Từ khi Dự phi thất sủng, Hương Kiến cùng với Yến Uyển chia đều xuân sắc, trong cung dần dần cũng im lặng một chút.
Chính là những lúc trà dư tửu hậu, nhóm tần phi đều lấy chuyện Dự phi ra chê cười, cũng là phong phi, cũng là thất sủng.
Mặc dù Như Ý không còn xử lý công việc nhiều nhưng ngẫu nhiên cũng lật sổ sách của Kính Sự phòng xem.
Nàng xem vài tờ liền nghi hoặc: “Hoàng thượng cũng từng coi như sủng ái Tuân tần, nay sao lại không để ý tới?”.
Hãn phi từ ngày sinh Bát công chúa, suốt ngày ốm yếu.
Nàng ngồi bên cạnh Như Ý, Bát công chúa được Hải Lan ôm vào trong ngực, Hãn phi cố gắng cười hết sức: “Ngày đầu sủng ái, ngày sau vô sủng đó cũng là điều không mới mẻ gì”.
Hải Lan lấy trên búi tóc một quả thanh kim com bướm xuống chơi đùa với Bát công chúa, cười nói: “Người bên ngoài nói thế nào cũng được, muội dù sao cũng đã có đứa nhỏ, sao lại ủ rũ nói vậy?
Hãn phi yên lặng ngồi, sau khi sinh nàng luôn ốm đau suy yếu khiến cho nàng gầy trơ xương.
Ngót út Như Ý đeo hộ giáp thượng vàng nhẹ ngàng xẹt qua khuôn mặt ửng đỏ của nàng, an ủi nói: “Muội đã dùng hết sức vất vả sinh hạ Bát công chúa, hậu sản mất cân đối khiến Hoàng thượng cũng đau lòng.
Muội còn trẻ, bổn cung sẽ cho Giang Dữ Bân điều trị cho muội để muội có thể sinh một a ca để làm bạn với Bát công chúa”.
Hãn phi nỗ lực cười: “Lúc trước tuổi trẻ không hiểu chuyện, cứ nghĩ việc ỷ vào tuổi thanh xuân nên Hoàng thượng sủng ái.
Nay cũng chỉ bất quá là vũng vẫy mà sống thôi.
Thần thiếp biết chỉ là đáng thương Bát công chúa còn nhỏ tuổi”.
Hải Lan thân mật hôn lên trán Bát công chúa, thương tiếc nhìn Hãn phi: “Muội vì sinh Bát công chúa mà xuất huyết nhiều, nhưng tốt xấu muội vẫn còn có a mã muội, Bát công chúa có muội cùng với vị ngoại tổ này, tất sẽ không phiền não.
Chờ thân mình muội tốt lên, có khả năng thị tẩm, Hoàng thượng tất sẽ sủng ái muội”.
Lời tuy như thế nhưng Hãn phi cũng chỉ cười khổ: “Nói là nói như vậy, Hoàng thượng cũng yêu thương công chúa nhưng thần thiếp vẫn không thể thị tẩm được, rốt cuộc cũng kèm 1 phần.
Bát công chúa lớn như vậy, Hoàng thượng vẫn chưa cấp phong hiệu, có thể thấy được chưa từng để bụng, chỉ lo lắng cho Lệnh quý phi cùng vài phi tần khác mà thôi.
Cái gọi là ân sủng, bất quá cũng chỉ là ban đêm thân cận.
Trong mắt Hoàng thượng có thần thiếp cũng được mà không có cũng không sao, Du phi tỷ tỷ cũng hiểu rõ điều đó chứ?”
Hải Lan nghiêm mặt, lẳng lặng không nói.
Như Ý chống má ngưng thần: “Muội vất vả, chịu ủy khuất thế nào chúng ta đều biết.
Nhưng Tuân tần chẳng lẽ không biết sao? Nàng ta so với Dự phi thì trẻ hơn.
Nay Dự phi thất sủng, vốn nên để nàng Đông Sơn tái khởi nhưng sao lại yên lặng như vậy.
Bổn cung vừa rồi mới xem sổ ghi chép của Kính Sự phòng mới nhớ lúc trước nàng ta mười ngày thì có 3 lần thị tẩm, nay thì 1 năm mới có 1 lần.
