Bình thường Cố Cửu và Thiệu Dật đều cố gắng tránh không để người khác biết đến sự tồn tại của những người giấy.
Nhưng có một lần, đúng lúc Cố Cửu đang vẽ người giấy thì Ngân Linh đột nhiên chạy vào tình cờ nhìn thấy.
Khi đó cô bé cực kì thích thú, còn chơi đùa với nó thật lâu, lúc nhóc người giấy đó ra đi, Ngân Linh khóc thê thảm vô cùng.
Ngân Linh lấy hoa dại trong rổ ra đặt trước nấm mộ, Cố Cửu thì đi thay nước sạch để lau tượng, cậu để cô bé ở lại tự mình thì thầm trò chuyện với người giấy.
Một lát sau, Ngân Linh muốn xuống núi, Cố Cửu liền tạm ngưng việc trong tay để đưa bé xuống.
Trên đường đi, Cố Cửu thấy Ngân Linh cứ liên tục nhìn quanh quất bèn hỏi: “Con tìm gì vậy?”
Ngân Linh trả lời: “Con tìm Tiểu Thụy, bạn ấy đã nói sẽ chờ con ở đây.”
Cố Cửu rất ít khi tiếp xúc với mấy đứa bé khác dưới chân núi nên không biết tên của chúng.
Cậu cười nói: “Chắc Tiểu Thụy chạy đi chỗ khác chơi rồi, con xuống dưới ghé ngang nhà bạn ấy xem bạn ấy về chưa.”
Ngân Linh ở trên đạo quan gần nửa giờ, hẳn là cậu bé kia đã sớm đi mất rồi, trẻ con mà, phải đợi lâu thì rất chóng chán.
…
Hai ngày sau là ngày sinh thần của Đẩu Mẫu.
Thái Nguyên Quan không lớn lắm, chỉ có ba điện thờ, dạo qua một vòng là hết, nhưng mấy năm nay nhờ có hai sư huynh đệ Cố Cửu ở lại nên số người biết đến nơi này càng ngày càng nhiều, biết hai người họ xem bói rất linh nghiệm, vì thế vào mỗi dịp lễ lạt trong quan cũng khá bận rộn.
May mắn là số người tin thờ Đẩu Mẫu Nguyên Quân không nhiều nên dù khách thập phương có tấp nập hơn bình thường thì Thiệu Dật và Cố Cửu vẫn cáng đáng nổi.
Sau khi tiễn vị tín hữu cuối cùng rời khỏi đạo quan, Cố Cửu chạy lại bàn rót trà liên tục.
Cậu ngồi tính quẻ suốt cả ngày hôm nay, khàn cả giọng luôn.
Thiệu Dật cũng chẳng khá hơn là bao, trong tay hắn cũng cầm một chén trà, thỉnh thoảng nhấp một ngụm.
Thiệu Dật hỏi: “Hôm nay ăn gì?”
Cố Cửu úp sấp trên bàn, nghiêng mặt ậm ừ trả lời: “Hôm nay Trần đại tẩu có cho mấy đĩa thức ăn và bánh bột ngô, lát nữa làm đại món gì ăn thôi.”
Vì chuẩn bị cho ngày hôm nay mà đã mấy ngày rồi Cố Cửu chạy tới chạy lui lo đủ việc trong ngoài, mệt muốn chết, bây giờ mọi chuyện xong rồi, được thả lỏng rồi nên cậu chẳng muốn động đậy nhúc nhích gì nữa.
Thiệu Dật đặt chén trà xuống: “Ta đi rửa rau.”
Bao nhiêu năm rồi mà tay nghề nấu nướng của Thiệu Dật vẫn chẳng khá khẩm hơn là bao, vì vậy bình thường hắn sẽ sơ chế nguyên liệu rồi để Cố Cửu đảm nhiệm bếp chính.
