Trong
trướng cửu hoa đã giật mình[13]
[13]
Trích Trường hận ca của Bạch Cư Dị. Dịch thơ: Phương Sơn. Nguyên văn Hán Việt:
Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh - ND.
Khi tôi chậm rãi bước vào nơi bày tiệc là
Thủy Vân Gia Ấm đường thì Huyền Lăng đã ở đó rồi. Trang Mẫn Phu nhân đưa quạt
lên che một nửa khuôn mặt, cất giọng hờ hững nói: “Thục phi quả nhiên vẫn là
tôn quý nhất, trong bữa tiệc hôm nay mà cũng tới sau cùng.”
Tôi chỉ khẽ cười một tiếng theo phép lịch
sự, sau đó không để ý đến nàng ta mà chỉ quay sang hành lễ với Huyền Lăng:
“Thần thiếp biết là bữa tiệc hôm nay quan trọng nên không dám sơ sài, bằng
không thì thực là làm mất thể diện của hoàng tộc.”
Huyền Lăng chăm chú nhìn tôi một lát rồi
gật đầu cười, nói: “Tốt lắm. Thực ra dù nàng để mặt mộc tới đây thì cũng chẳng
thất lễ đâu, có điều hôm nay trang điểm như vậy trông lại càng đoan trang, cao
quý hơn nhiều.” Hơi trầm giọng xuống, y nắm lấy bàn tay tôi. “Trước mặt người
Hách Hách quyết không thể làm mất sự uy nghi của thiên triều ta được.” Tôi khẽ
cười nền nã, cất giọng vui vẻ nói: “Có thiên uy của Hoàng thượng ở đây, người
Hách Hách ắt chẳng dám càn rỡ.”
Trinh Phi nở một nụ cười dịu dàng tựa như
hạt mưa tháng Ba đậu trên chóp lá, thành khẩn nói: “Có Hoàng thượng ở đây, mọi
việc tất nhiên sẽ đều thuận lợi.”
Huyền Lăng khẽ mỉm cười, có điều còn chưa
kịp trả lời thì Trang Mẫn Phu nhân đã bước lên phía trước, đưa tay chỉnh lại
vạt áo cho y, lại liếc mắt qua phía Trinh Phi. “Có Hoàng thượng ở đây, mọi việc
thuận lợi là lẽ đương nhiên, lời này của Trinh Phi thật thừa thãi quá, cứ như
là hiện tại đang có việc gì không thuận lợi vậy.”
Trinh Phi thoáng có chút sượng sùng, đang
định biện bạch thì Trang Mẫn Phu nhân đã cười khanh khách rồi ngẩng lên nhìn
Huyền Lăng. “Biểu ca hôm nay thật có khí thế quá, khiến Dung Nhi bỗng nhớ lại
dáng vẻ uy chấn tứ hải của biểu ca khi tiếp kiến ngoại thần tứ di năm xưa. Khi đó
sứ thần Hách Hách quỳ mọp dưới đất như phải đối mặt với người trời, Dung Nhi
tới bây giờ vẫn nhớ rõ bộ dạng run rẩy sợ hãi của hắn.” Nàng ta lộ rõ vẻ ngạo
nghễ. “Lũ người man di Hách Hách đúng là vô tri, biểu ca hôm nay nhất định phải
cho bọn chúng biết thế nào là lễ độ đấy nhé!”
Huyền Lăng nghe thế thì rất vui vẻ, quên
bẵng cả việc an ủi Trinh Phi, mỉm cười cầm tay Hồ Uẩn Dung, nói: “Trẫm nhớ là
năm đó nàng mới có tám, chín tuổi thôi...”
Hồ Uẩn Dung nở nụ cười rạng rỡ, hai bờ má
thoáng ửng hồng. “Dung Nhi khi đó tuy còn ít tuổi nhưng đã vô cùng ngưỡng mộ
khí khái phi phàm của Hoàng thượng rồi.”
Trinh Phi đưa mắt nhìn bóng lưng Huyền
Lăng, bất giác lộ vẻ buồn bã. Tôi vội nháy mắt ra hiệu cho Kết Ngạnh đứng sau
lưng nàng ta. Kết Ngạnh lập tức hiểu ý, khẽ đẩy khuỷu tay Trinh Phi một cái.