Cho dù Dung tần đã mất đi vài phần ân sủng nhưng cũng không nên như vậy”
Hải Lan thấy trong lời nói không phải không có lý.
Từ khi Dung tần tuyệt sinh dục, Hoàng đế đối với nàng cuồng nhiệt cũng dần phai nhạt vài phần, tuy rằng vẫn còn thương yêu, thiên vị long trọng rõ ràng nhưng rốt cuộc cũng khắc chế rất nhiều.
Đối với lục cung tần phi cũng là ban đều mưa móc, có chút chiếu cố.
Cho nên nếu không bị bệnh hoặc thất sủng thì Tuân tần lạnh nhạt với Hoàng đế cũng không thể không khiến người khác chú ý.
Lời tuy như thế, Như Ý thất sủng, Hãn phi ôm bệnh nhưng cũng gặp Hoàng đế vài lần, chỉ có mẫu tử Hải Lan là được ân sủng.
Nhân Vĩnh Kỳ đắc lực, Hoàng đế đối với Hải Lan cũng càng ngày càng khởi sắc.
Cho nên trong cung tần phi, ngoại trừ việc Yến Uyển sinh hạ Thập ngũ a ca Vĩnh Diễm và giải quyết lục cung thì Hoàng đế cũng rất tôn trọng Hải Lan.
Cũng bởi vì Hải Lan cẩn thận, tuy Như Ý bị thất sủng nhưng vẫn còn có thể duy trì cuộc sống bình thản, không người quấy nhiễu.
Vì để giải tỏa buồn phiền Như Ý, Hải Lan thường ở lại tại đây, đôi khi cùng với Hãn phi thuê hoa, chỉ thơ, tiên trà đùa giỡn với Bát công chúa hoặc nói chuyện việc vặt hằng ngày của Vĩnh Kỳ.
Nhân một ngày nổi lên sự nghi ngờ, Hải Lan một mình cùng với Hoàng đế nói chuyện, ngẫu nhiên cũng phải nói một câu: “Mấy ngày gần đây bọn tỷ muội thần thiếp ở chung một chỗ, thần thiếp có thấy Tuân tần gầy đi một chút”.
“Thật không? Trẫm lâu rồi vẫn chưa gặp nàng ta”.
Hải Lan cẩn thận nói: “Tuân tần một mình ở trong cung, thân nhân gia hương cũng cách khá xa, phá lệ cơ khổ.
Thần thiếp ngẫu nhiên thấy nàng lẻ loi một mình, cũng thấy thật đáng thương”.
Hoàng đế đang cúi đầu nhìn hoa văn trên tú thượng, nghe vậy bất giác cười lạnh: “Sao lại vậy được? Nàng thấy nàng ta như thế sao? Trẫm luôn luôn tự xưng là chưa từng bạc đãi người khác.
Trẫm luôn sủng ái nàng ta, sau khi Dự phi được sủng ái, trẫm vắng vẻ nàng ta một chút, sau đó trẫm vẫn đi gặp nàng ta nhưng cái khuôn mặt của nàng ta không tươi cười một cái.
Nếu như vậy, trẫm vẫn cần phải đi xem sắc mặt nàng ta sao?”
Hải Lan cười mang theo hàm súc: “Dạ.
Tuân tần tính tình hướng nội, cũng không cùng nhiều người nói chuyện và cũng không có mạo phạm thần thiếp.
Nghe người ta nói ở trong cung nàng ta vô sự mà đánh đàn đầu ngựa*, thần thiếp nghĩ chắc nàng ta đang có tâm sự gì”.
Hoàng đế xua tay không kiên nhẫn nói: “Nàng ta đánh đàn đầu ngựa để khoe mẽ thì trẫm cần gì phải quá sủng ái nàng ta.
Nếu là sủng ái nhiều thì rất có thể sẽ trở thành Dự phi thứ hai.
Đừng cho rằng nàng ta nghĩ việc Bác Nhĩ Tể Cát Đặc thị bị thất sủng thì Hoắc Thạc Đặc bộ nàng ta có thể được sủng ái”.
Khẩu khí của hắn chậm rãi: “Còn nữa, nàng ta là nữ nhi của Hoắc Thạc Đặc bộ, năm đó trẫm nạp nàng ta là vì an bài tâm ý của Hoặc Thạc Đặc bộ, muốn bọn họ thật tình phục tùng cho nên trẫm sẽ không bạc đãi nàng ta.