Cố Cửu nghe Thiệu Dật nói thì chỉ quờ quạng vẫy tay như con rối đứt dây, tỏ ý tiễn người.
Lúc Thiệu Dật làm xong đi lên định gọi Cố Cửu xuống nấu thì phát hiện ra cậu đã ngủ khì từ bao giờ.
Thiệu Dật đẩy đẩy đầu Cố Cửu: “Cố Cửu, đừng ngủ, dậy nấu cơm.”
Mắt Cố Cửu díp cả lại không mở lên nổi, mềm mụp mà làm nũng, mè nheo với Thiệu Dật: “Sư huynh, cho đệ ngủ một xíu nữa đi.”
Thiệu Dật nói: “Muốn ngủ thì về phòng mà ngủ, bị bệnh rồi lại bắt ta chăm.”
Cố Cửu sợ lạnh, quanh năm phải chống chọi với âm khí trong cơ thể nên cậu rất hay bị bệnh, ngay cả mùa hè cũng dễ bị cảm vặt.
Cố Cửu lẩm bẩm lầm bầm vài tiếng vô nghĩa, không thèm nhúc nhích.
Thiệu Dật lại đưa tay đẩy cậu lần nữa, nào ngờ cái đầu nhỏ xinh kia tham hơi ấm, một mực dính lấy đôi tay ấm sực của Thiệu Dật, tì cả khuôn mặt lên đôi tay nóng hầm hập của sư huynh mình, rồi nằm im.
Thiệu Dật phẩy phẩy tay, nhìn thấy Cố Cửu co rụt bả vai thì không kiên nhẫn mà hừ một tiếng.
Hắn rút tay về, khom lưng bế ngang hông Cố Cửu lên, nhíu mày: Sao lại có cảm giác nhẹ đi nhỉ?
Cố Cửu thoải mái ủn ủn đầu vào bả vai Thiệu Dật, cảm giác thật dễ chịu, cứ như đang cuộn mình trước một cái lò sưởi khổng lồ vậy, suиɠ sướиɠ tận cùng.
Được sư huynh bế trở về phòng, Cố Cửu cứ thế khò khò ngủ say sưa không tỉnh.
Thiệu Dật đặt Cố Cửu lên giường, đắp chăn cho cậu cẩn thận xong mới đi xuống bếp.
Kết quả có thể đoán được, cơm chiều hôm nay Thiệu Dật nấu, tuy mùi vị chẳng ngon nghẻ gì cho cam nhưng ít nhất cũng là cơm canh nóng sốt.
Hắn biết Cố Cửu không ăn lạnh được nên đã hâm đồ ăn rất kĩ.
Cố Cửu đánh được một giấc no nê liền lên tinh thần hẳn, vừa tỉnh dậy đã được Thiệu Dật gọi đi ăn cơm.
Cậu húp một ngụm canh, canh trôi đến đâu người nóng lên đến đó.
Cố Cửu bưng chén hớn hở ca ngợi: “Sư huynh tuyệt nhất!”
Thiệu Dật không buồn ngẩng lên, đáp: “Có nịnh ta thì cũng là đệ rửa chén.”
“Đệ rửa, đệ rửa mà.”
Trong hai người thì cuối cùng Thiệu Dật lại là người ăn chậm hơn.
Hắn ngược với Cố Cửu, không ưa thức ăn nóng, đặc biệt là vào mùa hè.
Lúc vào hè, mỗi khi làm xong cơm Cố Cửu sẽ không dọn lên bàn ngay mà đặt vào chậu nước lạnh một chốc cho nguội bớt.
làm như vậy thì khi dọn cơm lên Thiệu Dật có thể ăn được ngay.
Hôm nay Thiệu Dật nấu ăn, không chú ý đến việc này nên lúc ăn hắn phải cầm quạt quạt lia lịa một hồi mới ăn được canh.
Mà dù đã quạt cho nguội bớt rồi nhưng Thiệu Dật vẫn cứ đổ mồ hôi ròng ròng.