Trinh Phi tới lúc này mới tỉnh táo trở lại, vội vàng che giấu thần sắc của
mình. Đức phi nhìn không vừa mắt, ghé tới bên tai tôi khẽ nói: “Nàng ta càng
ngày càng kiêu ngạo, ngày sau nếu trở thành hoàng hậu thì còn ghê gớm đến thế
nào nữa đây?” Dứt lời liền nhìn qua phía Đoan Quý phi, trong mắt thấp thoáng vẻ
âu lo. Từ sau chuyện Hoàng hậu Đức phi liền hết sức khâm phục khí độ của Đoan
Quý phi, lúc này thấy Hồ Uẩn Dung cao ngạo thì liền muốn dò hỏi xem Đoan Quý
phi có ý thế nào. Đoan Quý phi làm như không nhìn thấy, bên khóe môi thấp
thoáng một nụ cười như có như không.
Một lát sau, các nhũ mẫu dẫn theo các vị
hoàng tử và công chúa đi vào trong điện, đưa chúng tới ngồi bên cạnh mẫu phi
của mình. Trinh Phi nhìn thấy Dư Bái thì sắc mặt mới hơi dãn ra, thoáng lộ vẻ
mừng vui. Tôi nhìn Hồ Uẩn Dung đang tươi cười rạng rỡ bên cạnh Huyền Lăng, rồi
lại nhìn Trinh Phi đượm vẻ thê lương, bất giác sinh lòng trắc ẩn. Đoan Quý phi
khẽ lắc đầu, lấy cớ là thân thể không khỏe mà xin phép cáo từ rời đi.
Huyền Lăng thương nàng ta thường ngày nhiều
bệnh nên cũng không níu giữ, nói: “Có Thục phi ở đây là được rồi.” Sau đó liền
để Ôn Nghi đưa nàng ta về cung.
Hồ Uẩn Dung vốn đứng bên cạnh Huyền Lăng
trò chuyện, lúc này thấy Đoan Quý phi đứng dậy thì cười, nói: “Biểu ca cứ nghe
muội nói chuyện thế thôi, chẳng chịu quan tâm xem muội có mệt không gì cả.”
Kể từ khi Hoàng hậu bị cấm túc, bên cạnh
Huyền Lăng không còn bày bảo tọa hoàng hậu nữa, người có địa vị tôn quý nhất
trong cung là Đoan Quý phi, mỗi lần mở tiệc, ghế quý phi đều được bày ở hàng
đầu phía đông ngự tọa, còn ghế thục phi thì bày ở phía tây. Lúc này Đoan Quý
phi còn chưa bước chân ra ngoài điện, thế mà Hồ Uẩn Dung đã thản nhiên ngồi vào
ghế quý phi như đang ở chốn không người, tức thì tất thảy mọi người đều biến
sắc mặt, có điều không ai dám ho he lời nào.
Khi Đoan Quý phi đi tới trước cửa điện thì
vừa khéo Ôn Nghi Công chúa nghe thấy động tĩnh mà quay đầu lại, thấy thế thì
biến hẳn sắc mặt. Ôn Nghi là vị công chúa có tính tình ôn hòa nhất, xưa nay lại
được Quý phi dạy dỗ cẩn thận, do đó hết sức nền nã, tuy tuổi mới chỉ mười mấy
nhưng mừng giận đã không tùy tiện để lộ ra ngoài mặt rồi. Thế nhưng lúc này
nhìn thấy Hồ Uẩn Dung ngang ngược như vậy, cô bé không kìm được nôn nóng, nói:
“Trang Mẫn Phu nhân, đó là ghế của mẫu phi ta.”
Ôn Nghi chắc hẳn vì quá yêu quý Đoan Quý
phi nên không thích Hồ Uẩn Dung, trong cơn nôn nóng thậm chí đến hai chữ “mẫu
phi” cũng không gọi mà gọi thẳng phong hiệu của nàng ta. Sau tiếng gọi ấy, cả
Hân Phi cũng không kìm nén được, buột miệng nói: “Phu nhân chỉ thuộc hàng tòng
nhất phẩm, không nên ngồi vào ghế quý phi chính nhất phẩm kẻo làm loạn tôn ti.”
Hồ Uẩn Dung không để ý tới những lời bàn
luận của mọi người phía dưới, chỉ nghiêng đầu nhìn Huyền Lăng rồi nở một nụ
cười rất mực ngây thơ. “Biểu ca, muội đứng mãi nên mệt quá rồi, nếu ngồi ở xa
thì e là không thể nói chuyện với biểu ca được.”
