Linh Phi Kinh

Chương 1

“Thiên Hạ Đệ Nhất Nhân - Thế Gian Vô Song Đạo”(*)
(ND chú: có nghĩa là nhân vật số một trên đời, Đạo có một không hai trên thế gian)

Một tấm bia đá màu xanh rêu, mặt trên khắc mười chữ vàng, gió mưa mày mòn bao năm, nét chữ đã nhạt mờ loang lổ.

Một vị đạo sĩ đứng trước mặt bia, chăm chú ngắm nghía hồi lâu rồi ngẩng đầu nhìn về phía tòa nhà lớn đằng trước, nơi ấy lớp lớp ngói xanh, tráng lệ vô cùng, đầu cổng có đề hai chữ "Thích phủ".

- Lão mũi trâu! - Thằng gác trông thấy đạo sĩ, nom dáng vẻ khả nghi bèn cảnh giác: - Ông định làm gì?

- Hóa duyên! - Đạo sĩ thuận miệng đáp.

Thằng gác cổng xùy một tiếng, quay đầu vào trong í ới: 
- Có kẻ đến xin cơm này!

- Bần đạo không xin cơm! - Đạo sĩ khẽ lắc đầu.

- Ông đương nhiên là không xin cơm! - Thằng đầy tớ hai tay chống nạnh, ra vẻ chế giễu: - Ông xin tiền chứ gì?

- Bần đạo cũng không xin tiền.

- Không xin tiền? - Thằng đầy tớ lấy làm lạ: - Chớ ông muốn cái gì?

Đạo sĩ mỉm cười chỉ vào chữ "Đạo" trên tấm bia.

- Vậy là ý gì? - Thằng đầy tớ cảm thấy quái lạ.

- Đạo khả đạo, phi thường đạo(*), nếu thế gian đã có đạo tự coi là vô song, thì thân làm đạo sĩ như ta đây thật muốn thỉnh giáo!
(ND chú: "Đạo khả đạo, phi thường đạo" - nguyên sơ câu nói này của Lão Tử là "Đạo khả đạo, phi hằng đạo, danh khả danh, phi hằng danh.". Tuy nhiên vào triều Tây Hán, vì tránh tên húy của Hán Văn Đế - Lưu Hằng, chữ "Hằng" phải đổi thành "Thường"! Chữ "Đạo" đầu tiên biểu thị chân lý của vạn sự, vạn vật; "Khả Đạo" - chỉ có thể miễn cưỡng gọi là đạo; "Hằng" - vĩnh viễn bất biến; "Phi Hằng Đạo" - không phải chân lý vĩnh viễn bất biến. Nghĩa câu trên chính là: ý nghĩa thật sự của "Đạo" vốn không thể tôn xưng hay mệnh danh, chỉ có thể miễn cưỡng gọi là Đạo mà thôi) 

Thằng đầy tớ biến sắc: 
- Lão mũi trâu, ông đến để gây sự?

- Luận đạo mà thôi, nào dám gây sự! - Đạo sĩ cúi đầu hành lễ: - Phiền cậu chuyển lời cho Thích Ấn Thần Thích đại tiên sinh.

- Xui cho ông! - Thằng đầy tớ lắc lắc đầu: - Lão gia nhà ta đã đi Khai Phong rồi.

- Bao giờ thì về?

- Không rõ! - Thằng đầy tớ bắt đầu mất kiên nhẫn: - Lão mũi trâu, lão gia nhà ta thiên hạ vô địch, nếu ông định kiếm cớ sinh sự, ta khuyên ông nên suy nghĩ lại đi!

- Thiên hạ vô địch? - Đạo sĩ nhíu mày phì cười, giơ tay phải ra, đốt ngón tay thon gầy xương xẩu như cành trúc. Ông tiện thể hất tay, đầu ngón lướt qua làm cho vụn đá trên mặt bia rào rào đổ xuống, phía trên chữ "Nhất" liền hiện ra thêm một nét ngang, trở thành chữ "Nhị" to tướng.

Một chỉ này kinh thế hãi tục, thằng đầy tớ há mồm đơ lưỡi chẳng biết phải làm sao. Đạo sĩ lại điềm nhiên như không, tỉnh bơ bôi đi chữ "Song" trên tấm bia, đoạn chìa tay vẽ loạc xoạc đề thành chữ "Túc", nét như rồng bay phượng múa.

Thành thử, dòng chữ trên tấm bia lúc này trở thành "Thiên Hạ Đệ Nhị Nhân, Thế Gian Vô Túc Đạo"(*) Bao nhiêu khí thế ngạo nghễ đều bị quét tan sạch sẽ, chỉ còn lại nỗi nhục nhã tràn trề. 
(ND chú: Nhân vật chỉ đứng hạng hai trên đời, Đạo nhỏ tầm thường trên thế gian)

Thằng đầy tớ trố mắt nhìn đạo sĩ, mặt mày tái mét: 
- Lão mũi trâu... Ông, ông là ai...

Đạo sĩ ngẩng đầu lên, đôi tròng mắt nhạt màu sáng quắc lên: 
- Bần đạo là Linh đạo nhân, kẻ vô danh nơi sơn dã, bấy lâu nghe tiếng Thích tiên sinh luôn tự hào về vô song chi đạo nên cố ý đến xem thử. Ta trọ lại quán Thừa Hoàng cách đây mười dặm, nếu như Thích tiên sinh trở về, mong người hạ cố ghé thăm tệ quán để cùng luận đạo cho tỏ tường. Quá hạn ba ngày ta sẽ không đợi nữa!

Nói đoạn nghênh ngang bỏ đi.


Tiếng ngựa hí vang xé toang màn sương sớm, Thích Ấn Thần thúc ngựa tung vó trông về tòa phủ đệ xa xa đằng trước, trên trán in hằn nét mỏi mệt.

- Cha! - Một gã thiếu niên chạy ùa ra như bay, quỳ sụp xuống mừng rỡ: - Người cuối cùng cũng về rồi!

- Chạy chết mất hai thớt ngựa! 

Thích Ấn Thần nhảy xuống đất, vỗ về lưng ngựa, khẽ thở dài một hơi. Con ngựa tốt này mồm mép sùi bọt trắng, cũng sắp liêu xiêu chực ngã đến nơi.

- Yến Chi! - Thích Ấn Thần đảo mắt nhìn về phía con trai: - Việc ấy là thật chứ? Lúc nhận được bồ câu đưa thư, ta đang chơi cờ cùng lão hòa thượng Trí Thanh ở chùa Đại Tướng Quốc.(*)
(ND chú: một ngôi chùa cổ nổi tiếng thuộc Khai Phong tỉnh Hà Nam)

- Nếu không phải bất đắc dĩ, con tuyệt đối không dám quấy nhiễu đến nhã hứng của cha. - Thích Yến Chi rũ đầu xuống, khẽ giọng: - Nếu cha không tin có thể nhìn tấm bia.

Thích Ấn Thần bước lại gần bia đá chăm chú quan sát. Toàn thể tôi tớ của Thích phủ đứng xung quanh đều nín thở theo dõi.

- Cương cực phản nhu! - Thích Ấn Thần vuốt tay lên chữ "Túc" ấy, nhẹ giọng bảo: - Chỉ lực mới lợi hại làm sao!

Hai từ "Lợi hại" thốt ra từ chính miệng lão, Yến Chi từ lúc sinh ra đến giờ mới lần đầu nghe thấy, gã mau miệng hỏi: 
- Cương cực phản nhu nghĩa là sao?

- Chữ này liếm vào đá rất sâu, nếu muốn thực hiện cần phải có chỉ lực vô cùng mạnh mẽ, nhưng nếu dùng lực mạnh mẽ sẽ khiến cho nét bút xung quanh rạn nứt; nhưng con xem, chữ "Túc" này nét bút tròn đầy, đường viền mượt mà, giống như có kẻ dùng bút lông sói mềm mại viết lên đậu phụ với nét ngòi dứt khoát không hề ngập ngừng.

Thích Yến Chi nghe đến nghệch mặt, lẩm bẩm hỏi: 
- Cha... cha làm được như vậy không?

Thích Ấn Thần mỉm cười không đáp, điềm nhiên hỏi: 
- Vị đạo sĩ ấy còn ở quán Thừa Hoàng chứ?

- Thưa, vẫn còn! Theo tin tức mà con thăm dò, sau khi ông ta vào đạo quán rồi thì suốt ngày ở lì trong phòng, ngoại trừ ba bữa cơm một ngày, hầu như không gặp ai khác.

Thích Yến Chi nói đến đây thầm cảm thấy khó hiểu: 
- Chẳng biết ông ta có ý định gì nữa?

- Trước cơn giông bão bao giờ đất trời cũng tĩnh lặng! - Thích Ấn Thần khép đôi mắt lại, nói với vẻ xa xăm: - Ông ta đang muốn tích sức chờ thời đây mà!

Thích Yến Chi vội hỏi: 
- Cha đã nghỉ ngơi chưa?

- Ta đã ngủ trên lưng ngựa rồi! - Thích Ấn Thần phẩy tay áo, hờ hững bảo: - Được lắm, vậy giờ ta đến quán Thừa Hoàng xem sao.

Thích Yến Chi thoáng ngần ngừ, thấp giọng bảo: 
- Chẳng rõ ai để lộ tin tức mà bên ngoài quán Thừa Hoàng có rất đông nhân sĩ võ lâm kéo đến hóng chuyện.

- Vậy thì sao? - Thích Ấn Thần lườm gã: - Con nghĩ ta sẽ thua à?

- Đương nhiên là không rồi. - Thích Yến Chi trở nên kích động: - Cha vốn là thiên hạ vô địch mà.

- Thiên hạ vô địch chẳng qua chỉ là hư danh mà thôi. - Thích Ấn Thần thờ ơ nói: - Yến Chi, con cho rằng vì sao ta lại lập ra tấm bia này?

- Để biểu trương thần công cái thế của cha!

Thích Ấn Thần lắc đầu, chắp tay sau lưng nói: 
- Tấm bia đá này chỉ là mồi câu mà thôi.

- Mồi câu à? - Thích Yến Chi ngẩn người.

- Không sai! - Thích Ấn Thần phá lên cười to: - Ta muốn dùng thứ mồi câu này để nhử cao thủ trong thiên hạ, hôm nay may mắn dính được một con cá lớn rồi.

Nói rồi, lão vừa cười dài vừa sải bước tiến về hướng bắc.

Lão đi bằng chân còn nhanh hơn cả phi ngựa, nhoáng cái đám người cưỡi ngựa trong phủ đã bị bỏ tuốt lại phía sau.

Đi qua một quán rượu, Thích Ấn Thần chợt nhớ ra mình đã đi suốt một ngày hai đêm mà chưa có tí gì vào bụng, lão lập tức tiến lên xô cửa chính bước vào. Chủ quán trông thấy lão thì không khỏi kinh ngạc, Thích Ấn Thần cũng chẳng tiện nhiều lời, ngồi ngay xuống bàn gọi thịt bò rượu trắng ra ăn vội uống vàng để khỏa lấp cái bụng trống rỗng.

Chữ "Thích" trong "Thích Ấn Thần" vốn chẳng phải là họ thật của lão, lão không cha không mẹ, thuở nhỏ xuất gia, thế nhưng trời sinh tính khí mạnh bạo, ưa rượu khoái thịt, ngàn ly không sai, mang tiếng đi tu nhưng lại chẳng chịu giữ thanh quy giới luật mà chỉ học mỗi thần công nhà Phật, cuối cùng nhập thế hoàn tục, trở thành cường nhân một thời.

Thích Ấn Thần lấy họ "Thích" là vì không quên đi nguồn gốc của mình, chẳng những vậy còn hay khoe khoang với người đời rằng lão và phật Tổ cùng họ với nhau. Như Lai lên trời xuống đất, duy ngã độc tôn; Thích Ấn Thần lão không mong lên trời, cũng chẳng cầu xuống đất, chả cần độ qua tam giới, chỉ muốn mình là đệ nhất thiên hạ.

Lúc đám gia nhân chạy đến nơi thì lão đã uống cạn hai vò rượu mạnh, ăn sạch vài cân thịt bò, mặt không đổi sắc, cứ thế sải bước đi đến quán Thừa Hoàng.

Cổng chính của đạo quán đóng chặt, bên ngoài đứng lao nhao hơn trăm người, có không ít những vị hiệp khách đến từ các châu các tỉnh, cũng chả hiếm kẻ thù từng bại dưới tay Thích Ấn Thần, lại càng có đông đảo mấy tay giang hồ ưa hóng hớt tụ tập bát nháo từ bốn phương tám hướng kéo về đây.

Từ khi hoàn tục đến nay, Thích Ấn Thần ngang dọc thiên hạ đã ngót nghét hai mươi năm, bắc đến Đại Liêu, Nam đến Đại Lý, Tây đến Tây Hạ, Thổ Phồn, Đông đến biên giới Đại Tống; lão tung hoành khắp năm nước mong tìm gặp địch thủ xứng tầm nhưng mãi vẫn không thấy đâu, vì vậy cảm thấy cô đơn lẻ loi mới lập bia trước cổng, khinh ngạo võ lâm. Nhiều năm trôi qua, tấm bia đá ngoài cổng Thích phủ ấy chẳng khác nào ấn vua, miện đế, tự khoác cho mình một vẻ thiêng liêng riêng biệt đến độ chẳng ai dám mạo phạm. Ngờ đâu, một tên đạo sĩ chốn hoang sơn bỗng nhiên xuất hiện, lại còn khắc đá chêm chữ, chế giễu Thích Ấn Thần chẳng ra thể thống gì, bất kể là bản lĩnh hay lòng can đảm đều khiến cho người đương thời rúng động.

Trông thấy Thích Ấn Thần, mọi người vội khép nép chừa ra một lối đi. Thích Ấn Thần đến trước quán, sang sảng cất tiếng: 
- Linh đạo nhân có đó không? Thích mỗ theo hẹn đến rồi đây!

Tiếng vang như chuông rền, đến mái ngói cũng phải rung lắc.

Lâu mãi vẫn không thấy hồi đáp, bên trong đạo quán lặng phắt như tờ, một số kẻ giang hồ thầm nghĩ trong bụng: "Lẽ nào tên đạo sĩ ấy là hạng đầu hổ đuôi rắn, trông thấy chân diện mục của Thích Ấn Thần nên sợ quá trốn lủi đi mất rồi?"

Đang đoán già đoán non, cánh cổng đen kịt chợt "Két" một tiếng, từ từ mở ra. Mọi người nghe tiếng nhìn đến, bên trong bước ra một vị đạo đồng nhỏ xíu, tuổi đời ước độ mười hai, răng trắng môi hồng, nét mặt non nớt, bắt gặp đám hiệp khách đông như kiến liền tỏ vẻ hoảng sợ. Cậu ta lấy lại bình tĩnh, chấp tay thưa: 
- Thích Ấn Thần... Thích tiên sinh có ở đây không ạ?

- Chính là ta! - Thích Ấn Thần lách khỏi đám đông tiến lên phía trước. Lão có vóc người cao lớn, khí phách hiên ngang, mỗi khi giơ tay nhấc chân đều toát ra vẻ oai hùng tự nhiên. Cậu bé đạo đồng bị khí thế của lão bức ép, không tự chủ được phải lùi về sau một bước, chân ngáng vào thềm cửa té oạch xuống đất.

Mọi người đều phá lên cười. Thích Ấn Thần cũng tủm tỉm, lớn giọng hỏi: 
- Tiểu đạo trưởng, cậu gọi ta có việc gì?

Đạo đồng lồm cồm ngồi dậy, mếu máo nói: 
- Tiểu đạo là Tu Nguyệt, được Linh đạo trưởng nhờ chuyển cho ngài mấy lời.

Thích Ấn Thần gật đầu: 
- Cứ nói đừng ngại!

Đạo đồng nghiêng đầu lệch cổ, khóe môi mấp máy nhẩm sơ lại hai lượt mới cất tiếng: 
- Linh đạo trưởng bảo rằng: "Thần nhân vô công, thánh nhân vô danh(*), bần đạo không dám cậy mình thần thánh, bản thân lại là kẻ xuất gia, chẳng thiết phô trương tên tuổi, cho nên bố trí một gian phòng kín chỉ có Thích tiên sinh và bần đạo so tài, hôm nay dù thắng dù thua thế nào hai phía đều không được công khai lan truyền. Nếu Thích tiên sinh đồng ý thì xin mời vào trong, nhược bằng không xin quay về cho!”
(ND chú: nghĩa là bậc thần thánh vốn ẩn mình, không khoe khoang danh tính lẫn công trạng) 

Đám hiệp khách nghe xong, ai nấy đều chán nản thất vọng, thầm nghĩ vị Linh đạo nhân này quái lạ quá cỡ; theo như lời y nói, hai bên đóng cửa so tài, mọi người không thể chứng kiến được khác nào chuyến đi trở thành vô nghĩa hay sao?

Mấy trăm cặp mắt tập trung hướng về gương mặt Thích Ấn Thần. Thích Ấn Thần trầm tư giây lát, đoạn gật đầu: 
- Linh đạo trưởng nói phải, tiểu đạo trưởng, xin dẫn đường giúp!

Thích Yến Chi vội nói: 
- Cha, bên trong e rằng có điều gian trá!

- Có gian trá thì sao? - Thích Ấn Thần mỉm cười, xoạc chân bước vào đạo quán. Cậu bé đạo đồng dẫn lối đằng trước. Suốt dọc đường đi chẳng thấy một bóng người trong quán, Thích Ấn Thần sinh nghi, không thể không ngấm ngầm phòng bị.

Vòng qua dãy hành lang đến trước một cánh cửa, Tu Nguyệt khom mình nhường lối, thưa: 
- Linh đạo trưởng đang ở bên trong!

Thích Ấn Thần chăm chú nhìn cánh cửa nhưng không hề đẩy cánh tiến vào trong. Đạo đồng lấy làm ngạc nhiên, buột miệng hỏi: 
- Thích tiên sinh, sao ngài...

Lời còn chưa dứt, Thích Ấn Thần đã nhướng mày lên, trên người tỏa ra một luồng sát khí hừng hực như núi lở biển động bức ép thẳng lên người đạo đồng.