Mùa hè trời nóng, Cố Cửu cũng bất lực, thời đại này làm gì có quạt hay máy điều hòa.
Cố Cửu ăn xong trước bèn ngồi một bên quạt cho Thiệu Dật đỡ nóng.
Càng lớn Thiệu Dật càng thành thạo trong việc khống chế khí Kim Canh, mấy năm nay hắn rất ít khi bị thương vì khí Kim Canh hoành hành trong cơ thể.
Tuy nhiên, chỉ cần ngày nào chúng còn tồn tại thì ngày đó hắn vẫn còn như đeo gông xiềng nặng nề, cho nên cái tính hay cáu bẳn, hở một tí là nhăn mặt ngày xưa vẫn không thay đổi chút nào.
Giải quyết xong cơm tối, Cố Cửu đi xuống bếp dọn dẹp, sẵn tiện đun nước tắm luôn.
Thiệu Dật thì đã đi tắm rồi, hắn ưa xách nước giếng ngoài sân vào để xối thẳng lên người, như vậy mới thấy dễ chịu.
Cố Cửu vừa mới vừa xếp chén dĩa sạch sẽ lên chạn bếp xong thì bỗng dưng nghe thấy một tiếng khóc không biết từ đâu vọng đến, tiếng khóc văng vẳng lúc có lúc không, u oán nức nở.
Cậu vội vàng lau tay qua loa rồi chạy ra xem, Thiệu Dật cũng từ trong phòng tắm bước ra, tóc còn ướt đẫm bết lại trên trán, trên người hắn chỉ mặc độc một chiếc quần dài, nước nhỏ tong tong.
Cố Cửu nói: “ Huynh mặc đồ trước đi, để đệ ra xem cho.”
Sau đó, Cố Cửu theo tiếng khóc lần ra ngoài, thì ra là âm thanh từ ngoài cổng đạo quan vọng vào.
Lúc cậu ra tới nơi, Tiểu Đệ đã đứng sẵn cạnh cửa từ lúc nào, đôi mắt mèo xanh lục tỏa sáng lập lòe trong đêm.
Cố Cửu lên tiếng hỏi: “Ai ở ngoài đó?”
Không có ai đáp lại, chỉ có tiếng than khóc càng rõ rệt hơn.
Đừng nói là quỷ nha? Nếu là quỷ thật thì con quỷ này lá gan cũng mập lắm, dám đứng khóc ngay trước cửa đạo quan, đời quỷ rơi vào bế tắc hay sao vậy trời?
Cố Cửu thò tay lấy hai lá bùa ra sẵn để đề phòng tình huống bất ngờ rồi mới đi mở cửa.
Trời vẫn chưa tối hẳn, còn đang nhá nhem, Cố Cửu vừa mở cửa thì quả nhiên thấy cách cổng lớn khoảng năm mét là một con quỷ đang đứng khóc, khóc thê thảm đến mức nước mắt nước mũi tèm lem.
Nó vừa thấy Cố Cửu bước ra bèn mừng rỡ bước lên trước hai bước, nhưng sau đó lại sợ hãi giật lùi về ngay.
Con quỷ này là quỷ nam, đồ mặc trên người đều là hàng tơ lụa tốt, có thể thấy được lúc còn sống xuất thân từ gia đình giàu có, chỉ là ánh mắt cậu ta nhìn Cố Cửu có vẻ nhát gan sợ sệt.
Cố Cửu thấy trên người con quỷ này không có ánh đỏ, tức là chưa từng làm điều ác, không biết tại sao rõ ràng nhút nhát như vậy mà lại dám một thân một mình chạy tới đạo quan đứng khóc lóc ỉ ôi thế này.
Đúng lúc này, Thiệu Dật cũng ra tới, hỏi: “Sao lại thế này?”