Nhưng vào cung, sủng ái là do chính mình, sao lại muốn trẫm nhân nhượng nàng ta chứ?”
Hải Lan thấy Hoàng đế không mặn mà nên liền chuyển qua việc Vĩnh Kỳ cùng với Vĩnh Cơ đọc sách.
Một đêm mưa phùn hàn lạnh, tháng sáu mưa phùn mênh mông, vạn vật dưới Tử Cấm Thành đều trở thành mờ nhạt, Hoàng đế vốn muốn giữ Hải Lan ở lại Dưỡng Tâm điện dùng bữa, lại thấy Hải Lan tưởng nhớ Vĩnh Kỳ và sáng sớm có ho khan hai tiếng, không yên lòng, liền cho nàng quay về.
Sau lễ hiến tế Hiếu Hiền hoàng hậu, Hoàng đế thường gọi Hòa Kính công chúa vào cung cùng Hoàng đế đến Trường Xuân cung ngồi một chút, có khi Phó Hằng cũng tiếp khách, nói chuyện về Hiếu Hiền hoàng hậu, thấy vật nhớ người.
Vì thế người trong cung đối với Hòa Kính công chúa nịnh hót càng nhiều.
Một ngày Hòa Kính công chúa rời khỏi Trường Xuân cung, Thôi ma ma phụng dưỡng Hòa Kính nhiều năm liền ân cần lấy khăn hương đưa cho Hòa Kính nói: “Trời nóng, công chúa cẩn thận.
Nô tỳ ở trong cung có nấu Liên Tâm canh, công chúa mau trở về dùng đi ạ”.
Hòa Kính vuốt cằm, lại hỏi vài câu.
Thôi ma ma thấy thần sắc Hòa Kính liền nói: “Công chúa, nghe nói Ngài tiến cung, Lệnh quý phi nóng lòng phái người đến thỉnh an công chúa đến uống trà.
Nay Lan Thúy là nô tỳ ở bên cạnh Lệnh quý phi có chờ công chúa ở bên ngoài Trường Xuân cung để chuyển lời”.
Hòa Kính nghe xong, dứt khoát gọn gàng nói: “Không đi”.
Thôi ma ma cười làm lành nói: “Người ta dù sao cũng là quý phi, lại là có quyền giải quyết lục cung…”
Hơi thở Hòa Kính hắt ra mạnh mẽ, lấy ra từ trong tay áo một cái linh lung nói: “Tì thiếp chính là tì thiếp, cho dù cho nàng ta cái danh Hoàng quý phi thì cũng không xứng xách giày cho ngạch nương ta.
Ta đường đường là công chúa con vợ cả, nói chuyện với nàng ta dù sao cũng chỉ có lệ.
Vừa nghĩ tới lòng dạ hẹp hòi của nàng ta mà lấy lòng ta liền thấy thật ghê tởm.
Nếu không có Dục Hô nhắc nhở thì ta không đề phòng liền bị nàng ta tính kế”.
Thôi ma ma vội vàng gật đầu xưng dạ, một tay tiếp nhận cây quạt trong tay Hòa Kính, dùng sức quạt ra gió: “Công chúa cho nô tỳ hỏi thăm, ngày đó Lệnh quý phi bị đưa đến cho Thục Gia Hoàng quý phi dạy dỗ, có thật là từ Hiếu Hiền hoàng hậu khởi đầu?”
Đáy lòng Hòa Kính không thể kiên nhẫn, dùng giọng mũi nói: “Vậy mới thấy lòng dạ người này thật bất chính”.
Thôi ma mã ngẫm nghĩ, cũng nói thêm: “Công chúa không để ý mặt sư tăng thì cũng nên để ý mặt Phật đi, dù sao Lệnh quý phi cũng đã xả thân cứu Khánh Hữu tiểu chủ chúng ta”.
Hòa Kính lãnh đạm: “Nếu không có chuyện như vậy thì ta sao có thể cùng nàng ta nói chuyện cơ chứ? Chính là xem ân tình nàng ta với Khánh Hữu thôi”.
Trong lòng Thôi ma ma biết tính tình Hòa Kính, nào dám nhiều lời.