Khoảnh khắc ấy, cậu bé đạo đồng như rơi vào trong một tổ kén vô hình, mũi miệng nghẹn tắc, hô hấp khó khăn, lại phát giác luồng khí thế ấy chẳng những không giảm mà còn tăng nhanh, từ bốn phương tám hướng dồn nén vào bên trong cơ thể. Đạo đồng không chịu nổi, liên tục thụt lùi về sau, lưng tựa vào vách tường, mồ hôi tuôn như mưa. Cậu nhìn Thích Ấn Thần, trong lòng mơ hồ sợ hãi đến nỗi sản sinh ảo giác, người đàn ông này như hóa thành một ngọn núi sừng sững cao vời, chạm đến nhật nguyệt; đứng trước ông ta, cậu nhỏ bé chẳng khác nào con sâu cái kiến.

Tu Nguyệt khiếp vía đến nổi suýt ngất lịm đi. Đúng lúc này cậu chợt cảm giác có một cơn gió mát nhẹ nhàng lùa phớt lên má, thể xác và tinh thần bỗng hóa ra nhẹ nhõm, một luồng kình khí dịu dàng men theo đó truyền đến ôm trọn lấy cả người của cậu hệt như một bó ruột bông.

Tu Nguyệt dần lấy lại nhịp thở, cảm giác không khí xung quanh như chia ra làm hai, lúc cương lúc nhu, xô đẩy qua lại với nhau. Khí thế của Thích Ấn Thần bá đạo mạnh mẽ, thủ thì vững chắc như tường thành ngàn dặm, công thì ồ ạt như vạn quân đồng lòng; còn luồng khí dịu dàng kia thì tựa thể không tranh không đấu mà chỉ tuôn chảy liên miên bất tận, dày sâu vô chừng, dẫu cho luồng khí mạnh mẽ kia có dữ dội đến đâu thì cũng như hổ cắn vào nhím, chẳng có nơi đặt mõm, hoặc như một vị mãnh tướng dũng mãnh lọt vào chiến trường sống chết, dẫu thân mang võ công tuyệt thế cũng chẳng có đất dùng.

Tu Nguyệt tựa lưng vào tường, đôi chân run lập cập không vững, hai luồng khí vô hình kia cứ ập tới xô lui, chẳng những ép bức mình mẩy mà còn khủng bố cả tinh thần. Hai luồng khí cương nhu tựa như hai cánh tay lực lưỡng, mặc ý nhào nặn cậu trong lòng bàn tay, chỉ tích tắc sau đôi mắt của tiểu đạo đồng đã đỏ hoạch, miệng mồm ròng ròng nước dãi, nét mặt hằn vẻ điên dại.

- Thôi! 

Thích Ấn Thần hai mắt trợn tròn, đột nhiên quát lớn một tiếng. Tu Nguyệt như trúng phải côn, hai mắt tối sầm lại rồi ngất lịm đi.

Tiếng thét vừa dứt, không gian trước cửa như chìm vào một bức màn tĩnh lặng. Thật lâu sau, bên trong truyền ra một tiếng thở dài, Linh đạo nhân than khẽ: 
- Thích tiên sinh, tội gì làm liên lụy người khác?

Thích Ấn Thần dợm cười: 
- Ta vốn chỉ muốn thăm dò, nào ngờ đạo trưởng thần thông đến mức khiến cho ta muốn dừng mà chẳng đặng. Một khi ta với ông giao thủ, thằng bé này muốn đi cũng không được, thà làm cho nó ngất đi chốc lát còn hơn khiến nó tẩu hỏa nhập ma cả đời.

Linh đạo nhân trầm ngâm giây lát, thở dài: 
- Thích tiên sinh tuy võ công cao cường, tiếc rằng lại quá mức bá đạo.

Thích Ấn Thần cười to: 
- Thánh nhân viết "Nhu Nhược Thắng Cương Cường", võ công của đạo trưởng theo thiên hướng mềm dẻo, nhất định có thể thắng thứ võ công bá đạo của ta.

- Tiên sinh nói đùa rồi! - Linh đạo nhân nói: - Xin mời vào trong nói chuyện!

- Hay lắm!

Thích Ấn Thần tiến lên một bước, thế vừa sấn đến, cánh cửa gỗ liền tự động bung ra. Thích Ấn Thần phẩy tay áo bước vào, chỉ thấy bên trong phòng rỗng tuênh đồ đạc, dưới nền có một vị đạo sĩ đang ngồi. Giương mắt nhìn kỹ, đạo sĩ tuổi chừng bốn mươi, tướng tá gầy gò, râu tóc đen nhánh, hai mắt trong bóng tối sáng lấp lánh như sao.

Ánh mắt cả hai chạm nhau lập tức hút chặt như nam châm. Linh đạo nhân trơ ra như gỗ đá; tóc tai áo quần của Thích Ấn Thần tự động chấp chới bay, dưới nền nhà nổi lên một trận gió xoáy phất cho cánh cửa lung lay rần rật, bỗng nghe "rầm" một tiếng, cánh cửa sau cùng cũng chầm chậm sập lại.

Thích Ấn Thần điềm nhiên ngồi xuống, mỉm cười: 
- Linh đạo trưởng hẹn ta đến để thuyết đạo à?

- Không sai! - Linh đạo nhân gật gù.

- Vậy dám hỏi đạo trưởng, luận đây là đạo nơi miệng hay đạo nơi tay?

- Thế nào là đạo nơi miệng? - Linh đạo nhân khẽ nhíu mày.

- Đạo nơi miệng: nuốt sơn hà, nhả tinh tú, hít thở sáu phương, cười đón trăm sông, lấy biển xanh làm rượu nhắm, mượn đất trời làm ly bôi, ăn gan rồng, uống tủy phượng, dùng thuốc bất tử, cùng tỏa sáng với nhật nguyệt.

- Thế nào là đạo nơi tay?

- Đạo nơi tay: nắm kiếm thần, chia Cửu Châu, làm rung chuyển Ngũ Nhạc, vượt qua bảy biển, lấy Côn Luân làm cột trụ, nhặt tia chớp làm dây thừng, trói xuân thu buộc nhật nguyệt, treo cả bóng câu qua song cửa, vĩnh hằng như Bắc Đẩu.

- Khí phách lớn thật! - Linh đạo nhân vỗ tay tán thưởng: - Thu nạp cả vạn vật vào lồng ngực, xoay vần cả trời đất trong bàn tay, đây chính là đạo của Thích tiên sinh à?

- Cũng gần như vậy! - Thích Ấn Thần mỉm cười đáp.

- Nói như vậy, tiên sinh còn có đạo khác?

- Vũ trụ trời trăng chẳng qua chỉ là biểu tượng cho vạn vật, ấy chỉ là thứ đạo hữu hình, không phải đạo vô hình.

Linh đạo nhân chớp mắt mỉm cười, gật đầu bảo: 
- Bần đạo hiểu rồi, "Tiểu tượng hữu hình, đại tượng vô hình"(*), đạo của tiên sinh ẩn giữa núi sông trời đất, có ở nơi nơi nhưng lại chẳng trông thấy được.
(ND chú: câu trích đạo đức kinh của Lão tử chương 41)

- Hay cho câu "Có ở nơi nơi mà chẳng trông thấy" - Thích Ấn Thần vỗ tay cười: - Vậy chứ đạo của đạo trưởng là gì?

Linh đạo nhân mỉm cười: 
- Đạo của Thích tiên sinh có phân biệt tay-miệng, đạo của ta cũng như vậy.

- Hay, nói ra nghe thử nào.

- Đạo nơi miệng: gọi gió to, khơi mây lành, tiếng thấu trời cao, giọng ngân vạn lý, đem càn khôn làm phế tạng, biến cầu vồng thành miệng lưỡi, cất tiếng rồng ngâm, hát điệu loan ca, nghe sấm lạc vần ra tiếng nhạc thiên cung.

- Ý hay, còn đạo nơi tay thì thế nào?

- Khảy dao cầm vang vọng bát hoang, khuynh đảo lục dục, cám dỗ thất tình, biến sông cả thành đàn sáo, hóa động sâu làm trống bồi, trị âm dương, chia tinh tú, gạt lệ minh châu, ướp màu trăng sáng.

- Có ý tứ! - Thích Ấn Thần mỉm cười: - Đạo của đạo trưởng phải chăng là âm luật?

Linh đạo nhân mỉm cười đáp: 
- Cũng từa tựa.

Thích Ấn Thần gật đầu: 
- "Tiểu âm khả thính, đại âm hi thanh"(*), đạo của đạo trưởng ẩn trong gió mây sông bể, ta ở trong đó mà lại chẳng hay chẳng biết.
(ND chú: cũng xuất xứ từ Đạo Đức Kinh của Lão Tử chương 41. Lưu ý trong nguyên văn chỉ có 2 câu là “Đại tượng vô hình” và “Đại âm hi thanh” mà thôi, ko có vế trước, chắc là Phượng Ca thêm vào cho nó đối nghĩa)

Linh đạo nhân lặng im không đáp. Thích Ấn Thần cười tiếp lời: 
- Linh đạo trưởng, võ mồm của chúng ta chẳng ai kém ai, nếu muốn phân cao thấp e rằng phải đấu một trận rồi.

- Thích tiên sinh, mời! - Linh đạo nhân một tay rũ xuống, một tay án ngữ trước ngực.

Thích Ấn Thần cười vang ha hả, tay trái siết thành nắm đấm, chầm chậm vụt về phía trước. Y ra tay từ tốn nhưng lại dẫn theo một luồng kình phong, khí thế như rồng bay rắn lượn, tưởng trái mà phải, tưởng cao mà thấp, tưởng chậm mà nhanh, một quyền hết sức bình thường lại tiềm ẩn biến hóa vô cùng, dư sức khắc chế bất cứ võ công nào trong thiên hạ, cho dù đối thủ đối phó ra sao thì Thích Ấn Thần đều có khả năng đi trước một bước mà vững vàng khống chế.

Thế nhưng Linh đạo nhân cứ thế ngồi yên, chẳng né tránh cũng chẳng ra tay, chỉ hé mắt ra, áp bàn tay vào ngực, quyền phong vừa đến gần, tấm áo bào của ông theo gió bay phất phới, lúc phồng lên khi xẹp xuống tựa như sóng gợn. Quyền vừa chạm vào người thoảng như dòng nước xiết chảy cuồn cuộn trượt qua mỏm đá. Linh đạo nhân mặt không đổi sắc, mỉm cười hỏi: 
- Thích tiên sinh, quyền này có tên gọi hay chăng?

Thích Ấn Thần nhướng mày bật cười, cao giọng bảo: 
- Tùy cơ phát ra thôi, kể tên gọi làm gì, nếu đạo trưởng không ngại Thích mỗ cuồng vọng, cứ gọi nó là "Đại Tượng Vô Hình Quyền" cũng được.

- Hay cho "Đại Tượng Vô Hình Quyền"! Vậy hãy xem "Đại Âm Hi Thanh Chỉ" của ta thế nào nhé?

Linh đạo nhân giơ năm ngón tay ra như thể khảy đàn tì bà, nhẹ nhàng phất về phía trước, đẩy ra một luồng kình lực nhu hòa. Thích Ấn Thần đã từng trông thấy chỉ lực trên tấm bia đá, không dám xem thường, vội thu quyền về đỡ lấy chỉ lực đang lao đến. Hai luồng kình lực gặp nhau, Thích Ấn Thần chợt thấy không ổn, kình lực của Linh đạo nhân nhìn thì có vẻ hiền hòa nhưng thật ra kín kẽ vô cùng, ban đầu tưởng dễ đối phó nhưng khi đến gần liền sinh ra một lực cản cực lớn, thế như dây cung bị kéo căng tích đầy sức mạnh, buông tay một cái là bật ngược lại ngay.

Thích Ấn Thần đã trải qua trăm trận chiến, gặp không ít cao thủ, mấy kẻ này dù quyền hay chưởng thì thông thường đều chỉ hàm chứa mấy đợt kình lực, mỗi đợt cứ thế tiếp nối nhau như lớp lớp sóng cồn, khiến người ta phải chống đỡ liên tục, nhưng cái loại kình lực này vốn không duy trì được lâu, cùng lắm sáu bảy đợt là hết mức, qua hết số này chắc chắn khí thế suy yếu dần.

Nhưng kình lực của Linh đạo nhân lại không giống như vậy, chỉ lực đâu chỉ có sáu bảy đợt mà tưởng chừng như đến ngàn vạn đợt, vô cùng vô tận, mỗi một đợt kình lực đều hết sức nhu hòa, nhưng trước sau nối tiếp, liên miên không ngừng nghỉ. Thích Ấn Thần vừa phá tan một đợt thì lại xô đến một đợt khác, hệt như nước rỏ xuống đá, từng giọt từng giọt làm mòn đi quyền kình, lại như thủy ngân chảy xuống đất, liên tục tìm kiếm kẽ hở mà ngấm vào nội lực của lão.

Võ công của Thích Ấn Thần thiên về cương mãnh, chẳng bao lâu sau nội lực đã dần giảm sút, Linh đạo nhân lập tức phản công, tung chỉ điểm vào chỗ sơ hở trên quyền kình của lão.

Thích Ấn Thần quát khẽ một tiếng, tống ra quyền thứ hai. Linh đạo nhân trở tay chặn lại, hai luồng kình lực bốc lên va vào nhau làm dậy lên một trận gió mạnh trong gian tĩnh thất. Thân thể hai người còn chưa nhỏm dậy đã đồng loạt lướt vèo về sau. Trong chớp mắt, quyền chưởng dày đặc như mưa, trao đổi với nhau hơn một trăm chiêu, ra tay nhanh quá mức tưởng tượng.

Cứ đánh nhau cách một khoảng không như thế, hai người càng lùi càng xa, chẳng mấy chốc đã dựa vào vách tường, mắt thấy tường xiêu nhà sụp đến nơi, cả hai mới ngừng tay lại, cùng ngồi ở hai phía cụp mắt rũ mày, trầm ngâm suy tưởng. Hơn trăm chiêu vừa rồi gần như đã gồm thâu tất cả biến hóa trong võ công thiên hạ, hai người dẫu cho võ học uyên bác nhưng tạm thời cũng cảm thấy cạn ý hết bài, trong lòng gấp rút nghĩ ngợi, cố gắng tìm ra kẽ hở của đối phương.

Hai người chìm trong dòng suy tưởng, sinh khí như ẩn vào bên trong cơ thể, gian phòng thấp thoáng như một ngôi mộ huyệt, cả tiếng kim rơi cũng có thể nghe thấy. Qua chừng khắc sau, Thích Ấn Thần từ từ đứng dậy, cánh tay phải vẽ thành nửa vòng tròn, tung một quyền về phía trước, quyền kình ngưng kết như một ngọn núi chầm chầm đẩy dồn vào Linh đạo nhân.

Linh đạo nhân nhẹ nhàng bật dậy, điểm ra vài chỉ, ngón tay vừa chạm đến thì quyền phong của Thích Ấn Thần trở nên nhiễu loạn, một luồng nội kình xuyên qua quyền phong ập thẳng đến quyền đầu, theo kinh mạch len vào phủ tạng. Thích Ấn Thần chỉ cảm thấy cả người tê dại, chân khí sùng sục chạy loạn như muốn phá não ra ngoài.

Chưa kịp vận công phân tán dư kình, trong chưởng của Linh đạo nhân lại dẫn thêm chỉ kình ung dung công đến. Thích Ấn Thần không sao ngờ được, đành dốc toàn lực ra phản kích, kình lực hai phía va vào nhau, Thích Ấn Thần bỗng giật mình phát hiện ra dư kình trong chỉ lực của Linh đạo nhân lớp lớp xô đến, gần như chia tách hết chân khí trong cơ thể của mình.

Linh đạo nhân vừa chiếm được thượng phong, không để cho đối phương kịp thở, kỳ chiêu diệu thức tuôn ra không ngớt, thân thể hệt như bướm vờn hoa, trong nhanh có chậm, uyển chuyển phi thường, chiêu thức liền lạc không kẽ hở, thế như thác đổ suối tuôn, chỉ chưởng phất không bay qua, trong tiếng gió còn kèm theo cả tiếng ngân nga động lòng người, âm thanh hợp nhất khác nào lời ca tiếng vịnh. Thích Ấn Thần ở giữa cảnh này, cảm giác như đã lạc mình trong một chiếc chuông đồng vang rền in ỏi; tâm thần lão thoáng dao động, chẳng nhờ định lực cao cường thì đã chịu không thấu rồi.

Dẫu sao gian phòng cũng không quá hai trượng, Thích Ấn Thần giật lui từng bước, thoáng cái đã lùi đến chân tường. Thế công của Linh đạo nhân lại tựa như mưa dầm tháng năm ở đất Giang Nam, thâm thâm lả tả, không quá mãnh liệt nhưng lại dai dẳng rả rít, không ngơi không ngớt.

Từ khi xuất đạo đến nay Thích Ấn Thần chưa từng yếu thế đến như vậy, lão dựa vào sát vách, thân hình cao lớn rụt lại thành một khối, vất vả cầm cự hơn hai mươi chiêu. Thế công của Linh đạo nhân sau cùng cũng suy yếu, Thích Ấn Thần quát khẽ một tiếng, tay đấm chân đá mạnh mẽ như núi động biển cồn, thoăn thoắt như chớp giật sao rơi, thế nhưng bất kể nhanh mạnh thế nào, gặp phải kình lực của Linh đạo nhân đều như một hòn đá tảng rớt xuống mặt hồ mênh mông, dù cho có khơi dậy chút bọt sóng thì kết cuộc vẫn bị làn nước nuốt chửng.

Thích Ấn Thần sinh lòng hoảng sợ, chỉ thấy mấy kẻ địch bình thời hiếm gặp so với Linh đạo nhân thực chỉ như trẻ lên ba. Đáng sợ hơn chính là, lão rõ ràng cảm giác cho đến tận giờ phút này Linh đạo nhân vẫn chưa tung ra hết sức. Đạo nhân giơ tay nhấc chân ung dung nhàn nhã đều ngấm ngầm kết hợp một loại tiết tấu hết sức kỳ diệu, loại tiết tấu này tựa như một tấm lưới, bằng một cách vô tình nào đó đã khiến Thích Ấn Thần lạc bước vào trong, mặc cho Linh đạo nhân tùy ý ra tay. Kỳ lạ hơn nữa, cái cảm giác bị kẻ khác dẫn dắt này chẳng những không gây khó chịu mà ngược lại còn mang đến một sự khoan khoái khó tả.