Cố Cửu đã kịp hỏi han gì đâu, còn chưa kịp trả lời thì con quỷ phía xa xa lắp bắp lên tiếng trước: “Ngân…Ngân Linh!”
Cố Cửu nghi hoặc quay lại: “Ngân Linh? Là Trần Ngân Linh ở dưới chân núi sao? Nó bị làm sao?”
Con quỷ đột nhiên òa lên khóc tức tưởi như một đứa bé: “Ngân Linh bị…bị người xấu bắt mất rồi!”
“Làm sao lại thế?” Vừa nghe Ngân Linh xảy ra chuyện, Cố Cửu nghiêm mặt ngay.
Sáng nay cậu vừa mới gặp cô bé theo mẹ lên núi dâng hương, cô bé còn cho Tiểu Đệ mấy quả dại vừa hái được kia mà.
Cố Cửu bước lên vài bước định hỏi cho rõ đầu đuôi, ai ngờ con quỷ này to xác mà nhát gan kinh khủng, cậu vừa tới gần thì nó liền co rúm người ngồi phịch xuống đất la oai oái như sắp bị diệt khẩu đến nơi.
Hai lỗ tai Thiệu Dật đột ngột bị khủng bố làm hắn giật nảy mình, nhìn thấy đối phương khóc la thảm thiết quá hắn mới ráng dằn xuống ham muốn hành hung con quỷ trước mặt ngay và luôn.
Cố Cửu lùi về phía sau một chút, ngồi xổm xuống trấn an cậu ta: “Bọn tôi tuy là đạo sĩ thật, nhưng không phải quỷ nào cũng bắt đâu.
Cậu đừng khóc, cậu nói Ngân Linh bị bắt đi rồi, vậy cậu có biết là bị ai bắt đi, mất tích ở chỗ nào không? Rồi cha mẹ của Ngân Linh có biết chưa?”
Cố Cửu ngồi xuống như vậy để cố gắng giảm bớt cảm giác uy hϊếp cho người đối diện.
Con quỷ nhát hít này kêu la ầm ĩ một hồi thì bắt đầu sụt sịt, trông cũng khá hơn một tí.
Cậu ta sợ thì sợ thật, nhưng sau cùng vẫn không quên mục đích mình mạo hiểm tới đây, bất chấp cả nguy cơ bị đạo sĩ bắt được.
Cậu ta cố gắng hết sức giữ bình tĩnh, bắt đầu run rẩy kể lại sự tình.
Khổ nỗi con quỷ này tuy đã thành niên nhưng đầu óc chỉ như một đứa trẻ lên bốn lên năm, nói năng lộn xộn rời rạc, lại hay quên, một ý nói đi nói lại quá nhiều lần.
Hơn nữa cậu ta còn bị tật nói lắp, lại thêm nhát gan, kể tới đoạn nào đáng sợ thì vừa nói vừa mếu máo.
Thiệu Dật vốn nóng tính không kiên nhẫn, hắn mới vừa nghe được vài câu thì đã che tai lại không thèm nghe nữa, đợi Cố Cửu nghe xong rồi thuật lại vậy, kẻo hắn kìm không được ra tay trừ tà mất.
Cố Cửu vật vã một hồi mới nghe hiểu hết, cậu nhìn con quỷ nọ, nói: “Thì ra cậu chính là Tiểu Thụy, bạn thân của Ngân Linh.”
Lúc còn bé, Ngân Linh đã từng bị bắt gặp nói chuyện với không khí nên cha mẹ bé mới lên đạo quan nhờ hai người giúp đỡ.
Tuy nhiên, thẻ bài hộ thân bé đeo trên người cũng chỉ ngăn quỷ quái làm hại bé chứ không đảm bảo bé không thấy được quỷ nữa, không ai ngờ cô bé con này bá đạo đến mức dám kết bạn với cả quỷ.