Đang muốn đi đến chiếc cầu đã thấy Xuân Thiền đỡ tay Yến Uyển đến đây, tiếng cười khanh khách thật xa, thẳng hướng Hòa Kính nhìn qua.
Thôi ma ma liền thấy, chỉ thấp giọng nói: “Công chúa, nhắc Tào Tháo liền thấy Tào Tháo”.
Hòa Kính nhíu mày, Yến Uyển thực đã sớm chào đoán, nắm tay Hòa Kính nói: “Ta cho Lan Thúy đến thỉnh công chúa đến cung ta ngồi một chút, ai ngờ nha đầu kia vô dụng, đã đi một canh giờ rồi vẫn chưa quay về.
Nay ta liền tự mình đến, trong cung có trà ngon, còn có dưa mật tiến cống, thỉnh công chua đến nếm thử”
Làm sao Hòa Kính có thể giả vờ cùng nàng nói chuyện, liền rút tay ra nói: “Hôm nay trời nóng nên người ta cũng lười biếng.
Hôm nay ta không có hứng thú nên không muốn đi”
Ý cười Yến Uyển không giảm: “Vậy thì ngày khác cũng được…”
Cánh tay Hòa Kính dựa vào Thôi ma ma đi thẳng về phía trước: “Đa tạ hảo ý.
Thôi ma ma chúng ta đi”.
Yến Uyển bị lạnh ngay tại chỗ, nhất thời không biết phản ứng ra sao.
Đợi đến khi Hòa Kính công chúa đi xa, nàng mới cười khổ: “Vị công chúa này cũng thật khó hầu hạ.
Không biết ta đã làm gì đắc tội với nàng ta”.
Xuân Thiền đi theo hầu hạ Yến Uyển nói: “Tính tình Hòa Kính công chúa xưa nay cao ngạo cũng vì Hoàng thượng không so đo với nàng ta, dù sao nàng ta cũng là công chúa con vợ cả…”
Yến Uyển cũng nghĩ đến điều đó: “Nàng ta chính là như vậy.
Ta cho dù là thân phận quý phi, nếu đắc tội với nàng ta cũng thật khó đứng dậy nổi”.
Hòa Kình gặp Yến Uyển, khí sắc cũng không được tốt.
Thôi ma ma liền khuyên nhủ: “Công chúa, dù sao Ngài cũng nên cười một cái.
Lệnh quý phi nay được sủng ái, khí thế đó ngay cả Hoàng hậu cũng phải khiêm nhường vài phần”.
Hòa Kính không để ý tới chút nào, dưới chân liền đi nhanh hơn.
Mới qua Dực Khôn cung đã thấy Như Ý cùng Dung Bội đi ra.
Tuy rằng Hòa Kính cùng Như Ý không thường xuyên qua lại nhưng cấp bậc lễ nghĩa cũng là hơn một bậc, liền thỉnh an: “Hoàng ngạch nương thỉnh an”.
Như Ý hòa nhã nói: “Cảnh Sắt, đứng lên đi”.
Hòa Kính được Như Ý cho phép thì mới đứng thẳng lên, liền đi đến chỗ râm mát tránh nắng một chút.
Như Ý nhìn nàng một chút rồi cười nói: “Bổn cung có chút bội phục công chúa, vô tình chúng ta ta là mẹ con, công chúa đối với bổn cung cấp bậc lễ nghĩa vẫn chu toàn”
Hòa Kính thẳng lung lên, cung kính nhưng không mất uy nghi: “Cấp bậc lễ nghĩa chi đạo là do đích thân ngạch mẫu dạy dỗ, nhi thần không dám vi phạm.
Nhi thần là công chúa con vợ cả, cũng vì các đệ muội mà làm gương.
Không thể làm cho Ô Lạp Na Lạp thị nói nữ nhi Phú Sát thị vô lễ được”.
Hòa Kính vốn là công chúa con vợ cả, khí thế cao ngạo, ánh mắt trời chói chang chiếu vào xiêm y màu hồng của nàng càng khiến nàng nghiêm nghị không thể mạo phạm.
Như Ý hơi vuốt cằm: “Công chúa có lòng dạ như vậy thật sự là chuyện tốt.
Đúng rồi, hôm nay sao không thấy công chúa đưa Khánh Hữu vào cung?”
Hòa Kính nghe nhắc tới con, sắc mặt liền ôn nhu không ít: “Tiểu nhi gia bướng bỉnh, mang vào cung không tiện.