Thích Ấn Thần vỡ lẽ rồi liền tìm mọi cách làm theo hướng ngược lại, cố sức thoát ra khỏi tiết tấu của Linh đạo nhân. Giằng co nhau mấy chiêu, Thích Ấn Thần cảm thấy vướng chân vướng tay, đã không thể thoát khỏi tình cảnh khốn khó này thì chớ, lại còn bị lọt sâu hơn vào trong mành lưới. Linh đạo nhân thừa thế xông lên, cùng lúc tung ra chỉ chưởng, một trận gió mạnh quét qua gò má Thích Ấn Thần, nửa gương mặt lão trở nên cứng đơ gần như mất đi tri giác.

Cứ thế này sẽ cầm chắc thất bại, Thích Ấn Thần hít sâu vào một hơi, xoay người xuất quyền. Linh đạo nhân phát hiện sơ hở, sấn người lên tung chưởng về phía hậu tâm Thích Ấn Thần, mắt thấy sắp sửa đắc thủ đột nhiên một trận gió mạnh sắc nhọn như thép từ đâu phóng đến, đâm trúng vào cổ tay mình.

Linh đạo nhân nhẹ nhàng lùi về sau, đáp xuống mặt đất cách đó một trượng, quan sát cổ tay với vẻ kinh ngạc không ngớt: 
- Thích tiên sinh, đây là võ công gì vậy?

- Vô tướng thần châm! - Thích Ấn Thần cười mỉm: - Ba năm trước, Thích mỗ ngẫu nhiên ngộ ra môn võ công này, có điều trước nay vẫn chưa xài thử với ai.

Linh đạo nhân ngầm ngâm một thoáng, gật gù khen: 
- Ngài ép chân khí ra khỏi huyệt đạo quả là có sáng tạo, như vậy toàn bộ cơ thể của ngài đều có thể đả thương người khác giống như loài nhím, khiến người ta chả biết nên đánh vào đâu.

Thích Ấn Thần cười bảo: 
- Đạo trưởng hiểu biết rộng thật, chớp mắt đã nhìn thấu nội tình của Thích mỗ.

- “Hư thất sinh bạch, vô trung sinh hữu”(*) vốn là đạo lý từ ngàn xưa truyền lại. Cái gọi là “Đại đạo chí giản”, thực chất nhiều chuyện xét cho cùng, đạo lý bên trong cũng chẳng khác là bao.
(ND chú: 
- “Hư thất sinh bạch” là thành ngữ của Trang Tử, ý chỉ tấm lòng không có tạp niệm thì sẽ ngộ ra đạo, sinh ra trí tuệ.
- “Vô trung sinh hữu” trích từ Đạo Đức Kinh của Lão Tử, giới đạo cho rằng sự được mất của vạn vật có quan hệ tương hổ song hành cùng nhau, vật chất trong giới tự nhiên đến từ một không gian thấy mà không thấy được. Ngoài ra, “Vô trung sinh hữu” còn chỉ kế thứ 7 trong 36 kế dù không liên quan ở đây.
- “Đại đạo chí giản” là một khái niệm quan trọng trong triết học trung quốc, không những được chư tử bách gia coi trọng mà còn được Đạo giáo sử dụng, nó ám chỉ những đạo lý lớn thường cực kỳ đơn giản, đơn giản đến mức hai ba câu là có thể giải thích rõ, nên có câu nói “chân truyền một câu nói, giả truyền vạn sách thư”)

- Nói hay lắm! - Thích Ấn Thần phá ra cười: - Chỉ không biết võ công của đạo trưởng liệu có tuyệt diệu như đạo lý trên hay không?

Dứt lời, lão tiến lên một bước, tay không nhấc, chân không động, từ không khí rộ lên những tiếng động rào rào, chân khí hóa thành ngàn vạn sợi tơ thoát ra từ hàng trăm huyệt đạo trên khắp cơ thể, sợi thô sợi mảnh hư hư thực thực, có cái như kim như gai phá vỡ chưởng lực của Linh đạo nhân, có cái tựa thể dây thừng, tung lên cao biến thành tấm lưới sầm sầm phủ xuống.

Kình khí trải ngập khắp gian phòng, Linh đạo nhân biết không thể tránh khỏi liền đứng nguyên ra tại chỗ chẳng hề cử động, vẻ mặt tĩnh tại như nước đọng, ánh mắt lặng lẽ như đầm sâu. Tay áo của ông đong đưa chấp chới, dáng hình chẳng khác một cánh chim cao ngạo bất phàm, đối mặt với màn kình khí ngập trời, từ miệng thốt ra hai chữ: 
- Linh phi!

Thanh âm còn chưa tan hết, cuồng phong đã ầm ầm nổi dậy, hai luồng đại lực tuyệt thế va ập vào nhau cuốn theo lớp bụi trần bốc lên mờ mịt. Trong màn khói bụi ấy, hai bóng người càng lúc càng nhòa đi, hóa thành ảo ảnh thời gian, mãi cho đến khi hoàn toàn tiêu tán.

Hoa nở hoa tàn, mây tụ mây tan, Tống - Liêu - Kim - Nguyên, thoáng chốc đã trôi qua hết cả. Triều đại thịnh suy, muôn dân sinh tử, trải mấy trăm năm thời gian xoay chuyển, thấm thoát đã là năm Hồng Vũ thứ hai mươi bảy triều đại nhà Minh.

Cuộc chiến tại quán Thừa Hoàng năm nào đã sớm thành tro bụi, thiện hạ đổi chủ, chỉ có dòng Trường Giang chảy xiết là vẫn như xưa, sóng nước cuồn cuộn nối nhánh vào sông Tần Hoài, uốn lượn vòng quanh chân kinh thành, nước sông lặng lờ dường bất động hệt như một phiến ngọc màu xanh biếc.

Chợt đâu phía ven sông ngân lên một giọng ca ai oán:

Liễu mềm phơ phất bến Uyên Ương
Gọi thuyền sang, ngỡ Đào Diệp thuở miên trường
Ôi mắt buồn tiễn gió xuân u uẩn
Tựa mạn thuyền, ngơ ngẩn đợi buồm giương
Nào hay đâu thuyền lại ghé ven đường
Phố Kim Lăng, chừ oanh ca yến lượn
Tại con nước vô tình hay do lòng sầu muộn?
Dọc bãi bồi hương cỏ ngát bốn phương
Hợp Phì kia về lại khuất nẻo đường
Chiều tàn nhanh, dong thuyền ta xuôi ngược
Nhưng bến nào mới là bến quê hương...?


(ND chú: khúc từ trong bài “Hạnh Hoa Thiên Ảnh – Lục Ti Đê Phất Uyên Ương Phổ của Khương Quỳ, bài từ viết về nỗi nhớ nhung tình nhân mà thời trai trẻ tác giả đã từng trải qua tại Hợp Phì với hai chị em ca nữ. Bài từ nguyên văn khá khó hiểu, độc giả có thể xem nguyên văn tại: baike.baidu.com/view/2836137.htm, lưu ý tôi chỉ phổ tạm từ phần Dịch Nghĩa, kể cả các bài về sau trong truyện)

Hai người hát dạo một già một trẻ, ông lão vừa xướng ước chừng hơn sáu mươi, dáng vẻ khẳng khiu; vị thiếu niên thổi sáo chỉ vừa độ mười lăm mười sáu, mắt trong mũi cao, làn da như ngọc, đôi hàng mi dài rậm vắt cao, đầu mày khóe mắt tràn ngập sức sống.

Leng ca leng keng! Vài đồng lẻ rớt vào khay đựng tiền. Đám người rỗi việc cười vang rồi tản mác đi. Ông lão nhặt tiền hí hoáy đếm rồi lắc lắc đầu, nhìn về phía trời xa đăm chiêu nghĩ ngợi. Gã thiếu niên hạ sáo, thắc mắc hỏi:
- Cha, người nhìn gì vậy?

Ông lão trầm ngâm không đáp, thiếu niên trông theo hướng mắt ông. Tít trời tây xa xăm, một rặng mây dài đỏ tía trông như cục máu hon hỏn đọng giữa ngọn lửa. Gã chột dạ khẽ thốt:
- Màu mây sao quái lạ thế nhỉ?

- Trời vẫn còn oi ả! - Ông lão thở dài đứng dậy: - Hôm nay giải tán thôi!

- Mấy đồng này... - Thiếu niên nhíu mày: - ...Chả đủ ăn cơm!

- Ta mệt rồi, về nhà nghỉ ngơi. - Ông lão khàn khàn nói, xoay lưng đi: - Mấy đồng này con cứ cầm lấy!

Thiếu niên nhận tiền, đưa mắt dõi theo bóng ông đi xa rồi phát ra tiếng reo khẽ, đôi mắt nhìn ngang liếc dọc.

Chợt, gã nghe có người gọi: "Nhạc Chi Dương!", một thiếu niên nhảy ra từ góc tường, cằm thon thon, mày chữ bát, mắt láo liên, vừa thấy mặt thì đã ầm ĩ:
- Nhạc Chi Dương, ta đợi ngươi hơn nửa ngày trời, thấy ngươi cứ thổi hoen hoét mãi không dứt, làm ta sốt ruột muốn chết!

Nhạc Chi Dương cười bảo:
- Giang Tiểu Lưu, ngươi gấp làm gì, trời còn chưa tối mà! Đêm nay tính sao, đến miếu Phu Tử xem kịch hay lên lầu Huyền Hà nghe kể chuyện?

Giang Tiểu Lưu đằng hắng một tiếng, bảo:
- Tối nay có tuồng Đơn Đao Hội, đại đao của Quan lão gia múa rất sướng mắt!

Nhạc Chi Dương hất hất mớ tiền trên tay cân nhắc:
- Xem kịch không đủ tiền, hay là nghe kể chuyện đi.

- Con mẹ nhà ngươi! - Giang Tiểu Lưu hai tay chống hông, lớn tiếng huênh hoang: - Ai nói xem kịch phải cần đến tiền, ngươi cứ hỏi người bên sông mà coi có kẻ nào dám thu tiền của Giang gia không?

- Thật à? - Nhạc Chi Dương chồm đầu lên hét oang oang: - Giang gia, mẹ ngươi tới kìa!

Giang Tiểu Lưu nghe tiếng phát run, không thèm quay đầu đã muốn guồng chân bỏ chạy, chạy được mấy bước liền nghe thấy tiếng cười khanh khách của Nhạc Chi Dương, lúc này mới tỉnh ngộ, quay ra nổi đóa:
- Nhạc Chi Dương, thằng chó lường gạt...

- Ta gạt ngươi làm gì? - Nhạc Chi Dương tủm tỉm: - Mẹ ngươi mới rồi còn ở đây, sao chớp mắt đã mất tiêu nhỉ? Thôi chết, có lẽ là người rớt xuống sông rồi đó. Giang Tiểu Lưu, ngươi mau mau nhảy theo đi kẻo bá mẫu gọi rùa đến cõng đi mất bây giờ!

Cha của Giang Tiểu Lưu làm tạp vụ tại một thanh lâu ở ven sông, là hạng cùng đinh trong tầng đáy xã hội, đại danh là "Quy Công", tiểu danh là "Vương Bát"(*), cho nên vừa nghe đến đây hắn liền nhe nanh múa vuốt nhảy chồm đến. Dè đâu Nhạc Chi Dương thân thể nhanh nhẹn, lách người né khỏi cú vồ, cẳng chân gạt nhẹ, tiện tay xô một phát, Giang Tiểu Lưu ngã dúi dụi như một que pháo, đầu bổ rầm vào tường, lập tức hoa đầu váng mắt. Hắn đang định quay lại, bất giác cảm thấy da đầu tê rần, chỏm tóc đã nằm trong tay Lạc Chi Dương. Hắn lật tay muốn đánh trả nhưng Nhạc Chi Dương đã nhẹ nhàng tránh khỏi rồi rút sáo trúc bên hông ra, quất bồm bộp vào mông hắn.
(ND chú: tên cha của Tiểu Lưu có nghĩa là rùa, nên câu trên Nhạc Chi Dương có ý móc mỉa cả cha lẫn mẹ Tiểu Lưu)

Giang Tiểu Lưu chẳng còn cách nào thoát, đau đến giậm chân thình thịch:
- Ối ối, đừng có nắm tóc! Ối, nhẹ tay một chút, đừng vỗ mạnh nữa...

Nhạc Chi Dương gõ thêm mấy cái mới buông hắn ra. Giang Tiêu Lưu tay trái xoa đầu, tay phải vuốt mông, trong lòng nửa giận nửa sợ, hét toáng lên:
- Nhạc Chi Dương, cha ngươi cũng là phường xướng ca vô loài, chúng ta đều là cùng đinh đáy chợ, chả ai hơn ai cả!

Nhạc Chi Dương lắc đầu nói:
- Ta không có cha!

Giang Tiểu Lưu nổi giận:
- Gạt con mẹ nhà ngươi à! Nhạc lão đầu không phải cha ngươi chẳng lẽ con của ngươi!

Nhạc Chi Dương hờ hững đáp:
- Ông ấy là cha nuôi của ta, ta được ông ấy nhặt về!

Giang Tiểu Lưu ngây ra, từ lúc hai người quen biết đến nay, đây là lần đầu tiên hắn nghe được. Hắn trợn mắt nhìn Nhạc Chi Dương, thầm nghĩ mình xuất thân bần tiện, dù sao cũng còn có cha có mẹ, thằng láo cá ấy lại là đứa mồ côi, thật làm người ta không ngờ được.

Lúc này mặt trời đã khuất núi, sông Tần Hoài rộn rịp hẳn lên. Một chiếc thuyền con rẽ màn sương mỏng lướt qua bên cạnh hai người, một gã văn sĩ áo trắng đang đứng nơi đầu thuyền, mày mặt như ngọc, râu tóc đen nhánh, eo giắt một miếng ngọc bội phỉ thúy, trên bề mặt có khảm viên minh châu to cỡ trứng bồ câu.

- Chu choa! - Giang Tiểu Lưu ra chiều sành sõi: - Miếng ngọc và viên châu ấy bán đi cũng mua đứt một nửa viện Quần Phương rồi!

Lời vừa dứt, văn sĩ áo trắng kia đột nhiên quay phắt lại, ánh mắt như điện quét qua mặt hắn. Giang Tiểu Lưu chỉ thấy da mặt tê tê, toàn thân ớn lạnh. Văn sĩ lúc này lại ngoảnh mặt đi như đang thưởng thức phong cảnh hai bên bờ.

Giang Tiểu Lưu sực tỉnh, nhẹ giọng bảo:
- Tên thư sinh ấy trừng ta làm gì nhỉ?

Nhạc Chi Dương cười giễu:
- Nhà ngươi mặt gian lồ lộ, ai nhìn cũng biết ngươi có ý đồ sâu bọ.

- Rắm thối! - Giang Tiểu Lưu tức tối: - Thiếu gia ta không phải phường đồng tính!

Nhạc Chi Dương tủm tỉm:
- Ngươi có tám bàn tay, cũng chả kém cạnh Na Tra có tám cánh tay ở Nguyên Dương quán!

Giang Tiểu Lưu nghe gã ví mình với Na Tra, thoạt tiên vui sướng, sau lại nổi đóa:
- Nhạc Chi Dương, ngươi mới là đồ tám tay, mẹ nhà ngươi mới là con cua ấy!



Đến miếu Phu Tử thì trời đã tối mịt, bóng trăng nhập nhoạng nhô khỏi núi đông, cong như lưỡi liềm. Phường hát giăng đèn kết hoa, giọng một lão già văng vẳng truyền lại, nỉ nỉ non non, thê lương vô kể:
Sông dài ngàn sóng cuộn về đông,
Dẫn chục người đi hướng tây phong,
Cưỡi trên thuyền nhỏ...


Trước cửa rạp, người người nô nức ra vào, áo quần sặc sỡ. Hai gã vào trong rồi cảm thấy ngài ngại, bèn không đi đường chính nữa mà luồn qua ngõ Ô Y, vòng sang một hẻm nhỏ khác sau lưng phường hát. Trong hẻm có một cây đại thụ lâu năm, táng phủ ngợp sân, hẳn rằng năm đó đã từng che bóng mát cho Tạ An Thạch, che sới bạc cho Lưu Kí Nô.(*)
(ND chú:
- Ngõ Ô Y là một địa danh nổi tiếng ở miếu Phu Tử, Nam Kinh, từng xuất hiện trong bài thơ Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích.
- Tạ An hay Tạ An Thạch, danh nhân thời Đông Tấn. Chi tiết xin xem tại: http://vi.wikipedia.org/wiki/Tạ_An
- Lưu Kí Nô: hay Lưu Tống Vũ Đế, Lưu Dụ. Xem rõ hơn tại: http://vi.wikipedia.org/wiki/Lư...C4�ế )

Hai gã chân tay thoăn thoắt leo lên chạc cây ngồi vắt vẻo, sân khấu trước mắt hiện ra rõ mồn một.

Nhìn đầu người lố nhố đen đặc bên dưới tàng cây, Giang Tiểu Lưu thích thú cười khẽ:
- Bọn chó, tưởng có tiền xem hát là ngon hử? Hừ, ông mà ngồi dậy tháo vòi đái là chúng bây chết chìm cả lũ!

Nhạc Chi Dương cười phụ họa:
- Giỏi cho Giang Tiểu Lưu - Thủy Yểm Thất Quân! (*)
(ND chú: Thủy Yểm Trấn Thất Quân là chiến dịch trứ danh gắn với tên tuổi Quan Vũ trong Tam Quốc)

- Không dám! - Giang Tiểu Lưu làm bộ xua xua tay: - Thủy Yểm Thất Quân là của Quan lão gia, hầy, ta so ra vẫn kém ngài một bậc.

Nhạc Chi Dương bật cười, ánh mắt hướng về phía sân khấu. Trên đài, Quan Công mặt đỏ râu dài, múa thanh quan đao lấp lánh vun vút, một bên râu của Chu Thương đã bị hơi đao phất cho rối tung, xem đến đoạn gay cấn, khán giả bên dưới rộ lên khen hay.

