Tây Giao Lãnh để ở Lạc Dương có tên là Ô Yến cung, đây là biệt uyển hoàng gia từ ngày trước, bây giờ cũng đã sớm suy tàn. Trong cung cỏ dại mọc um tùm, tơ nhện giăng kín.
Đáng thương cho Hán đế Lưu Thông, bảy tuổi đã bị xách lên ngôi Hoàng đế làm con rối, đến nay chưa được lấy một ngày an tâm. Trước kia phải chịu sự ép buộc lạm quyền của Hạnh Tốn, suốt ngày cậu nơm nớp lo sợ. Bây giờ lại bị ép nhường ngôi, chuyển tới lãnh cung này sinh sống, cậu biết Hạnh Tốn giữ lấy cái mạng mình chẳng qua chỉ để tôn vinh danh nghĩa cho người đời nhìn tới, sớm muộn hắn cũng sẽ sai sát thủ giết mình, những cận thị bên cạnh cũng suốt ngày hoảng sợ, mây đen phủ kín, mới tới nơi này chưa bao lâu đã bị bệnh, sao có thể mời thầy thuốc kê đơn? Cuối cùng phải tự sinh tự diệt.
Đảo mắt tới tháng giêng năm sau, giữa trời đông giá rét, Lưu Thông bị giam cầm ở đây tầm mấy tháng, bệnh tật hành hạ đến yếu gầy, tin tức ngoài kia thì hoàn toàn không biết.
Ngày hôm đó, cận thị Tống Khánh đang rơi lệ, bên ngoài điện bỗng vang lên tiếng hô to quát tháo ầm ĩ, xen lẫn là tiếng đao kiếm giao nhau, cậu còn tưởng Hạnh Tốn phái người tới giết mình, sợ hãi run lẩy bẩy, cận thị Tống Khánh cõng cậu chạy về phía hoa viên phía sau, chưa trốn được vài bước đã nghe thấy tiếng truy đuổi phía sau, hai người ngã xuống đất, họ nhắm mắt lại chờ mũi đao giết chết, không ngờ lại nghe thấy tiếng hô: “Bệ hạ đừng sợ! Chúng ta được phái tới cứu bệ hạ ra ngoài!”
Lưu Thông mở mắt ra, nhận ra người tới là Tả Đô Hầu Vương Bá và Trưởng thừa Đổng Thành.
Năm ngoái sau khi Hạnh Tốn soán vị, chém giết quy mô lớn. Vương Bá tức giận mà chẳng dám nói gì, chỉ có thể theo nhiều người cúi đầu xưng thần. Sau đó hắn biết hoàng đế bị phế đang bị giam cầm ở Ô Yến cung, bên cạnh chỉ còn ba cận thị, ăn bữa sáng lại phải lo bữa tối, trong lòng lại càng thêm hậm hực.
Hắn và Trưởng thừa Đổng Thành vốn có quan hệ tốt,. Mấy ngày trước hai người bí mật hẹn gặp nhau, Đồng Thành kể lại tin mới biết, ít ngày nữa Hạnh Tốn muốn sát hại phế đế thì nước mắt đan xen, khẩn cầu Vương Bá cứu phế đế ra, bảo vệ ánh sáng cuối cùng của triều Hán. Vương Bá hạ quyết tâm, âm thầm phân tán người nhà trước, hôm nay hắn dẫn mấy chục vệ sĩ trung thành xông vào lãnh cung, giết hết thủ vệ trông coi rồi tới đây cứu giá.
Hai người Vương Bá, Đổng Thành quỳ xuống đất bái lạy: “Lão tặc Hạnh Tốn nghịch thiên đảo hành, người thần đều giận! Được biết lão tặc muốn sát hại bệ hạ, nhân lúc có cơ hội thần mới tới đây cứu bệ hạ ra khỏi lao tù, trước tiên cứ tới nhờ vả Tôn thất trước, đăng hịch văn kêu gọi chư hầu khắp thiên hạ cần vương, bảo vệ giang sơn triều Hán ta!”
Lưu Thông chẳng qua chỉ là một thiếu niên mười tuổi, bây giờ tay chân như nhũn hết, còn không tự đi được huống hồ là chủ ý của mình, được Vương Bá cõng ra khỏi lãnh cung, nhìn mười mấy thi thể của cung vệ trông coi mình ngổn ngang trên mặt đất, mùi máu tanh gay mũi, cậu biết Vương Bá Đổng Thành là trung thần triều Hán, họ sẽ bảo vệ mình nên trong lòng mới bình tĩnh ít nhiều.