Sợ làm phiền Hoàng a mã”.
Như Ý nhân tiện nói: “Cũng đúng.
Nếu không cẩn thận lại rơi xuống nước, người bên ngoài thêm nhiều chuyện, bổn cung cùng Hoàng tổ mẫu cũng không nhẫn tâm nghe lại điều đó”.
Lời nói sắc bén, Hòa Kính nghe không rõ, liền hỏi: “Ý Hoàng ngạch nương là…”
Như Ý nói nhẹ nhàng: “Dù sao ngày đó Khánh Hữu rơi xuống nước như thế nào, sao không ai phát hiện cũng là điều đáng nghi.
Bổn cung xưa nay để tâm quá nhiều, nay chỉ lắm miệng nói một câu thôi”.
Hòa Kính chần chừ một lát, đang định muốn nói gì nhưng lại đóng chặt môi, thi lễ rời đi.
Hòa Kính quay về cung, Thôi ma ma hầu hạ thay xiêm y Hòa Kính xong liền dâng Liên Tâm canh, cho mọi người lui ra bên ngoài, tự mình cầm chiếc quạt mà quạt.
Sắc mặt Hòa Kính tức giận mà đỏ bừng cũng dần dần rút đi, Thôi ma ma mới dám mở miệng: “Hôm nay Hoàng hậu nương nương có nói vài câu, công chúa nghe qua có để trong lòng chăng?”
Hòa Kính do dự một lát: “Xưa nay ta không thích Ô Lạp Na Lạp thị, chỉ vì duyên cớ của ngạch nương ta.
Tâm ý của Lệnh quý phi cũng khả nghi, cũng không đáng tin”.
“Vậy công chúa hoài nghi Khánh Hữu tiểu chủ rơi xuống nước là do Lệnh quý phi ám toán?”
Hòa Kính im lặng một chút liền nói: “Việc ngày đó không người chứng kiến, Lệnh quý phi cũng khộng tự mình thừa nhận.
Nay lại tra hỏi cũng vô dụng”
“Vậy ý công chúa là…”
“Ta là đích nữ của Hiếu Hiền hoàng hậu, cùng phi tần có quan hệ gì đâu? Từ nay về sau, Lệnh quý phi đừng đến đây dây dưa với ta, ta cũng xa lánh nàng ta, không tương quan với nhau.
Nếu nàng ta đối với Khánh Hữu có ân tình thì mấy năm nay ta đối đãi với nàng ta như vậy cũng đủ rồi.
Nếu thật sự nàng ta hãm hại Khánh Hữu rơi xuống nước, hừ, dù sao ta cũng sẽ không giúp nàng ta nữa.
Nàng ta muốn mượn tay ta chèn ép Hoàng hậu thì coi như đã đủ rồi, nếu thật sự mơ ước ngôi vị Hoàng hậu, nàng ta xứng sao? Về phần Hoàng hậu, muốn mượn ta hai hổ đánh nhau, ai ai cũng đừng nằm mơ!”
Thôi ma ma vội hỏi: “Dạ.
Chúng ta chỉ cần để ý đến chính mình là được.
Công chúa là con vợ cả tôn quý nhất, ai ai cũng đều nịnh bợ công chúa”.
Yến Uyển tuy rằng giải quyết lục cung nhưng quy củ cực nghiêm, mọi chuyện đều đến bẩm báo Như Ý, Như Ý lại qua bẩm Hoàng đế.
Trong một năm, Như Ý cùng Hoàng đế lui tới chỉ là chuyện công sự, vội vàng đến cũng vội vàng rời đi, không ở lại lâu.
Có lần Dung Bội giúp đỡ Như Ý bước vào điện, Lý Ngọc liền chào đón nói: “Hoàng hậu nương nương, Hoàng thượng đã đến Vĩnh Thọ cung thăm Thập ngũ a ca rồi ạ, sợ sẽ lâu quay về”.
Như Ý cũng không kinh ngạc, Yến Uyển hạ sinh Thập ngũ a ca Vĩnh Diễm, trắng trẻo đáng yêu, khó trách Hoàng đế đến Vĩnh Thọ cung ngày càng nhiều.
Như Ý thân thiết hỏi Lý Ngọc: “Sao ngươi không đi hầu hạ Hoàng thượng?”
