thục phi và
Trinh Quý tần hãy ở lại thêm một lát, bản cung có mấy lời muốn dặn dò về vấn đề
nuôi con.”
Mọi người nghe thế đều im lặng không nói,
có mấy phi tần nông nổi, bộp chộp còn không kìm được lộ ra mấy tia ghen tị.
Khóe mắt tôi liếc thấy Mục Quý nhân đã vội vã cất bước ra ngoài điện, Nghiêm
Tài nhân và Ngưỡng Thuận nghi trong mắt đều có vẻ giận dữ khó giấu, rất nhanh
sau đó đã rảo bước theo sau Mục Quý nhân.
Bên ngoài ánh bình minh rạng rỡ, mấy khóm
hoa hồng trong sân đều biêng biếc xanh um, không hề nhuốm chút sắc thu nào. Lúc
này đã có mấy nụ hoa hồng nhỏ xinh chớm hé, trông thực là kiều diễm vô cùng.
Ngay gần đó còn có mấy bụi sơn trà hoa đã nở bung, mấy chục bông to bằng miệng
bát đua nhau khoe sắc, tỏa hương thơm lừng, khiến khung cảnh như có thêm mấy
phần náo nhiệt. Nhưng bên trong Chiêu Dương điện, bị những ô cửa sổ trổ hoa sơn
màu đỏ sậm ngăn cản, ánh dương dù có chiếu được vào cũng chỉ còn lại mấy tia lẻ
loi mờ mịt, cái gọi là đình viện thâm sâu chắc hẳn chính là như thế này đây.
Hoàng hậu khép hờ đôi mắt, dáng vẻ hết sức
bình thản, khoan thai, chừng như đã mơ màng sắp ngủ. Tôi im lặng chẳng nói gì,
nhưng lòng thì âm thầm cảnh giác, biết rõ rằng Hoàng hậu giữ tôi và Trinh Quý
tần lại nhất định là có mục đích của nàng ta.
Sau một hồi lâu trầm lặng, Hoàng hậu thấy
Trinh Quý tần có vẻ hơi lúng túng, bèn khẽ nở nụ cười. “Vốn muốn nói chuyện vài
câu, hiềm rằng ta thật sự đã già, người mỏi mệt quá, thành ra uổng công lưu hai
vị muội muội lại rồi.”
Trinh Quý tần chẳng hiểu ra sao, chỉ đành
đứng dậy, nói: “Nương nương nặng lời rồi.” Sau đó lại đưa mắt liếc tôi. “Vậy,
thần thiếp xin phép cáo từ.”
Tôi chỉnh lại xiêm y một chút, đứng dậy
hành lễ cáo lui, nhưng vừa đi được ba bước chợt nghe giọng nói hững hờ của
Hoàng hậu vang lên sau lưng. “Hôm qua may mà có Thục phi ở đó, ngẫm lại mới
thấy đúng là trùng hợp thật.”
Trinh Quý tần lập tức dừng chân ngoảnh đầu,
tôi không vui, nhưng vẫn quay đầu lại hỏi: “Hoàng hậu cớ sao lại nói vậy?”
Hoàng hậu khẽ vuốt ve chuỗi ngọc minh châu
đeo trên cổ tay, những viên ngọc trên đó viên nào viên nấy đều to như ngón tay
cái, tỏa ra ánh sáng màu hồng dìu dịu, lại càng làm nổi bật cổ tay gầy guộc như
củi khô của nàng ta. Trên mặt bôi một lớp son phấn rất dày, trông Hoàng hậu có
vẻ hết sức nặng nề, ngày xưa dù là đang trong cơn bệnh, nàng ta cũng vẫn luôn
trang điểm cẩn thận, không dám có chút sơ suất nào, sợ đánh mất tôn nghiêm của
Hoàng hậu. Thoáng trầm ngâm một lát, nàng ta chậm rãi nói: “Chẳng phải thế sao?