Chưa ra được ngoài kia, truy binh từ Lạc Dương chạy tới. Không ngờ tin tức cứu người bị rò rỉ, vệ sĩ thừa Bắc Cung Hứa Kiện dẫn hai trăm truy binh đuổi tới đây.
Vương Bá Đổng Thành che chở cho Lưu Thông chạy trốn về phía tây, khoảng hơn mấy chục dặm thì truy binh phía sau đã tới. Dù Vương Bá và vệ sĩ đi theo đã liều mình chống lại, tuy vậy ít người khó chống lại đám đông, cuối cùng cũng ngã lăn dưới đất. Tình hình khó còn đường trốn thoát, Hứa Kiện vung đao, đằng đằng sát khí tiến tới đó, Vương Bá lại không hề hoảng sợ, ông đẩy Lưu Thông đang khóc lóc thảm thiết ra phía sau bảo vệ, quát tháo Hứa Kiện là chó săn, còn khóc không thành tiếng: “Giang sơn bốn trăm năm của triều Hán chúng ta lại mất ở trong tay lão tặc! Hôm nay, cho dù có mất mạng ở đây, ta cũng không bao giờ thần phục!”
Lúc Vương Bá hét lên, Đổng Thành lo lắng nhìn xung quanh như chờ đợi người nào.
Hứa Kiện đâu nghĩ nhiều như vậy, hắn giơ đao lên cao, nắm lấy cố áo của Vương Bá rồi vung đao xuống, đúng lúc đó phía sau lưng có một mũi tên xé gió lao tới, đâm thẳng vào giữa lưng Hứa Kiện, làm hắn ngã gục chết ngay tại chỗ.
Vốn Vương Bá còn tưởng hôm nay sẽ mất mạng ở đây, không ngờ lại có chuyển biết tốt, hắn nhìn thấy một đội binh mã không giương cờ hiệu vừa xuất hiện, người phía trước chỉ mới khoảng hai bốn, hai lăm tuổi, trên đỉnh đầu đội mũ sắt màu đỏ, bộ áo giáp bát bảo trên lưng, phía dưới là một con ngựa tốt, mặt như quan ngọc, thần thái anh hùng, nhìn người phi ngựa về hướng này, hắn bỗng ngây dại.
Sau khi Hứa Kiện bị bắn chết, nhóm vệ sĩ Nam cung hộ tống hắn chống lại một lúc rồi vội vàng đào tẩu.
Người kia xuống ngựa rồi nhanh chân đi tới chỗ Vương Bá, Đổng Thành.
Vương Bá vừa mới từ cõi chết trở về, hắn còn chưa dám tin. Hơn nữa không nhận ra người này nên nghi ngờ không thôi. Đến khi tướng quân trẻ tuổi kia tới gần, hắn cúi người hành lễ với Lưu Thông đang ngã ngồi trên đất, nói: “Thần, Lang Gia Lưu Diễm cứu giá trễ. Khiến bệ hạ lo lắng, tội đáng muôn chết!”
Vương Bá không thể nào ngờ được, Lang Gia vương Lưu Diễm lại có thể cứu mình giữa lúc nguy nan chẳng khác nào thiên thần ở trên trời giáng thế.
Hắn vội vàng tiến lên bái kiến.
Lưu Diễm nói: “Tả Đô Hầu là hạ thần xuất sắc của triều Hán, mặc dù ta sống ở Lang Gia nhưng cũng từng nghe tiếng. Ngài đừng làm như vậy. Ta chỉ là một tên cẩu thả ăn xổi ở thì, nghe nói Hạnh Tốn nghịch thiên đảo hành, người dân oán thán. Ta biết chuyện bệ hạ bị giam ở lãnh cung cũng tức tối không thôi, thân là con cháu nhà Hán, sao có thể làm như không thấy. Nhân cơ hội này ta tới đây cứu giá, quả là ông trời có mắt, có thể gặp gỡ mọi người ở đây!”
Vương Bá mừng rỡ, Đổng Thành bên kia cũng đứng lên bái kiến Lưu Diễm. Mấy người vội vàng bàn bạc.