Nơi Ngân Linh gặp chuyện không phải ở gần đây, Tiểu Thụy mô tả cũng mơ hồ, xem ra phải xuống núi hỏi hai vợ chồng nhà họ Trần thì mới có manh mối.
Cố Cửu và Thiệu Dật trở vào trong lấy đồ đạc, bế cả Tiểu Đệ theo, sau đó vội vàng đi một mạch xuống núi, Tiểu Thụy thì bay phất phơ theo phía sau.
Xuống đến nơi, nhóm Cố Cửu thấy trong nhà Ngân Linh đang sáng đèn, đầy vẻ ấm áp thanh bình.
Cố Cửu tiến lên gõ cửa, hai vợ chồng nhà họ đang ăn cơm, thấy bọn họ đột ngột xuống núi ngay trong đêm tối thì giật mình: “Trời đã tối thế này rồi mà hai vị đạo trưởng còn phải ra ngoài sao?”
Cố Cửu chỉ cười một tiếng, hỏi đơn giản: “Sao không thấy Ngân Linh vậy Trần đại ca?”
Trần Lượng đáp: “Bà ngoại con bé không được khỏe, nhớ cháu nên bảo cậu cả nó sang đón về thăm.”
“Đi từ chiều phải không ạ?”
“Đúng vậy, cho con bé ăn cơm xong là đi ngay.
Có chuyện gì sao?”
Cố Cửu thở dài, không giấu diếm: “Tôi cho rằng Ngân Linh đang gặp nạn, bát tự của Ngân Linh vốn âm, tôi nghi ngờ có người mang cô bé đi làm đám cưới ma.”
“Đám cưới ma!?” Cha mẹ Ngân Linh hoảng sợ hét lên.
Trần Dư thị kinh hãi hỏi dồn: “Cố đạo trưởng, làm sao cậu biết? Sao cậu biết Ngân Linh xảy ra chuyện?”
Cố Cửu nói: “Chúng ta vẫn nhanh chóng đến nhà anh trai tẩu xem sao đã, tôi sẽ thuật lại trên đường đi.”
Trần Lượng chỉ luống cuống một lát rồi trấn tĩnh lại ngay.
Anh ta rất tin tưởng bản lĩnh của Cố Cửu và Thiệu Dật, đặc biệt là Thiệu Dật, người được Phương Bắc Minh dạy dỗ từ tấm bé.
Trần Lượng nói: “Tôi đi lấy xe bò.”
Trần Dư thị chùi nước mắt: “Tôi cũng đi.”
Cố Cửu gật đầu đồng ý, đó là nhà mẹ đẻ của chị ấy, có việc gì chị ấy đứng ra nói cũng dễ xử lí hơn.
Có ánh trăng soi đường, bốn người một mèo và một quỷ nhát gan vội vàng lên đường sang thôn bên nhà mẹ đẻ của Trần Dư thị.
Hai nơi cách nhau không xa mấy, xe bò chạy khoảng một canh giờ thì đến thôn họ Dư.
Đêm đã khuya, trong thôn ngoại trừ tiếng chó sủa thì không còn tiếng động nào khác, bốn bề vắng lặng, trời tối đen như mực.
Nhà họ Dư sống trong căn nhà ngói gạch xanh kiểu tứ hợp viện ở cuối thôn, hai huynh đệ Cố Cửu đi theo Trần Dư thị đến trước cửa nhà.
Nhà họ có nuôi chó, nó vừa nghe thấy âm thanh ngoài cửa thì sủa váng cả lên.
Cố Cửu nhịn lắm mới không phá cửa cho nhanh gọn lẹ, cậu ngoắc Tiểu Thụy lại, hỏi: “Ngân Linh đang ở dãy bên nào?”
Tiểu Thụy sợ sệt chỉ chỉ phía bên trái.
Cố Cửu quay sang nói với Trần Dư thị: “Ngân Linh có thể đang ở trong dãy phòng bên trái.”