Lời của nàng ta hết sức dịu dàng, thân mật
khiến người ta khó mà từ chối. Huyền Lăng nhất thời có chút trù trừ, bèn nhìn
theo bóng lưng Đoan Quý phi tỏ vẻ dò hỏi. Mọi người tức thì đều yên lặng dõi
mắt về phía Đoan Quý phi, chờ xem nàng ta phản ứng thế nào về mối nhục bị chiếm
mất chỗ ngồi. Người thẳng thắn như Hân Phi thậm chí đã lộ vẻ chờ mong, hy vọng
Đoan Quý phi sẽ dùng thân phận tôn quý nhất hậu cung mà dạy cho Hồ Uẩn Dung vốn
ngày càng kiêu ngạo một bài học.
Đoan Quý phi chậm rãi xoay người lại, chỉ
lạnh lùng đưa mắt nhìn qua phía Hồ Uẩn Dung một chút, sau đó liền làm ra vẻ
việc không liên quan tới mình, chỉ cầm tay Ôn Nghi, ôn tồn nói: “Lương Ngọc,
theo mẫu phi về cung thôi.” Ôn Nghi dù sao cũng còn nhỏ, tuy đã ngoan ngoãn
vâng lời nhưng giữa đôi hàng lông mày vẫn lộ rõ vẻ phiền muộn. Đoan Quý phi
ngoảnh đầu qua nhìn thấy, bèn cất giọng càng dịu dàng hơn: “Lương Ngọc, phàm
việc gì cũng chớ nên nôn nóng, như vậy mới giữ được chừng mực. Hôm nay con ăn
nói bộp chộp quá, mẫu phi phạt con dùng lửa nhỏ đun thuốc trong vòng ba canh
giờ, lấy đó xua đi sự xốc nổi trong con.”
Ôn Nghi suy nghĩ một lát, sau đó đỏ mặt khẽ
đáp “vâng” một tiếng. Hai mẹ con họ vừa trò chuyện vừa chậm rãi bước đi, chẳng
bao lâu sau đã không còn bóng dáng.
Trong điện lúc này vô cùng tĩnh lặng, một
số phi tần sau một hồi nghiền ngẫm những lời nói và cử chỉ của Đoan Quý phi
liền không kìm được lộ ra vẻ kính sợ với Hồ Uẩn Dung, lại càng không dám nói
nhiều. Tôi thì suy nghĩ về mấy lời đó của Đoan Quý phi, lập tức hiểu rõ nguồn
cơn. Có lẽ vì lúc này trời quá nóng, Hồ Uẩn Dung mặt mũi đều đã đỏ bừng, trề
môi ra nói với Huyền Lăng đang nhìn chằm chằm vào nàng ta. “Biểu ca xem đó, Quý
phi cũng đâu có nói gì đâu.”
Phía bên dưới, Huyền Thanh chợt bật cười
khúc khích, vừa phe phẩy chiếc quạt xếp trong tay vừa chậm rãi nói: “Lời này
của Phu nhân làm Thanh bỗng nhớ tới câu chuyện “bịt tai trộm chuông” mà Ngọc Ẩn
dùng để dạy con hôm qua, chẳng biết Phu nhân có từng nghe nói tới câu chuyện
này chưa?”
Hồ Uẩn Dung hơi cau mày lại, thoáng lộ ra
vẻ giận dữ, khó khăn lắm mới kìm nén được, bèn ngoảnh đầu qua một bên không
thèm để ý tới y. Ngọc Ẩn ngồi kế bên che miệng cười, nói: “Vương gia nói đùa
rồi, Phu nhân học rộng, có lý nào mà lại thua một đứa trẻ con chứ!”
Huyền Thanh khẽ lắc đầu, nói: “Quý phi tính
tình đoan trang nền nã, trong cung không có ai là không kính phục, chắc hẳn Phu
nhân cũng thế cho nên mới thích đồ của Quý phi như vậy.” Rồi y ra vẻ như nói
đùa với Huyền Lăng: “Thần đệ nghĩ hoàng huynh có thể để Phi Hương điện và Yến
Hy điện đổi chủ một phen, được vậy Phu nhân hẳn sẽ thỏa lòng thỏa ý.”