Lưu Diễm trầm ngâm nói: “Lão tặc kia có để lại quân phòng ngự ở Lạc Dương. Biết bệ hạ đào tẩu nhất định họ sẽ đuổi theo ngay. Nơi này không thích hợp ở lâu, không bằng nhanh theo ta đi trước, tới dừng chân tạm thời ở Lang Gia rồi bàn bạc kĩ hơn”.
Vương Bá, Đổng Thành đồng ý ngay, họ dìu Lưu Thông, cả đoàn người nhanh chóng đi về hướng Đông. Cả đoạn đường cải trang né tránh truy binh, dãi gió dầm sương vòng vèo đổi chỗ, chịu vô vàn khổ sở.
Lưu Thông bị bệnh đã lâu ngày, lại còn chịu kinh hãi lần đó, sau khi đi bệnh tình càng trầm trọng.
Ngày hôm đó cuối cùng cũng tới được Dương Đô, cách Lang Gia chỉ còn mấy ngày đường. Trời vừa sáng, Lưu Diễm, Vương Bá, Đổng Thành đứng ngoài phòng chờ Lưu Thông thức dậy để khởi hành, đợi mãi không thấy ra, khi họ tiến vào mới phát hiện, ấu đế đã ngừng thở chết từ lúc nào không ai biết.
Mọi người kinh hãi, hai mặt nhìn nhau rồi gào khóc.
Dương Đô Lương Tể và các đời tổ phụ đều là trung thần triều Hán, sau khi nghe tin đó hắn cũng vội vàng tới chịu tang.
Sau khi khóc tang xong, mọi người lại cùng nhau bàn bạc, nhất trí đề cử Lưu Diễm lên kế vị.
Lúc đầu Lưu Diễm còn từ chối, không chịu chấp nhận, hắn tự nhận bản thân vô đức không thể ngồi lên ngôi vị đó. Mấy người Vương Bá, Đổng Thành, Lương Tể vội vàng quỳ xuống, khổ sở khẩn cầu, Lưu Diễm đành phải bất đắc dĩ bằng lòng.
Sau đó, Lang Gia được chọn tạm thời là kinh đô thứ hai, tế trời tế đất, xây dựng tỉnh đài, ban chiếu thư thông cáo thiên hạ.
Tin tức lan ra, thái thú ở Mậu Bình, Đông Lai, Hạ Mật vội vàng tới gia nhập. Triều đình ở Lạc Dương cũng nhân lúc Hạnh Tốn dẫn binh chưa về, Hữu Thái sử Đậu Vũ, Đại phu[1] Đặng Huân và hai mươi người khác, lục tục tìm tới nương tựa ở Lang Gia, ủng hộ Lưu Diễm xưng đế.
[1] Đại phu: chức quan to thời xưa, dưới quan Khanh, trên quan Sĩ.
Lang Gia lập nên triều đình nhỏ, được thiên hạ xem là triều Hán chính thống, còn Lạc Dương lại trở thành nghịch đô.
Ngày hôm đó, hạ thần diện kiến Lưu Diễm để bàn bạc về việc chinh phạt Hạnh Tốn.
Nhóm người Vương Bá, Đậu Vũ đều cho rằng, nhân lúc Hạnh Tốn đang đại chiến với Ngụy Thiệu, họ cần nhanh chóng xuất binh, chiếm lấy Lạc Dương.
Nói đến hồi kích động, mỗi người đều nước mắt lưng tròng.
Lưu Diễm cũng động viên mọi người. Sau khi để họ đi, hắn giữ Đổng Thành ở lại rồi mới hỏi: “Khanh[2] có kiến giải gì chăng?”
[2] Khanh: vua gọi quần thần.
Hai năm trước, Đổng Thành đã âm thầm trở thành tử sĩ của Lưu Diễm.
Hắn nói: “Vương Bá, Đậu Vũ chỉ có tài miệng lưỡi. Bây giờ thái thú các nơi xin gia nhập cùng bệ hạ, có điều thế lực vẫn chưa nhiều, không thể đảm đương nhiệm vụ lớn. Binh lực trong tay bệ hạ có thể sử dụng được cũng có hạn. Cho dù có chiếm được Lạc Dương, nhỡ Hạnh Tốn lui binh thì làm sao chống nổi? Bệ hạ không nên làm vậy!”