Chị ta nói: “Đó là phòng ngủ của anh cả tôi.” Chị nói xong thì nhích gần lại bên cạnh chồng mình, trên đường đi chị đã nghe Cố Cửu kể rõ mọi chuyện, trong lòng rất cảm động.
Ban đầu nghe Cố Cửu nói người báo tin là một con quỷ thì chị cũng hoảng hốt, nhưng sau khi biết được con quỷ này vì lo lắng cho Ngân Linh mà dám mạo hiểm như vậy thì cảm thấy được an ủi hơn nhiều.
Họ vừa xác định xong vị trí của Ngân Linh thì trong nhà cũng thấp thoáng ánh đèn, có người bước ra quát con chó giữ nhà vẫn đang sủa không ngừng kia, bắt nó im lặng.
Cố Cửu né sang một bên, Thiệu Dật bước lên trước, tung chân sút một cú gọn gàng, hai cánh cửa gỗ kêu đánh “rắc” một cái, gãy lặt lìa văng ra xa.
“Có cướp!” Người vừa lò dò đi ra hoảng hồn hoảng vía, gã chỉ vừa la lên một tiếng, chưa kịp làm gì thì con chó bên cạnh gã đã nhanh hơn một bước, vồ lên.
Thiệu Dật nhanh như chớp vung roi quấn lấy con chó ném sang một bên.
Con chó không bị thương gì, còn toan nhào lên lần nữa thì bị Trần Dư thị nạt lớn.
Chị thường xuyên về thăm nhà nên con chó nhận ra chị, nó nghe thấy giọng quen bèn lùi lại, chần chừ không biết làm sao.
Người bước ra còn chưa kịp định thần thì đã tiếp tục bị dọa hết hồn khi thấy rõ người tới là ai.
“Muội?”
“Dư Đại Dũng, Ngân Linh nhà tôi đâu?!” Bao nhiêu cảm xúc lo lắng, nôn nóng và giận dữ của Trần Dư thị như bộc phát ra hết vào giờ phút này.
Chị ta chạy xộc qua túm chặt lấy cổ áo của anh trai mình, quát lớn.
Hai người Cố Cửu nhanh chóng chia nhau xông vào từng gian phòng một tìm kiếm Ngân Linh, để mặc kệ họ tranh chấp giằng co ngoài sân.
“Các người làm gì đó!” Dư Đại Dũng thấy vậy vội vàng tìm cách né khỏi em gái mình rồi chạy qua có ý đồ ngăn cản.
Đúng lúc này, Trần Lượng đá văng cửa một gian phòng, vừa nhìn vào đã thấy ngay con gái mình đang nằm trên giường.
Anh ta thở phào, thả lỏng một chút, quay đầu lại hô lớn: “Tìm được rồi!”
Cố Cửu và Thiệu Dật nghe thấy tiếng gọi thì dừng lại, chỉ chốc lát sau đã lục tục tiến vào phòng.
Lạ lùng thay, bên ngoài xôn xao ầm ĩ như vậy mà vẫn không làm Ngân Linh đang say ngủ thức giấc.
Trần Lượng ôm con gái vào lòng, lay lay mấy cái nhưng cô bé vẫn không nhúc nhích tí nào, thế là tâm trạng vừa mới tốt lên một chút của anh ta lập tức xấu đi.
Trần Lượng ngoái đầu lại, cầu cứu: “Đạo trưởng, con gái tôi làm sao thế này?”
Thiệu Dật và Cố Cửu cùng bước lại gần xem thử, đồng thanh thốt lên: “Hồn phách rời thân.”
(*) Đám cưới ma: nguyên văn là minh hôn.
Minh hôn còn được gọi là âm hôn hay đám cưới ma.
Minh hôn là đám cưới có sự kết duyên giữa hai người đã mất hoặc một người đã mất và một người còn sống.
Đây là một hủ tục vẫn còn tồn tại ngày nay ở nhiều vùng ở Trung Quốc..