Đoan Quý phi vốn không thích xa hoa, thành
ra Phi Hương điện bấy lâu nay vẫn giản dị vô cùng, còn Hồ Uẩn Dung thì ỷ rằng
mình được sủng ái nên thứ gì ở Yến Hy điện cũng quý báu tột bậc. Hồ Uẩn Dung
nghe thế liền không kìm được cười lạnh, nói: “Lục biểu ca chịu suy nghĩ cho
muội như thế thực là hiếm có, bằng không muội lại cứ nghĩ là không phải người
cùng tộc thì tâm tính ắt sẽ khác biệt.” Rồi nàng ta nhướng mày lên, giọng nói
lại càng cay nghiệt: “Càng hiếm có hơn là bao năm nay lục biểu ca vẫn luôn dốc
lòng khổ học, chứ một nơi khỉ ho cò gáy như Bãi Di thì chắc chẳng dạy cho lục
biểu ca biết câu chuyện bịt tai trộm chuông được đâu.” Nghe thấy mấy lời này,
Huyền Thanh vẫn chỉ mỉm cười bình thản, nhưng Ngọc Ẩn thì đã tái nhợt mặt mày.
Huyền Lăng khẽ nở nụ cười mỉm, quay sang nhìn Hồ Uẩn Dung, nói bằng giọng như
trách trẻ con: “Ngồi thì cứ ngồi đi, còn chưa uống rượu mà đã nói linh tinh
rồi.” Sau đó lại quay sang cười nói với Huyền Thanh: “Đệ biết đấy, Uẩn Dung bấy
lâu nay được Tấn Khang Quận chúa chiều quá thành hư mất rồi, đệ đừng tính toán
với nàng ấy.”
Huyền Thanh cười nhạt, nói: “Quý phi nương
nương bụng dạ rộng rãi, Thanh đương nhiên phải học theo rồi, sao có thể tính
toán gì với Phu nhân được.”
Huyền Lăng khẽ gật đầu. Lý Trường đứng kế
bên khẽ nói: “Hoàng thượng, Ma Cách Khả hãn đã chờ ngoài điện rồi...”
Huyền Lăng nghiêm túc nói: “Tuyên hắn vào
đi.”
Lý Trường vội vàng đi tới trước cửa điện,
lớn tiếng nói: “Tuyên Ma Cách Khả hãn vào tấn kiến...”
Lời còn chưa dứt thì những tiếng ủng da
“lộp cộp” nện xuống đất đã không ngớt vang lên. Huyền Lăng thoáng lộ vẻ không
vui, Hồ Uẩn Dung thì cau mày lại, nói: “Không có ai dạy hắn những lễ tiết khi
diện thánh ư? Đi lại lớn tiếng thế này lẽ nào không sợ làm kinh động tới thánh
giá?”
Tôi thầm kinh ngạc, tại nơi cung cấm mà
cũng dám vô lễ thế này, Ma Cách Khả hãn rốt cuộc là một nhân vật như thế nào?
Đang lúc tôi thầm kinh ngạc thì một nam tử
to lớn vạm vỡ đã ngẩng cao đầu, rảo bước đi vào. Y vận một bộ vương phục màu đỏ
sậm của người Hách Hách, khuôn mặt đằng sau bộ râu quai nón trông cực kỳ góc
cạnh, cặp mày kiếm nhướng cao, đôi mắt thì đen láy sâu thẳm như không thấy đáy,
toàn thân chẳng khác nào một thanh kiếm sắc tỏa ra những tia sáng lạnh băng.
Tôi không kìm được thầm hít vào một hơi khí
lạnh, cảm thấy luồng khí lạnh đó không ngừng cào xé lục phủ ngũ tạng của mình,
làm tôi như rơi xuống hầm băng.
Tôi đến chết cũng không thể nào quên được,
cho dù có thêm bộ râu quai nón nhưng khuôn mặt của Ma Cách hoàn toàn giống với
nam tử mà tôi từng gặp trên Huy Sơn năm xưa, chẳng có chút nào khác biệt.
Sự chấn động trong lòng lúc này thực không
lời nào tả nổi, tôi vội vàng che giấu thần sắc của mình, ánh mắt thì không kìm
được nhìn qua phía Huyền Thanh. Thế rồi tôi bắt gặp ánh mắt đầy vẻ quan tâm của
y, và y khẽ gật đầu một cái, đưa tay nắm lấy bàn tay Ngọc Ẩn rồi đặt lên mặt
bàn.
Ngọc Ẩn lập tức hiểu ý, khẽ mỉm cười ra
hiệu với tôi. Tôi suy nghĩ một chút rồi thần sắc trở lại như thường, thản nhiên
ngồi đó.