Lưu Diễm xuất thần trong chốc lát, hắn hỏi: “Trận chiến giữa Hạnh Tốn và Ngụy Thiệu lần này, khanh thấy thắng bại sẽ thế nào?”
Vào cuối năm ngoái, sau hai thất bại của Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công đã phát binh trợ lực. Đầu năm nay, nhân lúc Hoàng Hà đóng băng, liên quân quy mô lớn đã qua sông.
Hai bên đại chiến ở Cao Đường, Ngụy Thiệu xem xét thời thế, dời phòng tuyến luì về Mục Dã, sau đó mới phản công. Hắn lợi dụng cấu trúc phòng tuyến góc cạnh từ lúc trước, ngăn chặn khí thế công kích mãnh liệt của liên quân.
Sau đó thời tiết càng trở nên khắc nghiệt, bão tuyết lớn nhất suốt mấy chục năm qua, binh sĩ và quân mã hai bên bị chết cóng vô số người, tạm thời ngừng giao chiến chính diện, hai bên đóng quân ở hai phía của Mục Dã, xây dựng doanh trại, trong thế giằng co.
Đổng Thành trâm ngâm một lúc rồi nói: “Lão tặc có năm trăm ngàn binh đấu chọi với ba trăm ngàn, binh lực chiếm ưu thế. Bây giờ lại được Nhạc Chính Công xuất chiến hợp lực, khí thế mạnh mẽ. Theo góc nhìn của thần, phần thắng của Ngụy Thiệu không nhiều. Thần trộm nghĩ, nếu tên đó đắc thắng khải hoàn, nhất định hắn sẽ dẫn đại quân đến tấn công bệ hạ, với tình hình của bệ hạ bây giờ, chỉ e khó có thể chống lại”.
Lưu Diễm lặng yên không nói. Hắn hỏi tiếp: “Bên Viên Giả có tin tức gì không?”
Lưu Diễm xưng đế không lâu thì có sai người đi tới Thanh Châu tìm Viên Giả.
Cho tới nay hắn vẫn chưa đáp lời.
Đổng Thành đang định lắc đầu, Lưu Phiến lại bước nhanh vào trong, hai tay dâng một ống thư lên, quỳ báo sứ giả của Viên Giả đã tới, đang ở ngoài điện chờ bệ hạ tiếp kiến.
Lưu Diễm nhận được thư thì vội vã xem lướt qua một lần.
Viên Giả viết trong thư, các đời Viên gia đều nhận được hoàng ân, từ trước đến nay chỉ hận chưa thể báo đáp được. Bây giờ Hoàng đế đã phục hưng triều Hán, hắn vui đến nỗi rơi nước mắt, nguyện dẫn hai trăm ngàn quân mã dưới trướng sẵn sàng góp sức, dù phải ra trận cũng mong dựng lại được xã tắc.
Lưu Diễm xem xong, ánh mắt hơi dao động, hắn chuyển bức thư cho Đổng Thành.
Đổng Thành xem xong thì mừng rỡ như điên, nhưng sau đó hắn lại lo lắng tiếp, nói: “Bệ hạ, Viên Giả sẵn sàng góp sức thế này chỉ e sẽ có mưu đồ khác, bệ hạ không thể không đề phòng”.
Lưu Diễm đi tới trước cửa sổ, phóng tầm mắt ra ngoài cửa xa xa, bóng lưng hờ hững không nhúc nhích.
Hai tay hắn giữ lấy chấn song, từ từ nắm chặt, càng siết càng mạnh hơn. Khớp xương cũng trở nên trắng bệch, gân xanh nổi rõ.
Trong lòng hắn lúc này đang cuộn trào sóng lớn.
Sau thất bại năm ngoái của Viên Giả trước Hạnh Tốn, danh tiếng của hắn đã mất sạch nhưng vẫn luôn dưỡng sức.
Dù là vậy, lạc đà gầy còn tốt hơn ngựa ốm, Với thực lực của hắn ngày hôm nay, dù mình có khổ tâm mưu sự thế nào cũng không tìm ra cách.
Bây giờ hắn đã nhận lời đề nghị của mình, đồng ý tới đây cùng gia nhập, trong lòng Lưu Diễm cũng biết hắn có mưu đồ khác.
Nhưng điều đó có quan hệ gì đâu?
Bây giờ xung quanh hắn có nhiều người ủng hộ đến vậy, có ai mà không có lòng riêng?