Sắc mặt Lý Ngọc buồn bã, có chút ngượng ngùng: “Nô tài già rồi nên cho Tiến Trung đi”.
Lời nói tuy ít ỏi nhưng Như Ý cũng hiểu.
Yến Uyển sủng ái, Tiến Trung ở trước mặt Hoàng đế cũng được phá lệ yêu thích, thêm tuổi trẻ dồi dào, so với Lý Ngọc thỏa mãn nhiều cũng là điều tự nhiên.
Như Ý an ủi: “Ngươi đã hầu hạ Hoàng thượng từ thưở nhỏ, tự nhiên ngươi cũng có điều ưu việt”.
Nói xong, nàng liền nhìn thấy thị vệ Lăng Vân Triệt đứng ở hành lang, cổ để lộ ra vết máu, tuy có lấy áo che lấp nhưng cũng không thể che khuất toàn bộ.
Như Ý cẩn thận hỏi: “Sao lại bị thương như vậy?”
Lăng Vân Triệt nhíu mày, đang định trả lời buâng quơ liền thấy Lý Ngọc đứng sau che miệng cười nói: “Mậu Thiến thật sự lợi hại!”
Lăng Vân Triệt thấy Lý Ngọc nói vậy, có chút trách miệng lưỡi hắn, liền liếc mắt một cái.
Như Ý nhìn thấy vết thương ở cổ, đúng là dùng móng tay cào cấu.
Nàng hoảng sợ: “Sao lại xuống tay như vậy chứ?”
Hắn che giấu nói: “Nương nương chớ bận tâm.
Chỉ là bị thương da thịt thôi”.
Lý Ngọc lắc lắc cái phất trần, lắc đầu nói: “Hoàng hậu nương nương có điều không biết, tuy là tứ hôn nhưng cũng là oán lữ.
Tranh cãi bắt đầu, Lăng đại nhân là nam nhân, không thể dùng vũ lực chống trả nên mới xảy ra việc bị thương như vậy”.
Lăng Vân Triệt ngượng ngùng, liền quát khẽ một câu: “Lý công công!”
Lý Ngọc nói chuyện thông minh.
Như Ý cũng không tiện nhiều lời, liền dặn dò Dung Bội: “Trong cung chúng ta có bạch dược vô cùng tốt, mau đưa đến đây”.
Dung Bội đáp ứng đi ngay, Như Ý nhìn Lăng Vân Triệt ôn nhiên nói: “Vợ chồng trong lúc đó, nếu có thể dịu đi thì mọi chuyện cũng đều tốt đẹp cả”.
Lăng Vân Triệt tựa hồ có chút xuất thần.
Như Ý không biết hắn có nghe không, cũng không tiện ở lâu liền rời đi về Dực Khôn cung, Dung Bội nói: “Thập nhị a ca mới ngủ trưa liền tỉnh, muốn đi Ngự Hoa viên xem hoa sen, Du phi tiểu chủ sợ gặp gió nhiễm phong hàn nên liền cùng nô tỳ cản lại”.
Như Ý mỉm cười: “Đứa nhỏ này giống Hoàng a mã hắn, không đọc sách thì cũng yêu hoa cỏ”.
Nàng bùi ngùi thở dài: “Đáng tiếc, hắn không ở bên cạnh bổn cung, bổn cung chỉ biết được tin tức hắn chỉ là lời người khác nói mà thôi”.
Nàng dừng lại: “Vĩnh Cơ muốn xem hoa sen, bổn cung đi hái một ít, đưa cho Hải Lan để trong cung, Vĩnh Cơ cũng sẽ không mạo hiểm rời khỏi cung”.
Nói như vậy, Dung Bội liền giúp đỡ Như Ý đến Ngự Hoa Viên.
Tháng sáu hoa sen nở rộ.
Trong không trung có chút mơ hồ nghe tiếng boong boong.
Như Ý đứng dưới tán cây, nghiêng tai lắng nghe: “Cứ như là thanh âm của đàn đầu ngựa*”.
Nàng nghe xong một lát: “Đạn tấu là chu sắc liệt”.
(*Đàn đầu ngựa là đàn nhạc dây của dân tộc Mông Cổ – một trong những dân tộc thiểu số Trung Quốc, bởi trên đỉnh đàn có khắc đầu ngựa nên có tên gọi như vậy.)