Ma Cách rảo bước đi vào trong điện, hai mắt
nhìn chằm chặp vào Huyền Lăng, chẳng buồn để ý tới ai khác, lại càng chẳng có
chút vẻ nhún nhường. Một vị sứ giả Hách Hách đứng cạnh y khom người, nói: “Khả
hãn nước ta xin có lời chào gửi tới Hoàng đế Đại Chu.”
Ma Cách khẽ cười một tiếng, không quỳ xuống
mà cũng chẳng nhún người, chỉ ôm quyền cung tay coi như hành lễ.
Dù Huyền Lăng có lòng nhẫn nại nhưng thấy
Ma Cách như vậy thì cũng không kìm được hơi biến sắc mặt. Hồ Uẩn Dung xưa nay
vốn tâm cao khí ngạo, làm sao cho phép Ma Cách vô lễ với Huyền Lăng như thế,
lập tức đứng dậy, bừng bừng giận dữ nói: “Hách Hách đã tới đây tấn kiến, cớ gì
lại không hành lễ diện kiến thánh thượng theo quy củ của Đại Chu, đã thế còn
không nói lời thỉnh an, thực là to gan!”
Hồ Uẩn Dung hôm nay vận một bộ lễ phục màu
đỏ sậm, tuy đang tức giận nhưng do trên người treo đầy đồ trang sức vàng ngọc
nên trông lại càng diễm lệ, quý phái. Ma Cách chẳng hề giận dữ, chỉ nở một nụ
cười giễu cợt rồi dùng tiếng Hách Hách nói mấy câu gì đó với Hồ Uẩn Dung.
Các phi tần ngồi đây không ai hiểu tiếng
Hách Hách, không kìm được ngơ ngác nhìn nhau. Hồ Uẩn Dung cũng không biết Ma
Cách nói gì, có điều thấy hắn tỏ ra giễu cợt thì cũng biết không phải là lời
hay ho gì cả, trong cơn lúng túng lại càng giận dữ.
Sứ giả Hách Hách nở một nụ cười xấu xa, sau
đó liền cung tay, dùng tiếng Hán nói: “Nương nương chớ nên tức giận. Vừa rồi
nương nương trách Khả hãn tệ quốc không bái kiến bằng lễ số Trung Nguyên, cũng
không nói lời chào hỏi, kỳ thực Khả hãn tệ quốc lo Hoàng đế Đại Chu không hiểu
tiếng Hách Hách, do đó mới dùng hành động ôm quyền để bái kiến.” Hơi dừng một
chút, gã nhếch khóe môi để lộ vẻ giễu cợt. “Từ lâu đã nghe nói Thục phi nương
nương nắm quyền quản lý hậu cung, vì thông minh sáng suốt mà được Hoàng đế Đại
Chu sủng ái, hóa ra lại không hiểu đạo lý này như vậy.”
Đức phi nghe thấy thế liền lén che miệng
cười, biết rằng sứ giả Hách Hách thấy Hồ Uẩn Dung ăn vận xa hoa, lại ngồi ở vị
trí tôn quý nhất bên cạnh Huyền Lăng nên cho rằng nàng ta là Thục phi. Hồ Uẩn
Dung muốn phản bác nhưng lại thấy như thế có phần không ổn, đành giận dữ ngồi
xuống, chẳng nói năng gì.
Ma Cách đại khái có thể nghe hiểu tiếng
Hán, thấy sứ giả gọi Hồ Uẩn Dung là Thục phi thì đôi hàng lông mày hơi máy
động, khẽ lắc đầu, đưa mắt nhìn khắp xung quanh một lượt. Lát sau, tròng mắt y
bất giác hơi co lại vẻ khó tin, sau một hồi trầm tư suy nghĩ lại cẩn thận ngó
qua khuôn mặt tôi mấy bận, cuối cùng thì khóe môi hơi nhếch lên, đưa tay đặt
lên thanh chủy thủ đeo bên hông. Cặp mắt y lóe lên ánh tinh quang, ngay sau đó
đã trở lại như thường, chỉ khẽ mỉm cười nhìn Huyền Lăng. Lúc này quan phiên
dịch tuy đang ở bên nhưng lại rất sợ phải chứng thực cái tiếng vô lễ của Hồ Uẩn
Dung, thành ra không dám dịch lại những lời của Ma Cách cho mọi người nghe.