Khi phủ Nội vụ không cẩn thận đưa chiếc áo bị dính dịch độc đậu mùa tới cung
của Quý tần, Thục phi lại vừa khéo ở bên, còn vô tình phát hiện ra chỗ nguy
hiểm trên chiếc áo, qua đó đủ thấy Thục phi rất mực quan tâm tới Quý tần, bản
thân thì phúc trạch sâu dày, có thể mang tới vận may cho nhị Hoàng tử, giúp nhị
Hoàng tử hóa nguy thành an, sau này nhị Hoàng tử trưởng thành nhất định phải
cảm tạ Thục phi một phen mới được.” Sau đó lại khẽ ho hai tiếng, mỉm cười, nói
tiếp: “Có thể thấy Thục phi hiệp trợ quản lý hậu cung hết sức tận tâm, mà mọi
việc đều quý ở hai chữ “trùng hợp”.”
Nàng ta đặc biệt nhấn mạnh hai chữ “trùng
hợp” đó, tôi nghe mà thầm kinh sợ, vừa rồi ở trước mặt các phi tần, nàng ta như
vô tình như hữu ý nói tới việc tôi và Trinh Quý tần đều có con ruột là hoàng
tử, bên ngoài thì sớm đã có lời đồn đại về việc tranh giành ngôi báu, chắc hẳn ai
nghe thấy rồi cũng sẽ nghi ngờ rằng tôi ngấm ngầm ra tay. Bây giờ ở trước mặt
Trinh Quý tần, nàng ta lại cố tình nhắc đến hai chữ “trùng hợp”, rõ ràng là có
ý nói tôi cố tình làm bộ làm tịch để lôi kéo nàng ta.
Trinh Quý tần hơi cau mày, nhưng ngay sau đó
đã cụp mắt xuống, chỉ nhìn nền gạch dưới chân không nói năng gì.
Tôi đang định đáp lại, chợt thấy vẻ mặt của
Trinh Quý tần, thế là đành hít vào một hơi thật sâu cố gắng kìm nén, nói:
“Hoàng hậu nương nương tâm tư tinh tế, thấu hiểu rõ ràng mọi việc trong cung,
thần thiếp quả thực không thể nào so sánh được.”
Hoàng hậu phất tay áo đứng dậy, cố làm ra
vẻ chân thành nói: “Trinh Quý tần, nhớ trông nom con mình cho cẩn thận.” Dứt
lời lại quay sang nhìn tôi. “Thục phi cũng thế.”
Trinh Quý tần khom người thật sâu hành lễ,
cất giọng kính cẩn: “Đa tạ Hoàng hậu quan tâm.”
Hoàng hậu khẽ gật đầu, bám vào tay Tiễn Thu
chậm rãi trở vào hậu điện. Dưới làn ánh sáng lờ mờ, bóng dáng gầy guộc của
Hoàng hậu thoáng ẩn thoáng hiện phía sau cây cột vàng cao lớn khắc hình rồng cuộn
gần như có chút dữ dằn, trông nàng ta cứ như một con hung thú mang theo sát khí
đã sẵn sàng chuẩn bị, tất thảy đều được giấu sau bộ dạng cao quý, ung dung.
Tôi để Cận Tịch dìu đỡ, chậm rãi cất bước
ra ngoài, khi đi tới Thượng Lâm uyển thì chợt phát hiện có mấy khóm Văn tâm lan
đang nở hoa rực rỡ, những chiếc lá thon dài, mảnh khảnh lả lướt vươn mình, cành
hoa xanh biếc màu ngọc, và mỗi bông hoa thì đều giống như một chú bướm vàng
đang bay liệng, đáng yêu vô cùng.
Hoán Bích cười, nói: “Trời vừa vào thu liền
chẳng còn con bướm nào, nhưng hoa này nở cứ như là bướm vậy, thật đẹp quá!”
Cận Tịch cũng góp vui: “Quả đúng thế, hoa
này vốn phải mọc ở nơi nóng ẩm thì mới nở được đẹp, bây giờ lại có thể um tùm
xanh biếc thế này, đủ thấy hoa tượng[33] đã phải bỏ ra không ít tâm
tư.”