Giang Tiểu Lưu mặt mày hớn hở, huých huých Nhạc Chi Dương, khẽ giọng bảo:
- Theo ta thấy đao kia chỉ là đao giấy, đao thiệt của Quan lão gia nặng tới tám mươi mốt cân, người thường làm sao múa cho nổi?

Nhạc Chi Dương đáp:
- Đao thiệt hay đao giả, ngươi thử một nhát biết ngay!

Giang Tiểu Lưu nổi giận:
- Lỡ là đao thiệt, tiểu gia ta há chẳng chết thảm à!

Nhạc Chi Dương nói:
- Cũng chưa chắc, trên người ngươi có một chỗ, dù là đao thiệt cũng bó tay!

Giang Tiểu Lưu thắc mắc:
- Là chỗ nào?

Nhạc Chi Dương cười trả lời:
- Da mặt ngươi á, mặt ngươi vừa dày vừa cứng, bao nhiêu bảo đao chém cũng không đứt!

Giang Tiểu Lưu đổ quạu, đang định mắng trả, chợt nghe "Kooong" một tiếng, âm thanh rin rít chói tai. Liền khi ấy, bước chân của Quan Công trên đài loạng choạng, quan đao trong tay hướng lệch về mạn trái, suýt nữa thì chém trúng Chu Thương ở đằng sau, khiến cho tên kép ấy sợ đến lẩy bẩy, vội vàng thụt lùi hai bước.

Giang Tiểu Lưu "í" một tiếng, bảo:
- Lạ nhỉ, Quan Công chém Chu Thương, cảnh này ở đâu ra vậy?

Nhạc Chi Dương thuận miệng tiếp lời:
- Có gì đâu, ta còn từng xem Trương Phi mượn gió đông nữa là!(*)
(ND chú: vốn chỉ có tích Gia Cát Lượng mượn gió đông trong trận Xích Bích)

Giang Tiểu Lưu lườm gã, hầm hừ:
- Vậy ngươi xem cọp già đánh Võ Tòng hay chưa?

- Chưa từng! - Nhạc Chi Dương lắc đầu tỉnh bơ: - Nhưng Trần Thế Mỹ chém Bao Công thì ta xem rồi!

- Chém cái con mẹ nhà ngươi! - Giang Tiểu Lưu quạu quọ: - Ta là Giang Tiểu Lưu, còn ngươi là Nhạc Đại Ngưu, “Đại” trong “Đại Thoại”, “Ngưu” trong “Xuy Ngưu”... (*)
(ND chú: “đại thoại” và “xuy ngưu” đều có nghĩa là to mồm, khoác lác)

Đang cãi ì xèo, hai gã chợt nghe vang động một lần nữa. Trên đài ánh đao xoay mòng mòng. Phụt! Suối máu trào ra, Chu Thương bay mất phần đầu, thân mình đứng trơ ra trong khoảnh khắc rồi đổ sầm về trước.

Cả phường hát lặng im phăng phắc, đám đông nhìn đến ngây người, toàn bộ tiếng reo hò nghẹn lại nơi cổ họng. Giang Tiểu Lưu vỗ đùi đánh đét:
- Mèn ơi, đao là giấy, người cũng là giấy luôn sao? Phê vãi, tích Đơn Đao Hội này ông xem đã mấy lần, nhưng màn chém đầu này là lần đầu trông thấy!

Nhạc Chi Dương nhíu chặt mày, lắc đầu:
- Không đúng, máu chảy ròng ròng như vậy, có khác chi người thật đâu!

Nói chưa dứt lời, chợt nghe "Koooong" một tiếng, thanh đao lớn bỗng hướng sang phải, "Rắc", chém phăng cái cột chống rạp.

"Ối giời ơi!" Dưới đài rộ lên tiếng kêu chí chóe, người xem thi nhau bật dậy, chạy thục mạng ra khỏi cửa viện. Mới chạy dăm bước, trên bầu trời chớp chớp lóa lóa như trút xuống một trận mưa rào, cùng lúc đó mấy chục con người bỗng nhiên đứng sững lại giữ nguyên tư thế bỏ chạy, nom như những pho tượng đất.

Tuy Giang Tiểu Lưu đầu óc kém nhạy cũng cảm thấy tình hình không ổn, vừa há miệng toan hét, Nhạc Chi Dương bỗng giơ tay bụm miệng hắn lại. Quan đao trên đài múa càng lúc càng nhanh, trùng trùng bóng ảnh, trông như một vầng trăng sáng, tiếng leng keng không ngừng vang rền chói tai, thân đao chi chít tóe lửa. Bước chân Quan công lảo đảo, liên tục bật ra những tiếng gầm trầm đục. Hắn đột nhiên nhảy tót về phía sau, hoành đao hét lớn:
- Dùng ám khí hại người thì ra thể thống gì? Mau hiện thân cùng gia gia phân cao thấp!

Giang Tiểu Lưu lấy làm lạ:
- Quái, trong kịch bản làm gì có đoạn này!

Nhạc Chi Dương trầm giọng:
- Đừng lên tiếng, nhỡ người ta nghe thấy thì miệng ngươi chẳng còn đâu!

Giang Tiểu Lưu thắc mắc:
- Sao không còn miệng?

Nhạc Chi Dương lạnh lùng đáp:
- Đầu không có, miệng còn được chăng?

Sau hồi im ắng, đâu đó chợt nghe tiếng cười gằn cất lên, một kẻ chầm chậm bước khỏi hòn giả sơn. Giang Tiểu Lưu gần như bật ra tiếng kêu, hóa ra người này chính là văn sĩ áo trắng đứng trước mũi thuyền ban nãy, viên minh châu khảm trên miếng ngọc bội kia ánh lên sắc lập lòe trong bóng tối.

- Ngươi là ai? - Quan công trừng trợn nhìn văn sĩ, ánh mắt nghi hoặc.

Văn sĩ áo trắng cười bảo:
- Triệu Thế Hùng, hai mươi tám năm không gặp, ngươi không nhận ra ta ư?

Quan công đảo mắt, chợt đơ lưỡi cứng miệng:
- Ngươi... Ngươi...

- Ta thế nào? - Văn sĩ mỉm cười: - Ta trông rất giống một người đúng không?

Triệu Thế Hùng run rẩy trỏ văn sĩ:
- Ngươi... Ngươi...

Văn sĩ cười:
- Nhớ ra rồi chứ? Ngô Vương Trương Sĩ Thành có phải rất giống ta hay không...?

- Ngươi... - Triệu Thế Hùng giật lui mấy bước, nuốt ực một ngụm nước bọt, sau rốt cũng lấy lại bình tĩnh: - Trương Thiên Ý, ngươi lẽ ra đã chết rồi cơ mà?

- Phải nhỉ, ta cũng lấy làm lạ!

Văn sĩ cười rờn rợn:
- Đám cháy tại lầu Tề Vân không thiêu chết ta, nước sông Bình Giang cũng không dìm chết được ta, khi đó ta cứ nghĩ người nhà thác cả rồi, ta còn sống làm gì nữa? Thế nhưng sống sót là do ý trời, ông trời muốn ta phải làm vài việc nữa. Triệu Thế Hùng ơi Triệu Thế Hùng, ta tìm ngươi bấy nhiêu năm, vốn tưởng năm ấy ngươi bán đứng cha ta, lại chém đầu anh trai ta, đã sớm thăng quan tiến chức lâu rồi, nếu không phong hầu bái tướng thì cũng lụa là gấm vóc, hưởng sái vinh hoa, nào ngờ từ đó về sau chẳng thấy bóng dáng ngươi đâu nữa! Ban đầu ta đi khắp hang cùng núi vắng tìm ngươi nhưng toàn toi công phí sức. Ta lại nghĩ, "tiểu ẩn vu dã, đại ẩn vu thị"(*), Triệu Thế Hùng nhà ngươi người cũng như tên, là một đời gian hùng, có lẽ suy nghĩ cũng quái gở, chọn cách trốn nơi thành thị. Vì vậy ta lại đến các nơi đô thành phố hội tìm kiếm, tìm tới tìm lui, dè đâu được ngươi gan lớn tày trời, dám ở ngay dưới mắt Chu Nguyên Chương mà diễn tuồng xướng kịch, buồn cười hơn nữa, ngươi lại có mặt mũi vào vai Quan lão gia. Quan Vân Trường vẹn bề trung nghĩa, còn ngươi, ngươi là cái loại thế nào?"
(ND chú: nghĩa là trốn chơi chơi thì tìm chỗ hoang vắng, còn trốn thiệt trốn kỹ thì lẩn vào thành thị là hay nhất. Tác giả có lẽ mượn từ câu “Đại ẩn trụ triều thị, tiểu ẩn nhập khâu phiền” trong bài Trung Ẩn của Bạch Cư Dị.)

- Ta không giết anh ngươi! - Triệu Thế Hùng trầm tư: - Con của Ngô Vương không can hệ đến ta, là y treo cổ tự vẫn!

- Ngươi sợ rồi à, Triệu Thế Hùng?

Da mặt Trương Thiên Ý co giật, cười còn khó coi hơn khóc:
- Ta đã hỏi kỹ binh sĩ thủ thành ở Bình Giang, ai nấy đều đồng thanh như một, cửa Tây của thành Bình Giang là do ngươi mở. Ta cũng hỏi qua tì nữ may mắn sống sót trong vương phủ, sau khi thành bị phá, kẻ đầu tiên xông vào vương phủ chính là ngươi. Còn ngũ ca của ta, hà hà, lúc ngươi giết anh ấy, ta đang nấp trong một chum nước lớn bên cạnh, dù không trông thấy ngươi nhưng giọng nói của ngươi ta nghe rất rõ ràng. Ngươi hoạnh họe anh ấy phải giao ra thứ gì đó, anh ấy không đưa, ngươi bèn vung đao chém chết. Hà, tiếng thét thảm thiết ấy đến nay ta vẫn còn nhỡ mãi, hai mươi tám năm qua, mỗi khi nằm mơ âm thanh ấy lại vang vọng bên tai...

Gương mặt Trương Thiên Ý vặn vẹo:
- Ta còn nhớ rõ, tổng cộng ngươi chém anh ấy hai mươi mốt đao...

Triệu Thế Hùng đứng trên đài, khuôn mặt màu táo chín đờ đẫn hẳn đi, mãi một lúc sau hắn mới cười khục khặc:
- Nói như vậy, ngươi muốn trả lại ta từng đao một à?

- Không! - Trương Thiên Ý giũ tay, sắc xanh lấp lánh giữa lòng bàn tay: - Ta dùng kiếm!

Triệu Thế Hùng lạnh lùng bảo:
- Kim châm của ngươi cũng thật lợi hại!

Trương Thiên Ý cười đáp:
- Đó là Dạ Vũ Thần Châm!

- Dạ Vũ Thần Châm? - Triệu Thế Hùng giật thót, giọng nói run run: - Ngươi là đệ tử Đông Đảo?

Trương Thiên Ý mỉm cười:
- Ngươi chớ quên, cha ta xuất thân từ Đông Đảo, bản thân ta vô dụng, nhờ vào phần phước tiên phụ để lại nên cũng miễn cưỡng được nhận làm thành viên Đông Đảo. Triệu Thế Hùng, ngươi đừng sợ, ta không dùng thần châm bắn ngươi đâu, ngươi dùng hai mươi mốt đao giết anh ta, ta cũng đâm lại ngươi hai mươi mốt kiếm. Nếu ngươi may mắn thoát chết, ân oán giữa hai ta coi như xóa sổ.

Đao của Triệu Thế Hùng khựng lại, y bỗng bật cười khanh khách. Trương Thiên Ý trợn trừng nhìn y, ánh nhìn lạnh băng hệt như mắt rắn. Triệu Thế Hùng cười dứt trận, hàng mi cong mảnh nhướn lên, đanh giọng:
- Trương Thiên Ý, ta tuy già nhưng đao chưa già!

- Không dám!

Trương Thiên Ý vuốt nhẹ mũi kiếm, một làn hơi lạnh buốt thấu qua ngón tay.
- Khoái Tai Đao Triệu Thế Hùng, năm ấy hoành hành Tam Ngô, chưa từng gặp kẻ xứng tầm. Trận chiến Bình Giang, ngươi xông trận một mình một đao, gần như chém chết cả mười tám thiết kỵ Hoài Tây của Khai Bình Vương Thường Ngộ Xuân, đến nỗi sau trận chỉ còn sống mỗi ba mạng. Ta luôn suy đoán, liệu có phải vì lý do này mà ngươi không thể dung thân ở Đại Minh. Về sau ngẫm kỹ lại thấy có chỗ không đúng. Chu Nguyên Chương khi ấy chưa giành được thiên hạ, tất phải mua chuộc lòng người, cả con của Trần Hữu Lượng mà lão cũng không giết thì sao có thể trách tội một viên hổ tướng như ngươi? Ngươi mai danh ẩn tích hẳn là có nguyên nhân sâu xa nào khác...

- Bớt nói xàm đi! - Triệu Thế Hùng quát to: - Triệu mỗ bất tài, xin lãnh giáo một ít tuyệt học Đông Đảo!

- Nói hay lắm! - Trương Thiên Ý chĩa trường kiếm chênh chếch, chậm rãi tiến về phía sân khấu.

Hai gã ở trên cây đều lạnh toát sống lưng, không dám cả thở mạnh. Khoảng cách từ đây đến sân khấu rất xa, hai kẻ Trương-Triệu dù cho võ công cao cường cũng không phát hiện ra lúc này có người xem lén. Nhạc Chi Dương cố gắng đè nén trống ngực, đưa mắt nhìn ra, bên ngoài phường hát đèn lửa sáng trời, tiếng người rộn rịp, ngoài mặt sông xa xa còn vẳng vẳng truyền đến tiếng ca ngọt lịm.

Một cơn gió lớn thổi thốc đến, mấy quả chuông gió dưới mái hiên tinh tang khua vang. Nhạc Chi Dương ngoảnh đầu lại xem, sân khấu rộng là thế lúc này đã chìm ngập trong bóng đao lồng lộng.

Thanh đao lớn của Triệu Thế Hùng không hổ là hàng chất, năm ấy y dựa vào bảo đao này xông pha trận mạc, chém tướng đoạt cờ, dẫu cho lưu lạc ở phường hát thì thanh đao này vẫn không hề gác xuống. Đao thép tám mươi mốt cân được y tùy ý sử dụng nhẹ hẫng như không, ánh đao sáng lóa hệt như tuyết rơi trong mùa rét đậm tháng Chạp, không chỉ là nhanh, mà còn vừa chuẩn, vừa độc. Truyền rằng năm ấy, thanh đại đao này có thể hớt đứt cả ruồi bâu trên đầu người mà không làm tổn hại đến một sợi tóc, bất kể Triệu Thế Hùng tuổi tác đã cao, độ nhanh nhạy có kém đi nhưng về độ độc và chuẩn thì có khi còn hơn xưa một phép, thế như sấm rền chớp lóe xoẹt qua xoẹt lại trên không.

Kiếm của Trương Thiên Ý là một thanh nhuyễn kiếm dài tầm ba thước, lấp lánh sắc xanh, mỏng như cánh ve. Thân pháp của hắn lẹ đến lạ thường, vừa chuyển động thì đã trông như một màn sương khói trắng nhờ, trong màn sương bóng kiếm xanh mập mờ thoắt ẩn thoắt hiện tựa một chiếc thuyền lá nhấp nhô lên xuống trong bóng đao mạnh mẽ như sóng cuồng.

"Khoái Tai Đao" tổng cộng có bảy mươi hai đường, Triệu Thế Hùng thầm biết đối thủ lợi hại, nên dùng bảy phần thủ, ba phần công, tiến lùi cẩn thận, đổi chiêu khéo léo. Hai người lấy nhanh đánh nhanh, bảy mươi hai đường đao pháp chớp mắt y đã tung ra hết nhưng đến cái bóng của Trương Thiên Ý cũng chưa chạm vào được, đối thủ thoắt đến thoắt đi như thể không phải con người mà tựa hồn ma bóng quế.

Triệu Thế Hùng trong lòng phát lạnh, thái dương rịn ướt mồ hôi, cảm giác rã rời chợt đâu dồn lên đôi cánh tay. Đường đao pháp này gọi là "Khoái Tai", một là thắng nhanh, hai là sụm lẹ, cần phải lên tinh thần áp chế ngay đối thủ bằng khí thế hừng hực, để mà kéo dài vô ích, khí thế suy giảm thì khó tránh sức tàn lực kiệt. Trời sinh Triệu Thế Hùng đã khỏe mạnh vô song, cầm quan đao như nhấc rơm khô nhưng vào thời khắc này y lại thấy đại đao trở nặng, nhấc lên không còn thuận tay như trước nữa.

Đang lúc nôn nóng, trước mắt y nháng lên ánh xanh, Thanh Phong kiếm đâm đến trúng ngực. Triệu Thế Hùng hoảng kinh vội rụt đao về chắn ngang nhưng nhuyễn kiếm như sương như khói, tỏa ra một vầng sáng xanh, nhẹ nhàng luồn qua sống đao. Triệu Thế Hùng búng người toan lui, chợt nghe Trương Thiên Ý quát lên "Trúng!", cùng với đó là cảm giác lành lạnh nơi ngực trái giống như có gió nhẹ vờn qua. Y loạng choạng lùi về sau, cúi đầu xem kỹ, từ ngực trái lên đến đầu vai in hằn một vết kiếm dài ngoằn, máu tươi trào ra từ từ nhuộm đỏ vạt áo.

- Đây là kiếm đầu tiên, khai trương mà gặp màu đỏ là điềm lành.

Trương Thiên Ý dùng ngữ điệu châm chọc, Triệu Thế Hùng lại thấy rờn rợn trong lòng. Một kiếm này mà đâm nhấn thêm vài phân nữa thì có thể lấy luôn mạng y, nhưng Trương Thiên Ý chỉ dùng sức vừa đủ vạch ra vết thương sâu không quá một phân.