Âm thanh đàn đầu ngựa nức nở, đập vào cánh lá sen càng thêm sụt sùi.
Dung Bội nghi nói: “Ai lại đàn khúc nhạc tình tình yêu yêu này chứ?”
Nàng quay đầu, thấy dưới lá sen có vài giấy màu đang gấp đèn hoa đăng.
Như Ý nói: “Hôm nay đâu phải là ngày chính tử, sao lại có người gấp hoa đăng cầu phúc chứ?”
Như Ý tiến vào trong đình, lại nghe tiếng đàn đầu ngựa im bặt, một thân ảnh thướt tha vội vàng đứng lên.
Như Ý thấy rõ kêu: “Tuân tần”
Nàng kia dừng bước, có chút bất an: “Hoàng hậu nương nương”.
Như Ý kiềm chế nghi ngờ, định thần nói: “Ở trong mưa đêm đánh đàn đầu ngựa, rất có hứng thú.
Nhưng sao chỉ có mình muội, người hầu hạ đâu rồi?”
Tuân tần có chút ngượng ngùng: “Bọn họ nghe thần thiếp đánh đàn đầu ngựa, không muốn bọn họ làm phiền liền cho bọn họ ra ngoài Ngự Hoa viên canh giữ rồi”.
“Muội nhớ nhà sao?”
Trên mặt nàng dào dạt: “Thần thiếp nhớ nhà, nhớ người nhà, nhớ thảo nguyên, nhớ bò dê trên thảo nguyên”
“Cho nên mới thả hoa đăng cần người nhà bình an?”
Tuân tần trọng trọng gật đầu, vẻ mặt chân thành: “Mỗi ngày bọn họ đều cưỡi ngựa cầm đao, nhiều nguy hiểm! Thần thiếp hy vọng, hy vọng tất cả đều bình an”.
Như Ý mỉm cười: “Muội thích cưỡi ngựa sao? Dĩnh phi cũng là người Mông Cổ, nàng ta cũng thích cưỡi ngựa, nhiều ngựa hung dữ nàng ta cũng không sợ”.
Ánh mắt Tuân tần sáng lên, lộ vài phần cười xoáy: “Thần thiếp rất thích, khi còn ở thảo nguyên, thần thiếp thích nhất là phi ngựa, có thể chạy một mạch hết một ngày, mệt mỏi là nằm xuống nhìn trời bao la, không giống nơi này, trời là từng khối từng khối tường dày, nhìn rất khó chịu”.
Nàng ảm đạm rồi cười rất nhanh: “Trên thảo nguyên có nhiều hoa nở, có nhiều hoa rất thơm, nở rộ trên khắp thảo nguyên.
Không giống hoa ở Ngự Hoa viên, đẹp thì cực đẹp nhưng lại không có hương thơm mãnh liệt như vậy”.
Như Ý có chút khiếp sợ, nhìn về phía nàng, ánh mắt càng thêm nhu hòa: “Mỗi người đều muốn dấn thân vào Tử Cấm Thành, hy vọng vào Tử Cấm Thành phú quý.
Muội thì lại khác.”.
Nàng ôm ấp đàn đầu ngựa, nghiêm mặt buông xuống: “Thần thiếp không thể không tiến cung.
Phụ thân thần thiếp nhất thời hồ đồ, giúp đỡ Chuẫn Cát Nhĩ bộ mới khiến cho chúng bộ tộc bị Hoàng thượng oán hận.
Phụ thân không còn cách nào khác mới đưa thần thiếp tiến cung để tỏ vẻ ăn năn với Hoàng thượng.
Cho nên thần thiếp sẽ không tranh thủ sủng ái, sẽ không lấy lòng Hoàng thượng, không giống như Dự phi…”
Như Ý nhìn nàng ảm đạm: “Hoàng thượng sẽ không bạc đãi muội”.
Tuân tần vỗ về chơi đùa đàn đầu ngựa, ý cười chua xót: “Đúng vậy.
Thuận theo, nghe lời, im lặng, sẽ không có oán hận.
Đương nhiên Hoàng thượng sẽ không bạc đãi thần thiếp.
Bởi vì thần thiếp ở trong cung chính là một sự bài trí tốt nhất cho Hoắc Thạc Đặc bộ an tâm.