[33]
Hoa tượng: thợ trồng hoa.
Tôi cười nói: “Ngươi hãy đi nói với sư phụ
của Hoa phòng, bảo y đưa mấy chậu thật đẹp tới cho Thẩm Thục viện ngắm, lại đưa
thêm mấy chậu nữa tới Nhu Nghi điện. Mà thôi, ngươi tìm y tới đây cho ta, để ta
ban thưởng và dặn dò luôn thể.”
Cận Tịch lập tức đi tìm, một hồi lâu sau
mới dẫn theo người của Hoa phòng tới tạ ơn. Hoán Bích có chút không vui, trầm
giọng nói: “Kêu Hà sư phụ tới đây lĩnh thưởng, cớ sao lại giống như là đi nhận
hình phạt vậy? Mãi bây giờ mới tới.”
Hà sư phụ vội cười trừ, nói: “Không phải nô
tài cố tình chậm trễ, mà quả thực là có điều bất đắc dĩ.” Y sợ tôi trách tội,
vội vàng nói tiếp: “Vinh Tuyển thị rất thích hoa thược dược, bây giờ lại không
đúng mùa hoa, nên tiểu chủ cứ một ngày ba bận cho người đến thúc giục bọn nô
tài phải mau mau trồng hoa trong phòng ấm rồi đưa tới, sau đó lại chê là trong
đó có mấy chậu không đẹp, mắng cho bọn nô tài một trận, còn kêu người đi vứt
chúng tới chỗ mộ của Thuận Tuyển thị nơi bãi tha ma.” Y không giấu được vẻ kinh
ngạc. “Chẳng rõ Vinh Tuyển thị bị làm sao nữa, mấy chậu thược dược mà Tuyển thị
chê đó nô tài phải bỏ biết bao công sức mới trồng ra được, chậu nào chậu nấy
đều thuộc vào hàng thượng phẩm, thế mà lại bị vứt đến bãi tha ma, đúng là đáng
tiếc! Đáng tiếc!” Nói rồi liền giậm chân bình bịch, lộ vẻ buồn bực vô cùng.
Tôi nhất thời có chút ngơ ngẩn. “Thuận
Tuyển thị?”
Cận Tịch nhíu chặt đôi mày, thấp giọng nói:
“Là Hoa Phi.”
Trái tim tôi như bị một lưỡi dao rất mảnh
cứa vào, tự nơi đáy lòng trào lên muôn vàn nỗi đau đớn. Mộ Dung Thế Lan! Nữ tử
xinh đẹp và tàn nhẫn đó hình như cũng từng rất yêu hoa thược dược.
Hoán Bích đứng kế bên thấy tôi trầm tư
không nói năng gì, vội quát lớn: “Ăn nói bừa bãi cái gì thế, gì mà Thuận Tuyển
thị với không Thuận Tuyển thị, thật chẳng lành chút nào!” Kế đến lại nói: “Còn
không mau chọn mấy chậu Văn tâm lan thật đẹp đưa tới Đường Lê cung và Nhu Nghi
điện.”
Hà sư phụ vội vàng vâng lời rời đi, tôi
trầm ngâm nói: “Bây giờ nghĩ lại, cái tính kiêu căng, ngang ngược của Vinh
Tuyển thị quả đúng là rất giống với người đó.”
Cận Tịch khẽ nói: “Nô tỳ từng xem những ghi
chép về cô ta, thấy bên trên chỉ viết cô ta mấy năm trước từng làm việc ở Hoán
Y cục, về sau được điều tới Lăng Ba điện quản việc nhang đèn, hai năm trước mới
tới bên Trinh Quý tần, lại vì thông minh, lanh lợi và biết chút chữ nghĩa mà
được Trinh Quý tần coi trọng, giữ lại bên người làm thị tỳ hầu cận.” “Vậy trước
khi vào Hoán Y cục thì sao?”