Triệu Thế Hùng nhìn vết thương, trong lòng dâng lên một niềm bi phẫn. Đối thủ bỡn cợt như thế vốn chỉ coi y như hạng heo dê chờ người mổ xẻ mà thôi! Nghĩ vậy y hét lên một tiếng, đại đao xoay thành một vòng sáng, tiếng như sấm động, quét về phía Trương Thiên Ý.

Hai gã trên cây nhìn đến ngây ngốc, chỉ cảm thấy bất kỳ tuồng diễn nào cũng không li kì đáng sợ như màn chém giết trước mắt. Nhạc Chi Dương như trúng phải phép định thân, chân tay cứng đờ không thể cục cựa, miệng mồm chua lòe đắng nghét, bên tai vẳng mãi tiếng chào hàng ngoài phố. Phóng mắt nhìn ra, cao cao trên cột cờ ở quảng trường gần đó có treo một dàn đèn kéo quân thật lớn, hình tựa bánh xe, tỏa ánh sáng nhấp nháy. Hương vị bánh quế hoa từ xa xa tỏa đến pha lẫn vào mùi mỡ hành rải trên bánh rán thịt dê. Nhạc Chi Dương chợt cảm thấy bụng đói cồn cào, không khỏi nuốt ực một ngụm nước dãi. Đúng lúc ấy, bên tai vọng đến tiếng rầm rầm đập cửa, nhìn lại hóa ra có mấy tay công tử quần là áo lụa đang đứng trước cổng phường hát, miệng chửi bô bô, chân đá túi bụi vào cổng viện. Cánh cổng chẳng biết tự khi nào đã khóa kín, thằng nô giữ cửa cũng tót đi đâu mất.

Tuy chỉ cách một bờ tường, bên ngoài thì trăm bề náo nhiệt, bên trong lại đao kiếm rập rình. Chợt nghe Trương Thiên Ý quát khẽ: "Trúng!" cùng với đó là tiếng la tắc nghẹn vang lên. Nhạc Chi Dương tập trung tinh thần, căng mắt nhìn kỹ, bắp đùi Triệu Thế Hùng đã dính thêm một vết thương rỏ máu ròng ròng, thịt da toe toét, giống như một cái miệng toang hoác đang không ngừng co giật. Giang Tiểu Lưu nhìn đến điếng hồn, miệng toàn hơi lạnh.

- Kiếm thứ hai!

Trương Thiên Ý cười như gió xuân, áo trắng hơn tuyết, bóng kiếm trong tay lập lòe sắc xanh tựa đom đóm trong đêm hè nuốt chửng lấy ánh trắng của đao quang. Triệu Thế Hùng giật lùi từng bước, hiện đương độ kịch chiến, hai bên vết thương chảy máu không ngừng, theo thế xoay người vung đao của y, những đốm đỏ li ti cứ vẩy ra tung tóe, dính bết vào vạt áo trắng của Trương Thiên Ý hệt như hoa đào ngày tết, trông vô cùng ngoạn mục.

Đùi của Triệu Thế Hùng trúng thương, thân pháp dần chậm lại, phải vung đao chống trên đỡ dưới vô cùng khổ sở. Trương Thiên Ý tung kiếm càng lúc càng nhanh, nhoáng cái, eo và lưng Triệu Thế Hùng lại lãnh thêm hai nhát nữa.

- Hây!

Triệu Thế Hùng chém bừa một đao như nhắm vào đối thủ. Khoảnh khắc Trương Thiên Ý lách mình né đi, y chợt quét đao về đằng sau. Xoạt! Cột đài lại gãy thêm một cây, sân khấu lắc la lắc lư muốn sập, mấy cột chống còn lại phát ra tiếng kêu răn rắc.

Trương Thiên Ý đoán ra ý đồ của y, vội tung mình nhảy lên, vung kiếm loạc xoạc hai đường, liên tiếp đâm trúng ngực trái và chân phải của y. Đao pháp của Triệu Thế Hùng rối loạn, đầu gối chùn xuống, quan đao quét ra sát đất.

Trương Thiên Ý lại vọt lên tránh, cười bảo:
- Vẫn còn mười lăm kiếm!

Lời chưa dứt, quan đao đã vẽ thành một vòng tròn, rắc rắc rắc, ba thanh cột chống gãy lìa, sân khấu rào rào đổ ập, khói bụi bốc lên mịt mù. Tiếng gãy sụp lan xa mấy dặm, không chỉ đám khán giả ngoài cửa nghe thấy mà mấy kẻ vãng phố đằng xa cũng tranh nhau ghé mắt nhìn lại.

Bất ngờ, trong màn khói bụi ấy dậy lên một tiếng kêu thảm, một bóng người lảo đảo phi ra. Hai gã trên cây đều hổn hển thở gấp, chăm chú theo dõi. Triệu Thế Hùng đứng dưới đài, mão đội đã rơi đâu mất, râu tóc xõa bay rũ rượi, một vết kiếm rạch dài từ nửa bên đầu ra sau gáy, không chỉ làm tròng mắt nát bấy mà lỗ tai cũng bị tiện phăng, chỉ sót lại một phần vành trái còn móc lủng lẳng ở bên mang tai.

- Ngươi nghĩ làm náo động mọi người thì có thể thừa cơn hỗn loạn trốn thoát à?

Trương Thiên Ý từ tốn cười, chầm chậm bước ra khỏi màn khói, bộ nho sam màu trắng không vương lấy nửa hạt bụi. Thanh Phong kiếm sáng chấp chới, từng giọt máu tươi thuận theo mũi kiếm nhễu tong tong xuống mặt đất đọng thành những vũng nho nhỏ. Lúc này Nhạc Chi Dương mới phát giác ra trên thân thể của Triệu Thế Hùng có rất nhiều vết thương theo kiểu da thịt tầy huầy lộ cả xương trắng. Vô tình Nhạc Chi Dương đã hiểu rõ dụng tâm của Trương Thiên Ý, hắn oán thù quá sâu, kể giết đối thủ cũng chưa đủ giải hận, cần phải róc thịt kẻ thù từng nhát một mới có thể vừa lòng hả dạ.

Nhìn Triệu Thế Hùng, Nhạc Chi Dương nảy sinh thương xót, cơ hồ không đủ kiên nhẫn xem tiếp nữa, thế nhưng Trương Thiên Ý không cho đối thủ có phút ngơi nghỉ, mũi kiếm như độc xà lại chồm đến. Triệu Thế Hùng chập chững lùi về sau, vung đao chém ngang, một đao này thiếu hẳn dứt khoát như khí thế ban đầu. Trương Thiên Ý cười khẩy, nhẹ nhàng tránh khỏi mũi đao, Thanh Phong kiếm vạch xéo về bên trái, xuyên thủng một lỗ trên hốc vai của y. Triệu Thế Hùng gầm lên đau đớn, duỗi tay định tóm lại, nhưng Thanh Phong kiếm rút nhanh như chớp, lại thuận thế hất mạnh ra ngoài, năm ngón tay của y nhất loạt rụng xuống đất.

- Còn mười hai kiếm nữa!

Giọng điệu Trương Thiên Ý mang vẻ hưng phấn, hai mắt hắn sáng ngời, chóp mũi phập phồng, trên mặt nổi lên một lớp ráng đỏ, thần thái như một người ngư phủ đang say sưa ngắm nhìn chú cá mắc trên lưỡi câu của mình. Vút! Thanh Phong kiếm vẽ ra một vòng cung sáng rỡ, đâm về phía bụng dưới của Triệu Thế Hùng.

Triệu Thế Hùng cố sức nhảy giật lui, đáp xuống phía sau một kẻ xem kịch, kẻ đó bị "Dạ Vũ Thần Châm" điểm trúng huyệt đạo, đầu óc dù rất tỉnh táo nhưng thân thể thì không thể cử động, chợt thấy sống lưng lạnh toát, Thanh Phong kiếm đã xuyên qua thấu ngực, tức thì nhũn người chết tại chỗ.

Trương Thiên Ý rút trường kiếm về, khẽ cau mày, chợt nghe gió mạnh phất tới, đưa mắt nhìn qua thì thấy Triệu Thế Hùng đang huơ đao nhấc lấy một vị khán giả ném về phía hắn. Trương Thiên Ý lạng người tránh đi, kẻ đó húc đầu xuống đất lập tức não văng tung tóe. Hắn còn chưa đứng vững, Triệu Thế Hùng lại quẳng đến một người khác. Trương Thiên Ý nhắm tránh không kịp, mũi kiếm đâm lên, người ấy bị xẻ làm đôi, máu tươi bắn lên tà áo trắng tinh của hắn như vẩy mực.

Triệu Thế Hùng đi khập khà khập khiểng nhưng thân pháp thì lẹ như gió. Y luồn qua lách lại giữa đám người, biến toàn thể khán giả, đào kép trong phường hát thành bia đỡ kiếm cho y. Trương Thiên Ý vung kiếm vèo vèo làm cho tay lìa chân gãy bay tán loạn khắp trời.

Hai người đều là hạng tàn độc, một kẻ đương muốn báo thù, một kẻ muốn tìm đường sống, hệt như hai cơn gió mạnh cuốn đến tạt đi làm cho người trong sân không chết cũng bị thương, mà do huyệt đạo bị khống chế, dẫu họ có chết cũng chẳng ú ớ được tiếng nào. Thiếu niên trên chạc cây trông thấy thảm cảnh trần gian như vậy chỉ cảm thấy đầu óc tê dại, cổ họng khô rang, trong lòng chỉ chực chờ ý định muốn bỏ chạy.

Trong sân là bóng đao ánh kiếm, người ngoài sân cũng càng lúc càng kéo đến đông hơn. Họ đổ đến cổng lớn chỉ chỉ trỏ trỏ, bàn tán sôi nổi, tiếng đập cửa dồn dập liên miên như đối lập với sự im ắng trong sân viện lúc này.

Trương Thiên Ý cả người tắm máu, trong lòng ngầm hối hận sao lúc nãy trên sân khấu lại không dứt khoát dồn lực giết chết kẻ thù cho xong. Nghĩ đến đây, tay trái y tung chưởng hất văng xác người, tay phải xuất ra kiếm chiêu hiểm độc, nhắm thẳng vào những nơi trọng yếu của Triệu Thế Hùng.

Triệu Thế Hùng mượn xác người chắn đỡ, từng bước thụt lùi, nhanh chóng tiếp cận một bờ tường bao. Trương Thiên Ý chỉ cảm thấy không ổn, hét lên một tiếng, phóng kiếm đâm tới. Triệu Thế Hùng nhảy nép vào sau một thân liễu, mũi kiếm của Trương Thiên ý sấn đến chẻ cây liễu thành hai đoạn, đúng lúc này chợt nghe một tiếng quát to, từ khoảng không mờ mịt bên trên, Triệu Thế Hùng bật lên lưng chừng rồi bổ xuống một ánh đao như xé gió.

Một đao này khí thế kinh người, mạnh như Trương Thiên Ý cũng phải bất đắc dĩ lách người né tránh. Thân pháp của hắn nhẹ như khói mỏng, đao Triệu Thế Hùng rơi vào khoảng không, phập một tiếng cắm ngập xuống mặt đất hơn nửa thước. Trương Thiên Ý định tung người xồ đến, chợt nghe thấy một tiếng cười nhạt, Triệu Thế Hùng đã dùng trường đao làm sào chống, tung người phóng lên như một con chim lớn bay vượt khỏi tường bao cao hai trượng.

Vung đao chém người là giả, mượn lực bỏ chạy mới là toan tính của Triệu Thế Hùng. Trương Thiên Ý đoán sai ý địch, vừa giận vừa bất ngờ. Hắn nhảy lên đầu tường, tập trung quan sát. Một bóng người tập tễnh đang xông ra khỏi con hẻm nhỏ, lao vào dòng người làm rộ lên những tiếng la ó hoảng sợ.

Trương Thiên Ý dù thủ đoạn đến mấy cũng không tiện giết người ngay giữa phố. Hắn do dự một thoáng, ngoảnh đầu nhìn lại, trong phường hát ngổn ngang bừa bộn y như bãi tha ma. Người bị thương còn chưa chết hẳn, nằm vật vã giãy giụa trên mặt đất. Hắn chau mày, tay vung lên, trên trời chớp chớp lóa lóa, mấy kẻ còn đương giãy giụa đều lần lượt chết ráo, mùi máu tanh theo gió tản mác đi, hòa tan vào bóng đêm sâu thẵm.

Nhạc Chi Dương ngây ra một lúc, chớp mắt nhìn lại, đầu tường đã trống không, chẳng còn bóng dáng Trương Thiên Ý đâu nữa.

Hai gã thiếu niên hệt như mơ phải ác mộng, trố mắt nhìn nhau rồi lục tục trèo xuống khỏi thân cây. Con hẻm này nằm sát sông Tần Hoài ít người lai vãng, hai gã vừa chạm chân xuống đất thì cắm cổ chạy thục mạng, chạy đến bên bờ sông mới quay đầu nhìn lại, trong con hẻm lập lòe ánh lửa, tiếng người huyên náo, ước chừng có kẻ vừa trông thấy Triệu Thế Hùng xông ra khỏi đây nên chạy đến xem. Trống ngực hai gã thình thịch đập mạnh, vừa rồi mà chậm chút xíu thôi thì chắc chắn đã bị người ta tóm được.

Gió sông hiu hiu thổi đến, hai gã nhớ đến những điều tai nghe mắt thấy ban nãy đều run rẩy cả người. Giang Tiểu Lưu lập cập nói:
- Nhạc... Nhạc Chi Dương, tiếp theo nên làm gì đây?

Nhạc Chi Dương cười khổ:
- Còn sao nữa, ai về nhà nấy thôi!

Giang Tiểu Lưu há hốc bảo:
- Chết... Chết nhiều người quá...

Nhạc Chi Dương nói:
- Vậy thì sao? Ngươi muốn bắt hung thủ à?

- Phì! - Giang Tiểu Lưu mặt hầm hầm: - Bắt hung thủ, khác nào tự tìm đường chết? Hai người đó, không, hai cái tên đó căn bản là yêu quái. Xúi quẩy, xúi quẩy thật, hôm nay ông đây bị sao thái tuế chiếu mạng, chẳng ngờ gặp phải yêu quái! Nhạc Chi Dương, sau này có người đề cập đến thì hãy nói ông đây sang lầu Huyền Hà nghe kể chuyện, chưa từng đi xem kịch nhé.

Nhạc Chi Dương mỉm cười, quay đầu bỏ đi, đi chừng chục bước liền rút sáo ra thổi vang réo rắt. Tiếng sáo dặt dìu cao vút như trăm sợi tơ mềm vờn nhẹ bên tai Giang Tiểu Lưu. Dòng nước bên cạnh cứ lặng lẽ trôi, trong tiếng sáo kia lại càng trở nên u tịch. Con trăng nhấp nhô ngoài đầu sóng thấp thoáng như cảnh tượng ngư long nhả châu, một cánh thuyền rẽ nước lướt qua, mái chèo khua vỡ bóng trăng ngà, làm dậy bao lung linh ánh nước.



Nhà Nhạc Chi Dương ngụ tại hạ lưu sông Tần Hoài thuộc vùng ngoại ô kinh thành, gã đi mải miết một hồi, ánh đèn sau lưng dần dần thưa thớt, con đường phía trước càng lúc càng tối tăm. Vừa rẽ qua góc tường, một bàn tay thô kệch từ bên cạnh thò ra bóp chặt lấy cổ gã.

Nhạc Chi Dương chỉ cảm thấy ngạt thở, bất đắc dĩ vùng vẫy loạn xạ, thế nhưng bàn tay ấy cứng cáp mạnh mẽ, giãy thế nào cũng không thoát ra được. Gã chợt lấy lại bình tĩnh, nương theo kẻ nọ bước giật về sau, tránh khỏi vùng sáng đèn hướng vào một con hẻm tối như hủ nút.

Nhạc Chi Dương cảm giác cổ mình sắp gãy rời, trong phút hoảng loạn, gã bèn vơ lấy cây sáo trở tay đâm về phía kẻ nọ, chẳng ngờ bàn tay ấy lại nhả ra, đối phương lùi lại hai bước, nặng nề ngồi thụp xuống đất.

Nhạc Chi Dương lấy lại tự do, rụt chân định chạy, mới phóng vài bước chợt nhận ra không có ai đuổi theo, gã nhịn không được ngoảnh đầu nhìn lại, trông thấy một bóng đen đang co rúm nơi góc tường, thở hổn hà hổn hển.

- Í! - Nhạc Chi Dương buột miệng kêu: - Là ông?

Kẻ nọ ngẩng mặt lên, máu me bê bết, dưới ánh trăng lờ mờ, nửa khuôn mặt của y chẳng rõ bay tuốt luốt đâu mất, phần thịt dính nơi lỗ tai đong đưa qua lại.

- Cậu nhận ra ta? - Giọng Triệu Thế Hùng tắc nghẹn, ánh mắt lộ ra vẻ ngờ vực.

- Ta... - Nhạc Chi Dương ngây người, thầm nghĩ chuyện xảy ra trong phường hát không thể tiết lộ, đành đáp bừa: - Ta từng thấy ông diễn tuồng.

- Diễn tuồng? - Triệu Thế Hùng cười thê thảm, cúi đầu than: - Không sai, cả đời ta đều đang diễn tuồng...

Nói đến đây, y chợt ngẩng đầu lên, trừng mắt nhìn Nhạc Chi Dương, lạnh nhạt bảo:
- Nhóc con, vừa rồi cậu đã có thể bỏ chạy, còn quay lại đây làm gì?

Nhạc Chi Dương đáp:
- Ông bị thương rất nặng...

Triệu Thế Hùng hừ một tiếng, nói:
- Ta sống chẳng bao lâu nữa, tiếc thay chuyện lòng chưa xong, quả có chút ân hận.

- Là chuyện gì?

Lời vừa tuôn ra khỏi miệng, Nhạc Chi Dương chợt thấy hận mình vô cùng. Cái kẻ trước mặt bụng dạ độc ác, căn bản là không đáng để xót thương. Nhưng không hiểu sao nhìn y nát tươm mình mẩy, gã lại động lòng trắc ẩn.