Có người muốn giữ cái danh trung liệt thiên cổ, có người vì vinh hoa phú quý, không ít là mượn gió bẻ măng, gió chiều nào theo chiều ấy.
Hắn rất cần Viên Giả, cũng như Viên Giả bây giờ cần mượn thân phận của hắn để lấy lại uy phong.
Đã vậy rồi tại sao hắn lại không cần được?
Cho tới cuối cùng, ai thắng ai còn phải xem bản lĩnh.
Vì cái ngày này, hắn đã chịu đựng chờ rất lâu.
Hắn không thể bỏ qua một cơ hội thế này, có lẽ cả cuộc đời cũng khó mà tìm được cơ hội đó lần hai.
Mối hận thù nhà, mối nhục cướp thê, cả khoảng thời gian phải trắng đêm khó ngủ, nữ tử yêu quý trong lòng mình lại tuyệt tình nói rằng chuyện cũ không nên theo đuổi nữa, ngay lúc này đây, tất cả như hóa thành ngọn lửa hừng hực thiêu đốt nơi đáy lòng của hắn, làm máu nóng sục sôi, linh hồn như muốn thành tro bụi.
“Phụng chỉ, phong Viên Giả làm Đại Tư Mã, Đại Tướng quân, nhận kim ấn tử, mau tới cần vương”.
Hắn từ từ xoay người, bình tĩnh nói.
…
Trên cánh đồng Mục Dã hoang vu, gió bắc thét gào, tuyết bay đầy trời, lá cờ treo trên đỉnh doanh trướng bị gió thổi phất phơ, như thể muốn cuốn bay đi mất.
Ở vùng đất cách xa triều đình hơn bảy mươi dặm này, từng có truyền thuyết về một loài chim đỏ làm tổ, lông trắng mỏ vàng.
Giữa một ngày đông lạnh.
Đập vào mắt là cả vùng tuyết trắng mênh mang vô định.
Một ngày đông giá rét hiếm gặp suốt mười mấy năm qua.
Mặc dù trời đã vào xuân, bây giờ đã là khoảng tháng hai, nhưng khí trời chưa ấm lên chút nào.
Thời tiết khắc nghiệt khiến cho chiến sự bị cản trở nghiêm trọng.
Mỗi ngày đều có tin báo binh sĩ và chiến mã bị lạnh chết.
Số người bị đau do giá rét càng nhiều vô số kể.
Tình trạng này khiến cho Ngụy Thiệu khó có thể tổ chức tác chiến chính diện với liên quân Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công.
Những vấn đề vây khốn hắn cũng đang quấy nhiễu Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công như vậy.
Sau đại chiến ở Cao Đường lần trước, hai bên chưa từng tiến hành cuộc giao chiến chính diện trên quy mô lớn nào nữa.
Thỉnh thoảng chỉ đánh mấy trận bất ngờ không đến nơi đến chốn.
Không ai chủ động khởi xướng tiến công, cũng không ai muốn lùi về sau cả.
Cách con sông Hoàng Hà, mỗi bên đều dựng trại đóng quân, từ xa nhìn lại, chờ tới khi khí trời chuyển biến tốt hơn, họ mới có thể nắm lấy cơ hội đánh cho đối phương một đòn trí mạng.
Tình thế đối lập này kéo dài hơn nửa tháng.
…
Mới tới giờ Dậu, trời bắt đầu nhá nhem.
Trên giày và bắp chân Ngụy Thiệu đầy tuyết đọng, vang lên từng tiếng xì xèo, để lại từng dấu chân thật sâu trên nền tuyết.
Hắn vừa mới đi tuần sát địa hình ở Hoàng Hà quay về. Nhanh chóng bước vào nha môn, nhờ chút ánh sáng còn sót lại, hắn nhìn thấy một tên lính đang đứng trong góc hàng rào bên doanh trại, trong tay cầm một cây giáo, không nhúc nhích.
Mũ giáp và bả vai của hắn bám đầy tuyết đọng.
Ngụy Thiệu dừng bước.
Lôi Viêm vội bước tới thật nhanh.
Sai khi trở lại, vẻ mặt hắn nặng nề thấp giọng báo cáo: “Đã chết rồi”.
Ngụy Thiệu nhìn binh lính chết đứng kia, trầm mặc chốc lát rồi xoay người đi vào nha môn.