Cận Tịch nói: “Việc này thì nô tỳ không
rõ.” Tôi đưa mắt liếc Hoán Bích, Hoán Bích hiểu ý, liền nói: “Nô tỳ sẽ đi nghe
ngóng thử xem.”
Trong lúc cất tiếng, muội ấy hơi nghiêng
đầu một chút, bông đỗ quyên cài trên búi tóc bị rụng mất một cánh hoa. Tôi đưa
tay hái lấy một bông Văn tâm lan, nhẹ nhàng cài lên búi tóc đen nhánh của Hoán
Bích, mỉm cười khẽ nói: “Hoa đỗ quyên tuy rất đẹp, nhưng muội thử cài những
loại hoa khác nữa xem, như vậy sẽ mới mẻ hơn.”
Hoán Bích thoáng lộ vẻ ngượng ngùng, ngay
sau đó liền cười, nói: “Từ hôm qua tới giờ nô tỳ còn chưa gội đầu, chỉ sợ sẽ
làm hỏng mùi của bông Văn tâm lan này mất.” Dừng một chút muội ấy lại tiếp:
“Huống chi đây là hoa tiểu thư tặng, cài ở ngực sẽ trịnh trọng hơn.” Dứt lời
liền gỡ chiếc kim băng trên vạt áo trước ngực xuống, xỏ bông Văn tâm lan qua đó
rồi cài lại vào chỗ cũ.
Lòng tôi bất giác dâng lên mấy niềm cảm
khái, còn sinh ra mấy nỗi thê lương, tôi và Hoán Bích kỳ thực đều là những con
người bất hạnh. Một hồi lâu sau tôi mới cười một tiếng, khẽ thở dài than: “Đều
là người si dại cả thôi.”
Bỗng sau lưng tôi vang lên một âm thanh dịu
dàng, uyển chuyển: “Cớ sao nương nươnglại nói vậy? Chắc vì gió thu xao xuyến,
trong lòng nương nương cũng sinh ra mấy nỗi thu buồn.”
Tôi xoay người lại, mỉm cười, nói: “Bản
cung không biết tham thiền, chẳng qua vì nhìn thấy hoa lá rơi rụng, cảnh vật
đìu hiu nên bỗng dưng cảm thấy hồng trần như mộng, trên đời này toàn là những
con người si dại mà thôi.”
Trinh Quý tần cũng khẽ nở nụ cười. “Người
si dại tuy rằng si dại, thế nhưng cứ mãi đắm say giữa chốn hồng trần không bao
giờ tỉnh lại cũng có những thú vui riêng. Đau khổ nhất trên đời không ai khác
ngoài những con người thoát ly thế tục, ấm lạnh chỉ mình mình hay.”
Cầm một bông Văn tâm lan mỏng manh trong
tay, tôi trầm ngâm nói: “Cứ như vậy kỳ thực cũng tốt, bởi chốn hồng trần thị
phi quá nhiều, đâu đâu cũng có những sự mê hoặc, khiến người ta khó lòng phân
biệt thật giả.”
Trinh Quý tần vai mảnh eo thon, thật giống
như một bông thủy tiên thanh nhã, khi bước tới gần liền có một làn hương thơm
thoang thoảng bay lại khiến người ta cảm thấy thư thái. “Nương nương nói rất
phải, chỉ là nhiều lúc thật giống như giả mà giả lại như thật, thần thiếp chẳng
thể nào phân biệt được rạch ròi.”
Tôi nhìn nàng ta chăm chú. “Ta với muội
muội tuy giao tình không sâu, thế nhưng cái lòng cảm mến của ta không phải là
giả.”
Trinh Quý tần chậm rãi ngẩng lên, ánh mắt
nhìn về phía tôi lộ ra mấy tia mơ màng. “Yến Nghi rất cảm kích tấm lòng cảm mến
của nương nương, thế nhưng có một chuyện đến bây giờ muội hãy còn chưa rõ.”
“Muội muội cứ nói.”