Huyền Lăng đưa tay nắm lấy tay tôi, hờ hững
cất tiếng dặn dò Hồ Uẩn Dung: “Nàng không cần ở cạnh trẫm nữa, quay về chỗ của
mình đi.”
Hồ Uẩn Dung cắn chặt môi quay trở về chỗ
của mình, lại ôm Hòa Mục vào lòng mà hậm hực ngồi im.
Tôi hiểu tâm ý của Huyền Lăng, bèn đứng dậy
bưng một chén rượu nho, chậm rãi đi tới trước mặt Ma Cách. Hắn cho rằng tôi đi
tới kính rượu, bèn cười khẩy một tiếng, định đưa tay ra đón lấy. Tôi đột ngột
rụt tay về, chậm rãi rưới chén rượu xuống khoảng đất trống trước mặt Ma Cách,
đoạn mỉm cười hướng đáy chén rượu đã trống không về phía y cho y xem, sau đó
mới lùi về phía sau hai bước.
Ma Cách hơi nheo mắt lại, trong mắt ánh lên
một tia lạnh băng, lạnh lùng nói bằng tiếng Hán: “Người Hán chỉ khi tế người
chết mới rưới rượu xuống đất, ngươi rủa bản hãn đó ư?”
Tôi mỉm cười, chậm rãi nói: “Không ngờ Khả
hãn lại nói tiếng Hán giỏi như vậy, thật khiến người ta khâm phục!” Tôi để ý
thấy hắn chưa tan cơn giận, còn lạnh lùng đưa mắt liếc qua phía Huyền Thanh,
trong lòng không khỏi thầm kinh sợ, nhưng bề ngoài vẫn cười nói như thường.
“Khả hãn hiểu lầm rồi, bản cung đâu có rủa gì Khả hãn, chỉ đang đón tiếp Khả
hãn bằng lễ quý khách đấy thôi.” Tôi đích thân rót đầy một chén rượu nho nữa,
sau đó mới cất giọng nền nã nói tiếp: “Khả hãn là khách quý của thiên triều,
lại lần đầu tiên vào triều tấn kiến thiên tử Đại Chu ta, Đại Chu trên tới Hoàng
thượng, dưới tới lê dân, không có ai là không vui mừng nghênh đón. Vậy nên chén
rượu đầu tiên kia ta mới dùng để cảm tạ hoàng thiên hậu thổ vì đã đưa khách quý
tới đây.”
Hắn khẽ “hừ” một tiếng, lạnh lùng đưa mắt
nhìn lướt qua khuôn mặt tôi, từ trong giọng nói khó mà nghe ra được là hắn đang
mừng hay giận: “Lời này có phần khiên cưỡng quá.”
Tôi nở nụ cười tươi, ôn tồn nói: “Xem ra
hành vi của bản cung đã khiến Khả hãn nghi ngờ, dùng lời biện bạch thì khó mà
khiến Khả hãn thỏa mãn. Thế nhưng vừa rồi khi Khả hãn vào đây chỉ ôm quyền hành
lễ với Hoàng thượng, lại dùng tiếng Hách Hách để trò chuyện với những nữ tử cả
ngày chỉ ở trong chốn thâm cung như bọn ta, chẳng trách lại làm Trang Mẫn Phu
nhân không vui. Bản cung lấy đạo của người để trả lại cho người như thế là vì
nữ nhân lòng dạ đều nhỏ mọn, nhưng Khả hãn là bậc trượng phu hào kiệt, ắt sẽ
không khó chịu vì việc vừa rồi đâu đúng không?”
Ma Cách lặng im một lát rồi hơi nhếch khóe
môi. “Thục phi mồm miệng lém lỉnh, thật chẳng giống với một người cả ngày chỉ ở
trong chốn thâm cung chút nào.”
Tôi hơi khom người, bình tĩnh nói: “Khả hãn
quá khen rồi, bản cung tài thô học thiển, có chút hiểu biết cũng là nhờ Hoàng
thượng thỉnh thoảng chỉ dạy cho, đâu có đáng để Khả hãn ngợi khen như thế.”
Y nhìn tôi rồi nở một nụ cười đầy ý vị, sau
đó lại quay sang nói giọng trách cứ với gã sứ giả kia: “Vị này mới là Thục phi
của Đại Chu, sao vừa rồi ngươi lại nhận người bừa bãi như thế?”