Triệu Thế Hùng nhìn thấu tâm tư gã, cười bảo:
- Ta đổi tên không ít chẳng kể làm gì, nhưng tên thật thì chỉ có một, chính là Triệu Ứng Long từng làm đại tướng của Trương Sĩ Thành, về sau ta bán đứng hắn quay sang giúp Chu Nguyên Chương hạ thành Bình Giang (TG: hiện là Tô Châu), còn giết luôn đứa con Trương Thiên Tứ của hắn. Ầy, thằng khỉ ấy tính tình cũng ương bướng, giả như vui vẻ giao ra vật ấy thì ta đã không chém nó nhiều đao đến vậy...

Nhạc Chi Dương nổi xung thiên, mấy lần định trách móc y nhưng lời vừa dâng đến cửa miệng thì lại nuốt vào. Chỉ nghe Triệu Thế Hùng tiếp tục:
- Rất nhiều kẻ cho rằng ta phản bội Trương Sĩ Thành là vì muốn thăng quan tiến chức, nhưng họ coi thường ta quá, đừng nói muốn làm quan dưới trướng Chu Nguyên Chương không dễ dàng gì, cho dù lão có muốn ta làm ta cũng không có hứng thú...

Nhạc Chi Dương thấy y nói khoác không ngượng mồm, bực bội hỏi:
- Vậy ông có hứng thú với điều gì?

Triệu Thế Hùng bật cười, từng chữ một nhả ra:
- Võ công!

Nhạc Chi Dương sững sờ:
- Võ công à?

- Không sai! - Triệu Thế Hùng thở hắt ra một hơi: - Trên đời này có người muốn vật chất, có kẻ tham quyền thế, còn với ta, thứ cần là võ công vô địch thiên hạ!

- Vô địch thiên hạ? - Nhạc Chi Dương càng cảm thấy kỳ quái: - Thế thì có gì hay ho đâu?

Triệu Thế Hùng lắc đầu:
- Cậu không thù không oán, đương nhiên thấy không có gì hay cả, nhưng nếu cậu có một kẻ thù, võ công hiếm thấy trên đời, muốn báo thù trừ khi võ công của cậu cao hơn hắn ta thì chẳng còn cách nào khác!

Nói đến đây, y trở nên trầm tư, đầu ngẩng lên nhìn trời ngây dại, rồi lại thở dài xa xăm kể:
- Ta vốn là người áp tiêu của Hổ Uy tiêu cục ở Thái Châu. Cha ta, Triệu Sư Ngạn, là tiêu đầu trong tiêu cục với thanh Trảm Phong đao nức tiếng xa gần, bình sinh hộ tiêu chưa từng xảy ra mất mát. Cha mẹ ta sinh được ba nam một nữ, ta đứng hàng thứ hai, vào năm ta mười tám tuổi thì thiên hạ đã trở nên nhiễu nhương, đường sá chẳng còn được yên ổn.

- Năm ấy, cha mang theo ta hộ tống một kiện châu báu đến Bình Giang. Vừa rời khỏi Thái Châu chưa xa, bỗng có kẻ xồ ra chặn đường. Ban đầu, cha ta còn tưởng là hạng thổ phỉ nhãi nhép, bèn lấy ra hai đĩnh bạc tặng cho họ để họ nhường đường, ai ngờ tên đầu sỏ sau khi nhận bạc rồi lại ném đi, cười bảo: "Bố thí cho ăn mày à? Triệu Sư Ngạn, ta biết lần này ngươi đích thân ra tay thì kiện hàng kia nhất định không tầm thường, ta gần đây túng quá, ngươi làm việc tốt chia cho ta nửa số châu báu ấy, ta lập tức đi ngay, quyết không gây khó dễ ngươi!" Tên đầu sỏ ấy biết rõ lai lịch của cha, vừa mở miệng đã đòi đến phân nửa số hàng, cha ta không khỏi giật mình truy vặn lai lịch của hắn nhưng kẻ ấy chỉ cười trừ không đáp. Có tiêu sư bất bình, nhảy lên trước khiêu chiến nhưng không chống lại được khoái kiếm của hắn ta, thoắt cái đã có hai người bị thương. Ta nhìn mà ngứa mắt, đang định xông lên nhưng bị cha cản lại, người cất giọng: "Kiếm pháp túc hạ tuyệt lắm, tiếc là hơi lạ mắt, đao của Triệu mỗ đây không chém kẻ vô danh, ngươi mau báo tên tuổi đi!" Kẻ kia cười đáp: "Ta chặn đường cướp bóc cũng do tình thế ép buộc, khai tên báo họ chỉ tổ làm nhục sư môn. Từng nghe danh "Trảm Phong Đao", đao vung ra thì chém gió chặt mây, ta ngưỡng mộ đã lâu, hôm nay vừa hay xin được chỉ giáo!" Cha ta thấy hắn kiếp pháp thành thục, ăn nói cũng không thô lỗ, biết hắn không phải hạng thổ phỉ tầm thường liền bảo: "Chỉ là danh hèn đâu đáng nhắc đến, túc hạ kiếm pháp cao minh khiến ta rất bội phục, nhưng ngươi đả thương tiêu sư bên ta, không thể cho qua được!" Nói rồi, cả hai cùng động thủ. Kẻ ấy tuy kiếm pháp nhanh nhạy nhưng chưa đủ già dặn, chưa đầy hai mươi chiêu sườn trái tay phải của hắn đã trúng đao của cha, trường kiếm cũng rơi xuống đất. Ta đứng xem bên cạnh, đinh ninh cha ta bổ xuống một đao nữa là hắn toi mạng ngay, ngờ đâu người nhảy về phía sau, bảo: "Ngươi đả thương hai vị thủ hạ của ta, ta cũng chém ngươi hai đao, ta với ngươi có qua có lại, đường ai nấy đi thôi!" Kẻ ấy trừng mắt nhìn cha ta rồi bật cười quái lạ: "Triệu Sư Ngạn, ngươi không giết ta, ngày sau đừng hối hận!" Cha ta cảm khái đáp: "Triệu mỗ hành xử đúng lẽ, chưa từng hối hận!" Kẻ ấy cười ha hả mà rằng: "Hay cho hành xử đúng lẽ, Triệu Sư Ngạn, hai đao này ta sẽ ghi nhớ!" Nói rồi cởi lấy thắt lưng ném xuống đất, khập khiễng dẫn đồng bọn bỏ đi.

- Ta sốt ruột nhìn cha, oán trách: "Kẻ này ngông cuồng như vậy, sao cha không một đao giết quách cho rồi?" Cha ta lắc đầu: "Kiếm pháp của hắn vô cùng cao minh, chỉ hiềm chưa học tới nơi tới chốn nên vừa rồi mới bại dưới tay ta. Người này lai lịch không nhỏ, ta giết hắn chả khó, nhưng nếu kích động đến kẻ chống lưng cho hắn chỉ sợ không dễ đối phó! Ứng Long à, con ngàn lần phải nhớ kỹ, giới bảo tiêu như chúng ta trong đầu luôn tâm niệm một chữ Nhẫn, chữ thứ hai mới là Võ, nếu cứ gặp trộm giết trộm, gặp cướp giết cướp, thì con có giết nổi toàn bộ trộm cướp trong thiên hạ này không?" Ta chẳng còn gì để nói, chợt nhìn đến sợi thắt lưng rơi dưới đất, lòng nổi tò mò liền đến nhặt nó lên, chỉ thấy trên thắt lưng có thêu hình một con đà long nhỏ màu bạc, bèn đưa cho cha xem. Cha ta nhìn qua bỗng nhiên sắc mặt thay đổi, lập tức nhét nó vào trong ngực không để cho ai khác trông thấy rồi gọi cả đoàn lên đường.

- Suốt dọc đường, cha ta vô cùng trầm ngâm, ta thấy cha đầy ấp tâm sự, mấy lần lân la dò hỏi, người đều đáp quấy quá lảng đi. Chẳng mấy chốc thì đến Bình Giang, sau khi hoàn tất việc giao hàng, chiều ngày hôm ấy cha gọi ta đến trước mặt bảo: "Ta mới nhận được hai mối làm ăn, một chuyến đi Dương Châu, chuyến còn lại ở khá xa, mãi tận Cửu Giang ở Giang Tây. Ta cân nhắc rồi, hai chuyến hàng này đều rất quan trọng, có câu 'Đả hổ thân huynh đệ, lâm trận phụ tử binh' (*), ta không an tâm giao cho người ngoài, Ứng Long à, tuy con tuổi hãy còn nhỏ nhưng đã được ta đích thân dạy dỗ, cho nên ta muốn để con đảm riêng một chuyến. Con xem, Dương Châu và Cửu Giang, con chọn đi đường nào?"
(ND chú: ý đại khái là phàm những chuyện hệ trọng thì chỉ tin người ruột thịt trong nhà)

- Ta nghe được lời này mừng quýnh mừng quáng, theo cha đi đã biết bao đợt tiêu nhưng ta chưa từng đảm đương một mình bao giờ. Đại trượng phu gánh việc gian khó, nếu đã nhận đi thì tất nhiên phải càng xa càng tốt, vậy nên ta hào hứng thưa: "Con đi Cửu Giang!" Cha ta gật gù: "Có chí khí! Không hổ là con trai nhà họ Triệu ta." Nói dứt bèn lôi ra một chiếc hộp bằng gỗ lim khảm ngọc, cầm nặng trình trịch. Ta đoán bên trong nếu không phải kim ngân châu báu thì cũng là cổ vật quý giá, nhất thời đỡ lấy hộp gỗ mà vui mừng đến run rẩy. Cha vỗ về vai ta, căn dặn: "Chiếc hộp này cần phải giao vào ngày tám tháng năm, người nhận là Trần Tỉnh Sinh Trần lão gia tại hiệu trang sức Cát Tường ở đường Bắc Đại vùng Cửu Giang, con đã nhớ chưa?" Ta nhẩm lại mấy lần, âm thầm ghi khắc. Cha lại nói: "Lần đầu bảo tiêu, ta sẽ sai mấy vị tiêu sư tâm phúc đi với con, họ đều là giang hồ lão luyện, trên đường đi con cứ học hỏi nhiều vào!" Ta mừng rơn trong lòng, chỉ muốn lập tức xuất phát, bèn vâng dạ rồi xoay người rời đi. Lúc ra đến cửa, ta ngoảnh lại nhìn cha, chợt thấy người đang ngây dại dõi theo ta, nơi khóe mắt lấp lánh ánh lệ...

Nói đến đây, Triệu Thế Hùng ngẩng đầu lên, con mắt còn lại đăm đắm ngước vọng bầu trời thoáng vẻ mông lung. Nhạc Chi Dương không nhịn được liền hỏi:
- Sao cha ông lại buồn như vậy?

Triệu Thế Hùng lặng im một lúc khẽ đáp:
- Lúc ấy ta đang cơn hào hứng, trông thấy thần sắc của cha cũng không suy nghĩ sâu xa mà chỉ cho rằng người lớn tuổi thường hay mềm lòng, sầu não lúc chia ly. Mà chuyến tiêu ấy thì vô cùng cấp bách, ta không dám lãng phí thời gian, thế nên chập tối thì xuất phát. Năm đó nạn đói hoành hành, đạo tặc khắp nơi, suốt hành trình chuyến tiêu ấy gặp phải không ít trắc trở khó khăn, may nhờ đao pháp của ta cũng có chút thành tựu, thêm tiêu sư trợ giúp đắc lực, sau cùng vào buổi chiều ngày sáu tháng năm cũng đến được đất Cửu Giang. Ngờ đâu khi đến nơi hỏi thăm, bọn ta chỉ đành kêu trời, chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao!

- Sao thế? - Nhạc Chi Dương ngạc nhiên: - Có kẻ cướp tiêu à?

- Không phải! - Triệu Thế Hùng lắc đầu: - Cửu Giang đúng là có con đường tên Bắc Đại, thế nhưng nơi đó chẳng có hiệu trang sức nào gọi là Cát Tường cả, càng không có cái kẻ Trần Tỉnh Sinh Trần lão gia!

Nhạc Chi Dương nói:
- Cha ông chắc đã nhớ nhầm rồi.

Triệu Thế Hùng thở dài:
- Người không nhớ nhầm, người chỉ nói dối thôi!

Nhạc Chi Dương càng thêm khó hiểu:
- Sao ông ấy phải nói dối?

Triệu Thế Hùng đáp:
- Ta cũng thắc mắc, cha ta trước giờ làm việc nghiêm túc, sao lại bày ra trò đùa bỡn này? Lại nhớ đến dáng vẻ của người trước khi lên đường, lòng ta càng thêm lo lắng. Lúc này có tiêu sư gợi ý, nếu đã không ai nhận hàng thôi thì mở ra xem chuyến hàng lần này là gì. Lời ấy liền thức tỉnh ta, ta mở hộp ra xem, bên trong đầy ấp thoi vàng nén bạc, xếp phía trên còn có một phong thư do cha ta đích thân viết! Ta lấy làm lạ, mở thư ra xem một lượt, gần như muốn ngất đi.

- Trong thư ghi những gì? - Nhạc Chi Dương hỏi.

Triệu Thế Hùng thở ra một hơi, cười buồn:
- Trong thư cha ta nói, lúc ta đọc được lá thư này, người có lẽ đã chết rồi. Kẻ gây ra vụ cướp bên ngoài thành khi ấy chính là bọn lái buôn của Diêm Bang đất Thái Châu, còn con đà long bạc kia chính là ký hiệu của bọn chúng. Bản thân Diêm Bang không đáng sợ nhưng thế lực sau lưng chúng thì không phải tay vừa, tương truyền rằng thủ lĩnh của Diêm Bang đều xuất thân từ Đông Đảo...

- Đông Đảo? - Nhạc Chi Dương thắc mắc: - Đó là gì vậy?

Triệu Thế Hùng thở dài đáp:
- Cái tên ấy bây giờ nói ra có vẻ xa lạ, nhưng ba mươi năm trước thì như sét đánh ngang tai. Năm ấy những kẻ nổi dậy phản Nguyên như Hàn Sơn Đồng, Từ Thọ Huy, Bành Oánh Ngọc đều xuất thân từ Đông Đảo mà ra, bọn họ chít khăn đỏ quanh đầu, cũng là kế thừa truyền thống của Hồng Đái Quân. Hồng Đái Quân vốn do đại hiệp Vân Thù lập ra (TG: xin xem tác phẩm Côn Luân), y vốn là đại tướng của triều Tống, vào lúc Tống diệt Nguyên hưng liền nổi dậy kháng Nguyên, khắc chế cường địch, oai danh bao trùm Hoa Hạ, về sau dùng binh thất bại, bị quân Nguyên vây ở núi Nhạn Đãng vùng Chiết Giang. Y khổ chiến quyết không khuất phục rồi hy sinh anh dũng. Đệ tử Đông Đảo noi theo ý chí của y, luôn xem việc đánh đuổi giặc Thát là nhiệm vụ của mình, nhưng vì thế cô lực mỏng nên phải chiêu nạp đệ tử rộng rãi. Đáng tiếc đệ tử càng nhiều càng khó tránh vàng thau lẫn lộn. Ba vị Hàn, Từ, Bành mà ta đề cập ở trên đều là những vị hào kiệt quang minh lỗi lạc, tiếc rằng không giỏi tranh quyền đoạt lợi, kết quả đều chết trong tay những tên bại hoại của Đông Đảo. Về sau mấy kẻ tranh giành thiên hạ với Chu Nguyên Chương như Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, Phương Quốc Trân, Minh Ngọc Trân tuy mang tiếng là đệ tử Đông Đảo nhưng thảy đều nham hiểm, độc ác, hiếu sát vô độ, thêm vào đảo vương Đông Đảo khi ấy là Vân Xán hồ đồ bất kể đúng sai, chỉ chăm chăm nghe lời một phía, bị cuốn theo lũ cặn bã ấy gây họa không ít cho chúng sinh, gần như hủy hoại toàn bộ cơ nghiệp của Đông Đảo.

Triệu Thế Hùng nhớ lại tình cảnh năm ấy quần hùng tranh đoạt, cõi lòng dậy bao đợt sóng, trầm ngâm hồi lâu mới tiếp tục:
- Mấy chuyện này kể ra dài dòng, tạm thời không nhắc nữa. Diêm Bang ở Thái Châu vốn là một lũ buôn muối lậu, chẳng hiểu vì sao cấu kết được với Đông Đảo, lập tức diệu võ dương oai, không ai đọ nổi, ở khắp vùng Dương Châu, Thái Châu có thể nói là đầy rẫy tai tiếng, chỉ vì thế lực lớn mạnh, quan phủ cũng không dám truy cứu. Ký hiệu của Đông Đảo là một con đà long màu vàng, Diêm Bang là một nhánh lẻ liền dùng đà long màu bạc làm hiệu. Lúc ấy đại đa số hành vi sai trái của Diêm Bang liên quan tới việc buôn muối lậu, nào giờ chưa từng xảy ra chuyện cướp tiêu. Theo ta phỏng đoán, việc chặn xe tiêu hôm ấy hẳn là do có kẻ trong bang làm ăn thua lỗ, không biết ăn nói sao với cấp trên nên mới nghĩ ra hạ sách này. Dè đâu cha ta không thức thời nhượng bộ, chúng cướp tiêu thất bại đành hậm hực trở về, nhưng người trong bang vốn ti tiện hẹp hòi, hay để bụng thù vặt, từng vì một chút hiềm khích mà giết sạch cả nhà đối thủ. Dựa vào võ công của cha ta, cao thủ Diêm Bang chưa chắc thắng nổi, tuy nhiên cao thủ Đông Đảo mà đến, tiêu cục chẳng còn cửa sống. Cha ta trông thấy ký hiệu đà long bạc, tự biết khó lòng thoát nạn, cho nên mới nghĩ ra cách sắp xếp, mượn danh nghĩa áp tiêu hòng gạt ta đi thật xa, tránh cảnh Diêm Bang nhổ cỏ triệt tận gốc. Cha biết tính khí ta cao ngạo, trong hai chuyến tiêu ấy nhất định chọn lựa Cửu Giang, đợi khi ta tới Cửu Giang nhận ra điều không ổn rồi, có muốn trở lại Thái Châu cũng không kịp nữa. Trên thư cha ta còn nói, mấy vị tiêu sư đi cùng ta đã theo người vào sinh ra tử suốt bao năm qua, người không muốn liên lụy đến họ, bảo ta đem vàng bạc trong hộp phân chia cho mọi người, dặn mọi người đi đâu thì đi, ngàn vạn lần không được quay lại Thái Châu!