Trong đại trướng của chủ soái, Ngụy Thiệu vừa cởi chiếc mũ chiến và áo khoác dính tuyết, nghe một loạt tiếng bước chân bên ngoài, Công Tôn Dương và Vệ Quyền đã tới.
Gần đây Công Tôn Dương lại ho khan nặng hơn.
Ngụy Thiệu sợ ông không chịu được giá lạnh nên cố ý dặn dò tăng gấp đôi lượng than sưởi ấm trong doanh trướng của ông.
Thấy ông đi vào, còn chưa kịp mở lời đã ho khan vài tiếng, hắn nói vội: “Khí trời giá lạnh, tiên sinh có việc thì cứ cho người truyền lời, ta sẽ đi sang trại của tiên sinh”.
Công Tôn Dương khoác tay áo một cái, nói: “Ban ngày vừa có tin tức tới, phế đế băng hà, Lưu Diễm được Vương Bá, Đổng Thành ủng hộ xưng đế, Viên Giả sẵn sàng góp sức, được phong làm Đại Tư Mã”.
Ngụy Thiệu ngồi nghiêm túc sau án, bóng người không nhúc nhích, chỉ có đôi mắt hơi híp lại một chút.
Vệ Quyền nói thêm: “Theo lý thuyết, Lưu Diễm xưng đế, lại được hai trăm ngàn binh mã của Viên Giả trợ lực, nhân cơ hội này nếu có phát binh chiếm đánh Lạc Dương cũng là lẽ thường tình. Chỉ có điều thám tử báo lại, hắn không hề có động tĩnh gì cả, hình như không có ý công chiếm Lạc Dương”.
Ngụy Thiệu thờ ơ nói: “Có gì lạ đâu chứ. Nếu Lưu Diễm phát binh tấn công Lạc Dương vào lúc này, nhất định Hạnh Tốn sẽ lui binh về cứu, nếu vậy chẳng phải sẽ cho ta thừa cơ tận dụng sao? Hắn ta đang tính chờ ta lưỡng bại cầu thương với Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công trước, sau đó mới ngư ông đắc lợi”.
Vệ Quyền đáp: “Chúa công nói có lý. Mặc dù khí trời hôm nay rất giá lạnh, nhưng một khi bão tuyết ngừng hẳn là có thể khai chiến ngay, nhiều nhất là tới cuối tháng này. Hàng ngũ Lưu Diễm, Viên Giả thì không đáng phải sợ, trước tiên chúa công nên toàn lực ứng chiến với liên quân Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công trước đã”.
Ngụy Thiệu đứng dậy khỏi sạp nhỏ, đi quanh đại trướng chủ soái một lúc rồi dừng lại nói: “Với kết quả đối chiến bây giờ, tiên sinh và trưởng sứ có kiến giải gì không?”
Công Tôn Dương và Vệ Quyền liếc nhau một cái, nói: “Hạnh Tốn nhờ có sự giúp đỡ của Nhạc Chính Công mà nhân mã đã vượt xa chúng ta, binh kiêu tướng ngạo. Cứ theo đà này, tấn công mạnh mẽ cũng không phải là thượng sách”.
Ngụy Thiệu trầm ngâm đáp: “Suy nghĩ của tiên sinh cũng giống với ý ta. Hôm nay ta đi theo lối mòn ở bên sông Hoàng Hà, nhìn về trại địch đối diện. Mặc dù hai quân trướng của Hạnh Tốn và Nhạc Chính Công dày đặc khắp nơi nhưng hàng rào rõ ràng, bên trong còn có rào ngăn cách. Theo tin từ thám tử, mấy ngày trước, quân sĩ hai quân còn xảy ra ẩu đả…”
Hắn ngừng lại, bước nhanh tới trước án rồi lấy đũa chấm vào bình rượu, vẽ ra một vết trên mặt án, sau đó lại tách ra hai đoạn.
“Hạnh Tốn có thể liên hợp với Nhạc Chính Công, ta muốn hai người họ lục đục”.
Vệ Quyền vỗ tay cười nói: “Chúa công anh minh! Ta và quân sư tới gặp chúa công cũng là vì chuyện này. Nghe nói Nhạc Chính Công mới thu nhận một mưu sĩ tên là Trúc Tăng và rất được coi trọng. Trước kia hắn lại là phụ tá của Hạnh Tốn. Tên Trúc Tăng này có nhiều chỗ để khai thác!”