Cho nên ngày đó Dự phi cùng với thần thiếp tranh thủ sủng ái, thần thiếp cũng không để ý.
Bởi vì nàng ta không biết, nàng ta với thần thiếp không giống nhau”.
Nàng cười khinh miệt: “Mặc dù nàng ta hôm nay thất sủng, Hoàng thượng cũng không đối đãi tốt với nàng ta sao?”
Sắc mặt Như Ý trầm tĩnh lại: “Muội hiểu được người như vậy nhưng trong lòng muội sống được cũng không can tâm”.
Con ngươi Tuân tần khởi lên chút lạnh thấu xương: “Dạ.
Cho dù là cái bài trí nhưng cũng sẽ có niệm tưởng”.
Nàng ngẩng đầu lên để lộ một dây chuyền phía dưới, không phải là châu ngọc mà là một viên nhanh sói trắng hếu.
Đáy lòng Như Ý vừa động: “Nghe nói bộ lạc Mông Cổ thích lấy nanh sói hộ thân.
Trăm nghe không bằng một thấy, muội tự tay kết dây chuyền sao?”
Trên mặt Tuân tần hiện lên một tia ngượng ngùng cùng bối
rối, nói: “Thần thiếp cũng không biết, người bên ngoài ban cho, tùy tiện mà đeo thôi.
Sắc trời không còn sớm, thần thiếp cáo lui trước”.
Như Ý thấy nàng vội vàng rời đi, liền nói: “Muội mới đàn khúc Chu Sắc liệt, là giảng thuật loại tình cảm nam nữ kiên trinh.
Khúc truyền tâm thanh, muội tưởng niệm Hoàng thượng có thể nghe thấy sao?”
Dưới chân Tuân tần bị kiềm hãm, quay đầu lẳng lặng nhìn nàng, trong con ngươi lộ vẻ u sầu đâu thương.
Ngoài đình trời mưa, càng lúc càng lớn.
Mưa rơi trên lá sen xanh biếc, nhỏ giọt nhanh chóng chảy xuống; giống như một giọt lệ bi thương thật lớn mà rơi xuống.
Đầu tháng 8, Hoàng đế theo lẽ thường du tuần Mộc Lan, mang theo triều thần, chư vị Hoàng tử cùng với hậu cung tần phi.
Mặc dù Hoàng đế gặp mặt Như Ý cũng không nói gì nhưng vì thể diện bên ngoài rốt cuộc cũng là cố gắng nói vài câu.
Mộc Lan du tuần lần này Như Ý không đi không được vì lần này các bộ tộc vương công Mông Cổ đều có mặt, có vài vị công chúa Mông Cổ cùng ngạch phụ cũng đến, quả nhiên long trọng.
Cho nên Hoàng đế cũng không phiền não nói với Như Ý: “Nếu vương công Mông Cổ đến, Dự phi cùng với Dĩnh phi đều là xuất thân hoàng thân quốc thích Mông Cổ thì tất nhiên phải đi”.
Như Ý cũng không nói nhiều, cúi đầu uống trà, một lát nói: “Tuân tần cũng đi sao?”
Thần sắc Hoàng đế bỗng nghe đến Tuân tần, nhíu mày nói: “Tất nhiên phải đi”.
Hắn đăm chiêu một chút nói: “Có chuyện trẫm chưa kịp nói cho nàng biết.
Phụ thân cùng tộc nhân Tuân tần hiệp trợ đại quân ta bình định dư nghiệt Hàn Bộ, việc xảy ra ngoài ý muốn, chết hơn phân nửa.
Phụ thân Tuân tần cũng không còn sống”.
Như Ý không nhìn rõ bộ dáng hắn, kinh ngạc nói: “Chuyện xảy ra khi nào?”
Hoàng đế im lặng giây lát: “Gần một năm”.
Như Ý cả kinh thiếu chút nữa nhảy lên, rốt cuộc nhiều năm hàm dưỡng giáo nàng nhẫn nại xuống.
Suy nghĩ kĩ, như vậy không lâu Dung tần vào cung, rột cuộc cũng xảy ra chiến sự kia.
Hoàng đế cư nhiên giấu diếm lâu như vậy, lại có thể bất động thanh sắc, còn có thể đối với Tuân tần, hết thảy như thường..