- Xem xong thư ấy, ai nấy đều bi phẫn, thảy đều khóc rống lên, đòi trở về Thái Châu quyết cùng cha đồng sinh cộng tử. Nhưng ta là người đầu tiên bình tĩnh lại, thầm nghĩ kẻ thù lớn mạnh, mấy tiêu sư đây võ công có hạn, trở về rành rành là tìm đường chết, vì thế ta quát chặn mọi người, phân tiền phát bạc cho họ rồi ra lệnh giải tán, sau đó một mình một đao lén trở về Thái Châu. Nào ngờ khi vào thành dò la ta mới hay tin sét đánh, chẳng những cha ta gặp nạn mà toàn bộ người trong tiêu cục cũng chết sạch trong đêm, phòng ốc trong tiêu cục bị một mồi lửa thiêu thành đất bằng, ngay cả người chị gả cách xa Dương Châu của ta cũng không may mắn thoát được, cả nhà anh rể mười hai mạng, bất kể nam nữ già trẻ đều chết tức tưởi...

Kể đến đây, Triệu Thế Hùng thở phì phò, thân thể kềnh càng co gập lại thành một khối, vết thương trên người y rách toạc, máu chảy dềnh ra mặt đất. Nhạc Chi Dương nhìn người đàn ông này, nghĩ đến mối thù sâu như bể của y, lòng bất giác xót xa bèn nói:
- Ông bị thương nặng lắm, ta dẫn ông đi gặp đại phu...

Nói xong định dìu y dậy, thình lình Triệu Thế Hùng chụp mạnh lấy cổ tay gã nhanh như chớp.

Cổ tay Nhạc Chi Dương như gãy rời, đau muốn ngất lịm. Lúc này vẻ hung hăng trong mắt Triệu Thế Hùng bỗng dịu đi, y nhả tay ra cười khổ:
- Ta mất máu quá nhiều, tạng phủ cũng bị thương nặng, Hoa Đã có sống lại cũng chẳng cứu trị nổi. Người sắp chết, lời thường chân thật, câu chuyện này ta đã chôn chặt trong đáy lòng suốt bao năm trường, nếu không kể ra, chết chẳng nhắm mắt. Tiểu huynh đệ, cậu là người tốt, người tốt làm ơn cho trót, nghe ta kể xong đã!

Nhạc Chi Dương đành bất đắc dĩ gật đầu. Triệu Thế Hùng thở dốc một hồi lại tiếp tục kể:
- Lúc ấy ta giận đến phát cuồng, chỉ muốn báo thù rửa hận, bèn thay áo bịt mặt lẻn vào tổng đường của Diêm Bang ám sát hai tên thủ lĩnh. Diêm Bang vừa kinh ngạc vừa giận dữ, sai bọn tay chân lục soát khắp thành, lại thêm hai cao thủ Đông Đảo đuổi đến. Ta và chúng đánh nhau đến suýt nữa bỏ mạng, bị trọng thương phải trốn vào núi hoang, may nhờ một vị cao tăng thu nhận, tịnh dưỡng ròng rã suốt mấy tháng mới dần khỏi. Nhưng đến khi ta xuống núi, đội quân Hồng Cân đã nổi dậy ở Trung Nguyên, nghĩa quân phía nam cũng nhao nhao hưởng ứng, Diêm Bang thay hình đổi dạng trở thành một nhánh nghĩa quân, đánh đuổi quan lại Đại Nguyên rồi chiếm đóng Thái Châu, Dương Suất.

- Kẻ thù càng lúc càng mạnh, việc báo thù cũng trở nên mịt mờ. Khi ấy đương cơn lửa binh, đi đến đâu cũng thấy người chạy nạn. Ta chen lẫn giữa đám nạn dân ấy mà ngẩn ngơ suốt mấy tháng. Một hôm nọ, ta đến ngoại thành Cao Bưu, chợt nghe có người kêu to: "Trương Sĩ Thành Trương đại soái đến rồi!", kèm theo đó là tiếng kèn hiệu trỗi lên, một đoàn người ngựa đang tiến lại. Mấy ngày này ta đã sớm biết tới đại danh của Trương Sĩ Thành, nghe đâu hắn đánh bại quân Nguyên, thần oai vô song, nên ta thử ghé mắt nhìn ra, chỉ thấy kẻ dẫn đầu mặc khôi vàng giáp bạc, cưỡi trên một con ngựa trắng đang tươi cười cung tay chào hỏi bá tánh ngoài thành. Đến khi nhìn rõ được dung mạo kẻ này rồi, ta dường giận đến nổ phổi. Kẻ này phải ai đâu xa lạ, chính là tên thổ phỉ cướp tiêu dạo nọ, hiềm nỗi cha ta nhân từ không chém cho hắn một đao chết tốt để ngày nay tên cẩu tặc này thú đội lốt quan, lại trở thành thủ lĩnh nghĩa quân Giang Hoài. Lúc đó lòng ta sục sôi căm phẫn, tay đã đặt lên cán đao nhưng ánh mắt bỗng bắt gặp hai lão già ở đằng sau Trương Sĩ Thành, hai lão đều là cao thủ của Đông Đảo, cũng chính là kẻ đả thương ta ngày trước. Ta thấy tình hình như vậy, hiểu rằng giết Trương Sĩ Thành không xong, đành tạm thời âm thầm chịu đựng.

- Từ đó trở đi, ta liên tục nghĩ cách báo thù, nghĩ tới nghĩ lui, nhớ lại cha ta từng nói rằng: "Giới bảo tiêu như chúng ta, trong đầu luôn tâm niệm một chữ Nhẫn, chữ thứ hai mới là Võ." Hiện tại, dựa vào võ công thì chẳng thể báo thù, vậy thì chỉ có thể bằng chữ Nhẫn mà bày kế sách. Xưa, Việt Vương Câu Tiễn liều thân làm nô bộc phục vụ cho Ngô Vương Phù Sai, về sau tích tụ và đúc kết mười năm cuối cùng cũng chiếm được nước Ngô để báo thù rửa nhục. Đối mặt với cường địch như thế, nếu ta chỉ chăm chăm báo thù, chẳng phải không tự lượng sức hay sao? Nghĩ đến đây, ta đã thông suốt tư tưởng, hôm sau liền bán đi bảo đao tổ truyền để rèn lại một thanh đại quan đao nặng tám mốt cân, đổi tên thành Triệu Thế Hùng, đầu quân dưới trướng Trương Sĩ Thành, từ hạng tiểu tốt dần dà ngoi lên, nhiều lần xông pha chiến đấu lập được công trạng. Hơn một năm sau, tên tuổi "Khoái Tai Đao" lan xa, gây được sự chú ý của Trương Sĩ Thành. Khi ấy, dung mạo ta đổi thay, đao dùng cũng không phải của tổ truyền, Trương Sĩ Thành chẳng những không nhận ra mà ngược lại còn giúp ta thăng quan tiến chức. Nhờ trời cao có mắt, về sau hắn bị quỷ ám xem ta là tâm phúc, để ta làm thống lĩnh thân quân dưới trướng của hắn.

Nhạc Chi Dương sốt ruột hỏi:
- Rồi ông ám sát hắn ư?

- Không! - Triệu Thế Hùng lắc đầu: - Lúc đó nếu ta giết hắn thì quả là dễ như trở bàn tay, nhưng giết hắn rồi lại nảy ra thêm những tên đầu lĩnh khác của Diêm Bang thay thế thì cũng vậy; hơn nữa kẻ thù của ta không chỉ mỗi Diêm Bang mà còn có Đông Đảo, muốn báo thù thật sự chỉ có thể khiến cho Trương Sĩ Thành nước mất nhà tan. Mà cho dù có như thế cùng lắm cũng chỉ hủy đi Diêm Bang ở Thái Châu, Đông Đảo ở đằng sau chẳng rụng một sợi lông cọng tóc nào. Giữ lại suy nghĩ này, ta tiếp tục ẩn nhẫn thờ thời, đúng vào lúc ấy, trời ban cho ta một cơ hội.

- Là cơ hội gì? - Nhạc Chi Dương tò mò.

Triệu Thế Hùng cười đắc ý:
- Sau khi Trương Sĩ Thành đẩy lui quân Nguyên ở Cao Bưu đã ngấm ngầm trở thành đầu tàu của nghĩa quân phương nam. Hắn tự mãn, thừa thắng chiếm lấy đất Bình Giang, kẻ này bụng đầy mưu toan nhưng tiếc là thiếu đi chí lớn, chả rõ nghe lời xằng bậy từ đâu mà quyết định đóng đô tại Bình Giang. Phủ Bình Giang đường sông ngang dọc, trên bộ cây mọc um tùm, thủy quân bên địch mà đến thì chẳng chạy đâu khỏi. Xưa rày, ngoại trừ Ngô Vương Phù Sai, chưa có một triều đại nào chọn nơi đây để đóng đô, Phù Sai làm vua thất bại cũng bởi không chịu nghe theo đời trước. Ta lấy ngạo khí của Câu Tiến, ấp ủ ý chí phá Ngô, biết rõ hành động lần này không ổn nhưng cũng không tiện vạch trần. Chẳng bao lâu sau, Trương Sĩ Thành tự xưng Ngô Vương ở Bình Giang, ngày kế sau khi hắn xưng vương bỗng đâu xuất hiện một vị đạo sĩ trẻ, thần thái vênh váo, bảo muốn gặp Ngô vương Trương Sĩ Thành.

- Ta thân làm thống lĩnh cấm vệ, thấy y lời lẽ vô lễ, vốn muốn đuổi đi, dè đâu người đó rút ra một phong thư bảo: "Ngươi giao bức thư này cho Ngô vương, ngài xem qua chắc chắn sẽ muốn gặp ta!" Ta thấy y tự tin tràn trề, thầm cảm thấy lạ, bèn sai người trông chừng đạo sĩ để ta đích thân mang thư vào cung. Đến một nơi vắng vẻ, ta len lén mở thư ra xem...

- Trời ạ! - Nhạc Chi Dương thốt lên: - Thư bị mở rồi, Trương Sĩ Thành lẽ nào không phát hiện?

Triệu Thế Hùng lắc đầu đáp:
- Ta nuôi kế phục thù, hễ là thư quan trọng ta đều phải xem qua bằng hết, cho nên tự ta có cách thức riêng khiến cho bì thư không bị rách cũng có thể xem được nội dung bên trong. Khi ấy ta liếc qua bì thư, bên trong chỉ có một tờ giấy, mặt trên ghi bốn chữ: Linh Đạo Thạch Ngư!

- Linh Đạo Thạch Ngư? - Ngạc Chi Dương mù mờ: - Đó là gì vậy?

Triệu Thế Hùng chẫm rãi kể:
- Lúc đó ta cũng không biết ý nghĩa bốn từ này, cho nên đậy thư lại như cũ rồi giao cho Trương Sĩ Thành. Nào ngờ hắn vừa mở thư ra xem thì trước tiên kinh ngạc, kế đó lộ vẻ vui sướng. Ta đứng bên liếc thấy, trong lòng hết sức bồn chồn, kẻ này trước nay vui buồn không thể hiện, vì sao trông thấy bốn từ này lại bộc lộ cảm xúc như vậy? Trương Sĩ Thành xem qua mấy lượt, trịnh trọng cất thư vào người, dặn ta triệu kiến vị đạo sĩ nọ. Gặp đạo sĩ rồi, hắn lần đầu tiên xua ta ra ngoài, rất lâu sau mới lệnh đạo sĩ lui ra rồi gọi ta vào hỏi: "Thế Hùng, ta đối xử với ngươi thế nào?" Ta đáp: "Bệ hạ đối với thần còn hơn cả cha mẹ, tiểu tướng có chết trăm lần cũng không đủ đền đáp." Ta vì muốn báo thù nên cố tình xung xoe nịnh nọt, nhưng Trương Sĩ Thành lại nghe rất bùi tai, hắn nói: "Thế Hùng, ngươi thay ta làm một việc, việc này chỉ có ta và ngươi biết, không được để người thứ ba biết!" Ta đáp: "Bệ hạ đã căn dặn, tiểu tướng quyết không từ chối!" Trương Sĩ Thành nói: "Tên đạo sĩ ấy ngươi đã thấy rồi, tối đêm nay, ngươi dẫn binh sĩ theo y đến Huyền Thiên quán ngoài thành Hổ Khâu, mang về cho ta một món đồ. Sau khi lấy xong, giết chết tất cả đạo sĩ kể cả kẻ đứng ngoài cửa kia, không chừa một ai!" Ta thấp thỏm hỏi: "Món đồ cần lấy có hình dạng thế nào?" Trương Sĩ Thành ngần ngừ một lúc, nhỏ giọng bảo: "Hình dạng ra sao ta cũng không rõ, nhưng đạo sĩ ngoài cửa chắc chắn biết. Nhớ kỹ, sau khi xong việc giết người diệt khẩu, không để sót một tên đạo sĩ nào!"

Nhạc Chi Dương tức tối:
- Tên Trương Sĩ Thành ấy đúng là không ra gì!

Triệu Thế Hùng nói:
- Người làm chuyện lớn không câu nệ tiểu tiết, nếu không nham hiểm độc ác thì một kẻ buôn muối lậu như y sao có thể hiển lộ tài năng, lập đất xưng vương cho được? Thật ra, mấy chuyện như vậy ta cũng đã thay hắn làm không ít, duy chỉ có lần này là kỳ lạ nhất. Ta dẫn binh mã và đạo sĩ xuyên màn đêm thẳng tiến đến Hổ Khẩu, bao vây kín cả Huyền Thiên quán. Tiểu đạo sĩ trông thấy quán chủ của Huyền Thiên quán liền đánh tiếng bảo hắn giao ra Linh Đạo Thạch Ngư. Vị quán chủ ấy đạo hiệu là Ánh Chân, dáng vẻ ôn hòa nhã nhặn, vốn là người theo đạo. Hắn thấy tình hình như vậy, tự biết không thể kháng cự, vì vậy bưng ra một cái hộp bằng gỗ đỏ nói với ta rằng: "Nghịch đồ mờ mắt vì tiền, tiết lộ bí mật của bổn quán, quả là đáng giận đáng trách. Thế nhưng vật này chẳng qua chỉ là di vật của cao nhân đời trước để lại, Ngô Vương dù chiếm được nó cũng chẳng dùng được, vì một thứ vô dụng mà tổn hại sinh mạng người khác không phải hành động của bậc trí nhân, hy vọng tướng quân lấy nó rồi sẽ không gây khó dễ cho bản quán nữa."

- Lúc Ánh Chân đạo nhân nói những lời ấy, thần sắc rầu rầu u uẩn, đủ thấy hắn thấu hiểu sự đời, biết rõ người đến không có ý đồ tốt. Ta đón lấy hộp mở ra xem, bên trong có đặt một viên đá chạm khắc phỏng theo hình cá, nhìn qua không thấy điều gì khác lạ. Vì vật này mà giết hết đám đạo sĩ há chẳng phải chuyện bé xé ra to ư? Nhưng khi ấy ta chưa báo được thù, không tiện chống lệnh vua, liền hỏi tiểu đạo sĩ: "Là nó đấy à?" Tiểu Đạo sĩ mặt mày hớn hở, luôn mồm: "Phải, phải..." Lời còn chưa dứt, đại đao của ta đã vung lên chém đứt đầu y.

Nhạc Chi Dương nghe đến đây buột miệng hô khẽ, Triệu Thế Hùng liếc gã thở dài:
- Tiếp theo đó là giết người phóng hỏa, hơn một trăm đạo sĩ trong quán gần như chết không còn một mống, chỉ có Ánh Chân đạo nhân võ công không tồi, cố mở đường máu thoát khỏi trùng vây. Ta cố ý bảo tướng sĩ lui ra để mình đích thân đuổi theo. Đuổi đến bên suối Hổ Bào, lão đạo nhân ấy trúng thương nặng, chịu không nổi ngã quỵ xuống. Ta thấy xung quanh không có ai bèn đưa hắn giấu vào một chỗ bí mật còn mình thì quay trở lại vương cung bẩm báo kết quả. Sau khi giao nộp Thạch Ngư, Trương Sĩ Thành căn đi dặn lại bảo ta không được tiết lộ việc này ra ngoài. Ta giả lả đồng ý rồi lặng lẽ rời khỏi cung vua, tìm đến nơi ẩn náu của Ánh Chân đạo nhân. Lúc đến nơi, lão đạo nhân đã hồi tỉnh. Ta hỏi thăm lai lịch của Thạch Ngư, hắn ban đầu sắc mặt dửng dưng, ngậm mồm không đáp. Về sau ta mất hết kiên nhẫn, đành kể ra mối thù với Trương Sĩ Thành. Hắn lẳng lặng nghe kể xong, một lúc sau mới lên tiếng: "Lệnh tôn Sư Ngạn có duyên gặp ta một lần, thảm cảnh nhà ông ấy ta cũng có nghe qua, nếu quả thật túc hạ không nói ngoa mà đã chịu đựng nhẫn nhục để báo thù cho người nhà, quả là có khí khái của hiệp sĩ đời trước. Thôi được, ngươi hãy lập lời thề, sau này khi thời cơ đến hãy giết chết Trương Sĩ Thành rửa thù cho đạo sĩ bổn quán."

- Ta nghe thấy lời này, tức khắc quỳ xuống tuyên thệ. Lúc này Ánh Chân mới nói: "Viên Linh Đạo Thạch Ngư ấy vốn có từ đầu nhà Tống, khi ấy Đông Đảo còn chưa sáng lập, tổ sư trên đảo là Thích Ấn Thần xuất thân nhà Phật, về sau hoàn tục. Ông ta một thân võ công gồm thâu hai nhà Phật-Đạo, thêm vào tư chất cực cao, chưa đến bốn mươi tuổi đã sáng chế ra hai pho võ công thần kỳ là "Triết Long Miên" và "Vô Tướng Thần Châm", đánh khắp thiên hạ không có đối thủ. Thích Ấn Thần tự phụ tài cao, lập một tấm bia trước cổng nhà, bề mặt có khắc: "Thiên Hạ Đệ Nhất Nhân, Thế Gian Vô Song Đạo"

Nhạc Chi Dương bật thốt:
- Người này mạnh mồm thật!