“Nương nương hẳn phải yêu Hoàng thượng vô
cùng, do đó mới bất chấp thân phận phế phi mà trở lại chốn hậu cung. Nhưng
nương nương đã yêu Hoàng thượng như thế, tại sao lại có thể chấp nhận tình cảm
của Yến Nghi với Hoàng thượng?” Dừng một chút nàng ta mới tiếp: “Chỉ bởi vì Yến
Nghi không mấy đắc sủng sao?”
Trong khoảnh khắc lặng im, vô số chuyện xưa
đồng loạt dâng lên trong đầu tôi như dòng nước lũ, những mảnh ký ức rời rạc dần
ghép lại thành một bức tranh yêu kiều tha thướt giữa chốn thâm cung, thực cũng
khiến tôi sinh ra mấy tia cảm khái. Đến cuối cùng, tôi cất giọng lạnh lùng tựa
như dòng nước dưới đáy đầm sâu. “Tình ý của muội muội với Hoàng thượng rất
giống ta thuở trước.”
Nàng ta hơi trầm ngâm, chợt khẽ mỉm cười.
“Thuở trước? Vậy bây giờ thì sao? Chẳng lẽ nương nương trở lại Tử Áo Thành
không chỉ là vì Hoàng thượng?”
Mấy lọn tóc rối buông lơi bị gió thổi cọ
vào cổ tôi mang tới cảm giác hơi ngứa ngáy, tôi cất giọng hững hờ: “Bản cung
giờ không phải là nữ tử chỉ có lòng ái mộ với đấng quân vương như trước, mà còn
là mẹ của ba đứa bé nữa.”
Nàng ta thoáng lộ vẻ trầm tư, trong cặp mắt
trong veo in bóng những chiếc lá phong màu đỏ. “Hoàng hậu nói, các phi tần đã
sinh con đẻ cái đều sẽ có một chút tư tâm của người làm mẹ.”
“Hoàng hậu chỉ nói đúng một nửa thôi.” Tôi
đứng lặng im giữa gió, tay áo rộng lất phất tung bay. “Người làm mẹ ai cũng
muốn bảo vệ con cái của mình, do đó mà có tư tâm, nhưng như thế không hề đáng
sợ. Điều đáng sợ là ở cái dục vọng vô biên vô tận của con người, càng muốn bù
đắp thì lại càng gặp nhiều ma chướng.”
“Vậy nương nương có điều mong cầu gì không?”
Mặt hồ Thái Dịch rung rinh gợn sóng, những
gốc lau sậy nhè nhẹ đung đưa, bầu không khí ngợp một vẻ thanh tân khiến người
ta bất giác thư thái tinh thần. Tôi chăm chú nhìn nàng ta, cất giọng bình thản:
“Có. Một hơi thở, một tính mạng, một đời bình an.”
Nụ cười của nàng ta thấp thoáng một tia xa
cách. “Muốn được vậy không hề khó.”
“Càng đơn giản lại càng khó cầu, may mà còn
chưa đến mức trở thành tâm ma.”
Nàng ta không bày tỏ thái độ gì, nụ cười
lại càng thêm xa cách, dần ngưng tụ thành một đường cong cứng đờ bên khóe
miệng. Trên mặt nàng ta lộ ra một tia đỏ bừng kỳ lạ, lồng ngực phập phồng liên
tục, rồi kính cẩn cáo từ rời đi.
Chỉ mấy ngày sau, Ngọc Chiếu cung truyền
tới tin tức, Trinh Quý tần bị trúng gió độc, thêm vào đó sau khi sinh nở vốn
điều dưỡng không tốt, do đó đổ bệnh không thể trở dậy khỏi giường. Cơn bệnh ấy
kéo dài mãi không khỏi, nàng ta chẳng có sức mà chăm sóc Dư Bái, thế là trong
một ngày thì có quá nửa thời gian phải gửi thằng bé tới chỗ My Trang rồi nhờ
Đoan Phi và Phúc Tần cùng chăm sóc hộ.