- Ông ta tuy mạnh mồm nhưng võ công thì đúng là lợi hại. Lúc ấy trong võ lâm không ai dám phản đối. Hơn một năm sau, có một vị đạo nhân đến trước cổng Thích phủ, y quan sát tấm bia một hồi, bất chợt vung ngón tay lên, thêm vào một nét ngang bên dưới chữ Nhất, lại nhẹ bôi đi chữ Song, sửa ra chữ Túc, cứ vậy mà biến thành câu: "Thiên Hạ Đệ Nhị Nhân, Thế Gian Vô Túc Đạo", ý nghĩa toàn bộ thay đổi, phần nhiều là mang ý châm biếm...

- Chỉ dùng tay thôi à? - Nhạc Chi Dương hít vào một hơi lạnh, hét lên: - Không thể nào!

Triệu Thế Hùng cười:
- Cậu tuổi còn nhỏ, nhiều chuyện chưa biết rõ. Trên thế gian này đầy rẫy kỳ nhân dị sĩ, với người thường mà nói dùng tay không khắc đá là điều không tưởng, nhưng theo ta biết, thuở ấy tồn tại ba vị cao nhân có khả năng làm được chuyện này. Lúc vị đạo nhân khắc chữ, Thích Ấn Thần vốn không có ở nhà, nhưng người trong phủ của ông ta biết phân biệt tốt xấu, trông thấy thủ pháp của đạo nhân tự biết không phải địch thủ, bèn dò hỏi lai lịch. Đạo nhân tự xưng là Linh đạo nhân, lang thang đến nơi đây và trọ lại Thừa Hoàn quán gần đó ba ngày, trong vòng ba ngày nếu Thích Ấn Thần có thể về kịp thì đến Thừa Hoàn quán gặp y.

- Đạo nhân kia nói xong thì nghênh ngang bỏ đi. Thích Ấn Thần nhận được bồ câu đưa thư, ngày đêm lên đường, cuối cùng trước hẹn ba ngày cũng đến kịp Thừa Hoàn quán. Ông ta còn chưa vào cửa, một vị đạo đồng đã tiến lên thưa: "Linh đạo trưởng nhờ ta chuyển lời của người rằng: Thần nhân vô công, thánh nhân vô danh, bần đạo không dám cậy mình thần thánh, bản thân lại là kẻ xuất gia, chẳng thiết phô trương tên tuổi, cho nên bố trí một gian phòng kín chỉ có Thích tiên sinh và bần đạo so tài, hôm nay dù thắng dù thua thế nào hai phía đều không được công khai lan truyền. Nếu Thích tiên sinh đồng ý thì xin mời người vào trong, nhược bằng không xin người quay về cho!"

- Thích Ấn Thần nghe xong lập tức đồng ý. Rất nhiều người trong giang hồ tụ tập đến xem náo nhiệt, nghe thấy lời này ai ai cũng thất vọng, chỉ đành chầu chực ở bên ngoài, đưa mắt nhìn theo Thích Ấn Thần tiến vào gian phòng kín. Cứ ngỡ hai người đánh nhau sẽ nghiêng trời lệch đất, nào hay chờ cả buổi trời mà trong phòng cứ lặng phăng phắc. Chừng hơn nửa giờ sau, Thích Ấn Thần mới bước ra ngoài, sắc mặt ông ta hờ hững không rõ giận vui, cũng chẳng thèm ngó đến mọi người xung quanh mà đi thẳng về nhà, đóng chặt then cửa không trở ra nữa. Đám võ nhân khi đó râm ran bàn tán xem xem hai người ai thắng ai bại nhưng chẳng kẻ nào tường tận được nguồn cơn sự thật bên trong. Sáng hôm sau, có người bỗng phát hiện ra tấm bia phía trước cổng Thích phủ đã biến thành một đống đá vụn tự khi nào, trong phủ vườn không nhà trống, trên dưới mấy chục người nhà họ Thích chẳng biết đã bỏ đi đâu mất. Kể từ dạo đó, Thích Ấn Thần tuyệt tích võ lâm, trên giang hồ cũng không còn nghe thấy tăm hơi nữa. Mãi mấy chục năm sau, người trong giang hồ mới hay tin Thích gia rời bỏ Trung Thổ sang tận hải ngoại, đến đảo Linh Ngao ở biển Đông.

- Thích Ấn Thần thua ư? - Nhạc Chi Dương hỏi.

- Không rõ! - Triệu Thế Hùng khẽ lắc đầu: - Vì hai người đã có giao kèo trước, cho nên thắng bại của trận chiến ấy trở thành một đề tài li kỳ trong võ lâm. Từ độ Thích Ấn Thần bỏ ra hải ngoại, Linh đạo nhân cũng mai danh ẩn tích, đến trăm năm sau mới có người vô tình phát hiện ra di thể của ông ta trong một hang động ở núi Vương Ốc. Cạnh bên di thể có đặt một con cá bằng đá, trên mặt đất là hai hàng chữ lớn dùng chỉ lực khắc xuống: "Nang Quát Thiên Địa Chi Bảo - Hi Di Vi Diệu Chi Đạo." Sau khi Linh Đạo Thạch Ngư xuất hiện đã làm dấy lên một trận gió tanh mưa máu, nhưng phàm những kẻ có được Thạch Ngư, chưa một ai có thể khám phá ra bí mật của nó cả. Nó cùng với Thuần Dương Thiết Hạp(TG: xin xem tác phẩm Côn Luân) được xưng tụng là hai báu vật bí ẩn nhất huyền môn. Sau bao lần sang tay đổi chủ, vật này không biết lưu lạc về đâu, mãi đến khi Huyền Thiên quán có tên phản đồ muốn cậy nó thăng quan phát tài, Linh Đạo Thạch Ngư mới xuất hiện lại lần nữa...

Nói đến đây, Triệu Thế Hùng thở dốc không ngừng, một lúc sau mới lấy lại hơi kể tiếp: "Khi ấy ta nghe được mấy lời này, lòng mừng đến phát cuồng. "Tiên Vị Công" mạnh như thế nào thiên hạ đều biết, sau Thích Ấn Thần, cao thủ luyện thành công phu này của Đông Đảo chỉ có một. Nếu đúng là Linh đạo nhân thắng được Thích Ấn Thần, vậy thì võ công của ông ta còn trên cả "Tiên Vị Công", ta mà luyện thành võ công của ông ta nhất định có thể cạnh tranh sòng phẳng với cao thủ Đông Đảo. Nghĩ đến đây, ta im lặng trừng trừng nhìn Ánh Chân đạo nhân. Hắn cười thảm mà rằng: "Ta biết tỏng ngươi đang nghĩ gì, ta còn sống trên đời này khó tránh để lộ bí mật của ngươi. Triệu lão đệ, hãy nhớ kỹ lời mình thề, báo thù cho đệ tử bổn quán!" Nói xong, hắn gượng dậy húc đầu vào một tảng đá lớn.

Nhạc Chi Dương nghe đến đoạn này, lòng tràn đầy thương cảm, không nhịn được buông tiếng thở dài, chỉ nghe Triệu Thế Hùng kể tiếp:
- Ta chôn cất thi thể của Ánh Chân xong liền vội vã trở về vương cung. Trên đường đi ta suy đoán Trương Sĩ Thành xuất thân từ Đông Đảo, hẳn nhiên biết được lai lịch của Linh Đạo Thạch Ngư. Hắn sai ta đi lấy Thạch Ngư lại không muốn cho người ngoài hay biết, ý đồ chẳng qua chỉ là muốn luyện thành võ công của Linh đạo nhân để tiện bề thoát khỏi sự quản thúc của Đông Đảo. Đổi lại khi xưa, ta nhất định sẽ tiết lộ tin tức, kích động cho hai bên chém giết lẫn nhau, nhưng vì để lấy được Thạch Ngư, ta lại một lần nữa nhẫn nhịn không nói. Tuy nhiên, sau khi chiếm hữu Thạch Ngư rồi, Trương Sĩ Thành lại cất giấu nó quá kỹ, mấy lần ta lẻn vào phòng riêng của hắn đều không phát hiện ra dấu vết của Thạch Ngư.

- Mấy năm tiếp theo đó, Chu Nguyên Chương thần võ trời ban, lần lượt tiêu diệt sạch quần hùng thiên hạ, sau khi đánh bại Trần Hữu Lượng lại dụng binh hướng sang Trương Sĩ Thành. Trương Sĩ Thành càng đánh càng bại, chẳng bao lâu sau Bình Giang bị vây hãm, hắn lâm vào thế cùng đường. Trước khi thành bị phá, hắn mang toàn thể gia quyến lên lầu Tề Vân, tự tay rưng rưng châm lửa thiêu chết hết vợ con. Hừ, trò hề này của hắn có thể gạt được người khác chứ không gạt được ta, hắn thiêu chết toàn là nữ quyến, còn hai thằng con Trương Thiên Tứ và Trương Thiên Ý của hắn vốn không có mặt. Trương Sĩ Thành không cam tâm đoạn tử tuyệt tôn, tìm hai tên quỷ thế mạng khỏa lấp vào trong đó, thiêu chúng đến cháy trụi mặt mũi, lại âm thầm giấu con trai mình tại dân gian, đợi khi chiến sự lắng xuống mới tìm cơ hội đưa chúng trốn khỏi Bình Giang. Sau khi thành Bình Giang bị phá, ta lục tung vương cung cũng không tìm ra Linh Đạo Thạch Ngư, thầm nghĩ Trương Sĩ Thành coi vật này như chí bảo, giữa lúc thành bị hạ chắc đã đưa cho con trai mang theo. Vì thế, ta tìm đến nơi hai đứa chúng nó ẩn náu, nhưng chỉ gặp mỗi Trương Thiên Tứ, sau này mới biết Trương Thiên Ý cũng ở trong nhà nhưng nấp trong một chum nước bên cạnh. Đáng tiếc là thời gian cấp bách, ta không tiện lục soát cẩn thận, chỉ nhăm nhe tra hỏi Trương Thiên Tứ nơi cất giấu Thạch Ngư. Thằng nhóc ấy thà chết không nói, ta đành phải chém nó từng đao một, chém đến đao thứ hai mươi mốt, nó chịu đau không nổi cuối cùng cũng khai báo sự thật. Sau khi ta có được Thạch Ngư liền giết Trương Thiên Tứ diệt khẩu...

Nhạc Chi Dương nghe kể đến đoạn này, lòng nảy sinh ác cảm, hừ lạnh một tiếng. Triệu Thế Hùng liếc gã, điềm nhiên nói:
- Ta vốn cho rằng chuyện này không ai biết đến, ngờ đâu trên đời chẳng có chuyện gì là kín kẽ, câu chuyện Thạch Ngư lại truyền đến tai Chu Nguyên Chương. Khi ấy ta vô cùng khó hiểu, giờ đây ngẫm lại, tin tức đó hẳn là do Trương Thiên Ý truyền ra. Chu Nguyên Chương muốn ta giao nộp Thạch Ngư, ta đành phải bỏ trốn suốt ngày suốt đêm. Chu Nguyên Chương lùng bắt ta khắp thiên hạ, nhưng y ngờ sao được gan ta lớn tày trời, dám ngang nhiên diễn tuồng xướng kịch ngay dưới mũi của y. Khà, ta đóng vai Quan Công hai mươi năm trời, cho đến trước đêm nay, chẳng một ai biết được chân tướng của ta cả.

Nói đến chỗ đắc ý, Triệu Thế Hùng cười lên ha hả, mới cười đâu hai tiếng y lại đột nhiên thở gấp, bật họ khùng khục.

Nhạc Chi Dương hỏi:
- Trương Sĩ Thành thì sao, lần này ông đã giết hắn ta ư?

- Không!

Triệu Thế Hùng cười gằn, máu thịt trên mặt đùn thành một khối trông vô cùng gớm ghiếc.
- Ta nhịn nhục nhiều năm như vậy, một đao giết hắn chẳng phải quá dễ dàng cho hắn à! Hắn khi đó cùng đường mạt vận, định treo cổ tự tử. Nhưng hắn càng muốn chết, ta càng không để cho hắn được toại nguyện. Ta cắt đứt dải lụa trắng, bắt sống hắn giao vào tay Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương giày vò hắn suốt hai ngày mới hạ lệnh treo cổ. Tiếc làm sao, khi ấy ta đã từ chức bỏ trốn, không thể tận mắt chứng kiến vẻ mặt của hắn trước khi chết.

Nhạc Chi Dương thầm nghĩ, Trương Sĩ Thành một đời oai hùng lại chết uất ức như vậy đúng là đáng buồn đáng tiếc, nhưng nhớ đến hắn lạm sát người vô cớ xem như cũng đáng phải chịu báo ứng. Gã ngẫm vậy bèn hỏi:
- Vậy là võ công của Linh đạo nhân ông cũng chưa học được đúng không? Bằng không, sao đến nỗi tơi tả như vậy?

Triệu Thế Hùng hừ một tiếng, đanh giọng:
- Ban đầu ta tự phụ tài trí của mình, nghĩ rằng năm dài tháng rộng nhất định có thể phá giải bí mật của Thạch Ngư, đâu dè ba mươi năm qua rồi vẫn không cách nào làm được! Đã không luyện thành võ công của Linh đạo nhân, ta không thể trả thù được Đông Đảo, đây chính là tâm sự cuộc đời ta, cũng là nguyên nhân ta kể chuyện này cho cậu!

Nhạc Chi Dương lấy làm lạ:
- Việc này liên quan gì đến ta chứ?

Triệu Thế Hùng hé ra một nụ cười:
- Cậu bé ngoan, ta đem Linh Đạo Thạch Ngư tặng cho cậu, cậu hứa với ta, sau này có ngày luyện thành võ công trên Thạch Ngư hãy thay ta trả thù Đông Đảo.

Nhạc Chi Dương ngớ ra, lắc đầu đáp:
- Ta không cần Thạch Ngư, càng không muốn giúp ông giết người!

Triệu Thế Hùng nổi xung:
- Vì sao? Cậu không muốn vô địch thiên hạ à?

Nhạc Chi Dương mỉm cười, quay người định bỏ đi, chợt nghe Triệu Thế Hùng phát ra một tràng rên rỉ. Nhạc Chi Dương thấy y mình mẩy đầy thương tích, cõi lòng mềm lại bèn nói:
- Triệu tiên sinh, ông đừng hung hăng nữa, tìm đại phu vẫn quan trọng hơn.

- Được! - Triệu Thế Hùng hổn hển đáp. - Cậu đỡ ta lên nào!

Nhạc Chi Dương giơ tay định dìu y dậy, thình lình Triệu Thế Hùng chụp lấy cổ tay gã kéo về phía trước. Nhạc Chi Dương không kìm được thế ngã dúi vào lòng y, chưa kịp giãy ra đã nghe tiếng Triệu Thế Hùng cười khẩy bên tai:
- Cậu càng từ chối, ta càng muốn cho cậu. Nói cậu biết, Thạch Ngư nằm ở... dưới đáy góc tường phía đông nam của phường hát!

Dứt lời, y cất tiếng cười sang sảng, cười được mấy tiếng chợt ngoẹo đầu lên bờ tường gục chết.

Nhạc Chi Dương dùng sức vùng thoát khỏi tay y, chỉ thấy Triệu Thế Hùng đôi mắt trợn trừng, khóe môi vương một nụ cười quái dị, xem ra đến lúc chết vẫn không giảm bớt vẻ hung tợn đáng sợ. Trái tim Nhạc Chi Dương bỗng thon thót đập mạnh, gã xoay người chạy vọt ra đầu hẻm, ngờ đâu mới chạy được mấy bước, trước mặt bỗng xuất hiện một người, áo trắng nhuộm máu, mặt ngọc râu dài, hông giắt một viên minh châu lạnh lẽo phản chiếu ánh trăng.

Nhạc Chi Dương nhìn đến người nọ bất giác thụt lùi hai bước. Trương Thiên Ý chả buồn liếc mắt đến gã, ánh mắt rơi trên người Triệu Thế Hùng, lặng lẽ hồi lâu mới lạnh lùng cất tiếng:
- Lão ta chết rồi à?

Chữ "Lão" vừa cất lên, người còn đang ở đầu hẻm, lời chưa dứt hẳn Nhạc Chi Dương chỉ cảm thấy một cơn gió phất qua, Trương Thiên Ý đã đến ngay phía trước thi thể Triệu Thế Hùng.

Nhạc Chi Dương lòng đầy sợ hãi, ấp úng đáp:
- Ta... Ta không rõ!

Trương Thiên Ý hừ một tiếng, rút thanh nhuyễn kiếm vun xoẹt xoẹt hai tiếng, cắt lìa đôi chân của Triệu Thế Hùng, vết cắt sắc lẹm nhưng chẳng còn chút máu nào chảy ra.

Máu đã cạn khô, người cũng lìa trần, Trương Thiên Ý nhìn kẻ thù một đời của mình, lộ vẻ chán chường. Hắn liếc mắt nhìn ra, chợt thấy Nhạc Chi Dương đang men theo bờ tường định lẩn ra ngoài, bèn cười lạnh một tiếng, trầm giọng quát:
- Muốn chuồn hả? Ngươi thử xem!

Chân cẳng Nhạc Chi Dương cứng đơ, trống ngực đập mạnh, đối phương xuất quỷ nhập thần, muốn trốn khỏi tay hắn vốn dĩ không có cách nào. Ánh mắt của Trương Thiên Ý lại hướng về thi thể, trường kiếm cất lên loạt xoạt cắt đứt y phục bên dưới, hắn đưa tay lần mò nhưng không tìm thấy gì, ngẫm nghĩ một lúc bèn hỏi:
- Thằng nhóc, trước khi lão chết có nói gì với ngươi không?

Nhạc Chi Dương cố lấy lại bình tĩnh, đáp:
- Ổng kể về thân thế của ổng.

Trương Thiên Ý hừ một tiếng, lại hỏi:
- Vậy ra ngươi đã biết ta là ai rồi?

Nhạc Chi Dương nghe thấy giọng hắn chẳng lành, không khỏi hoảng hồn hoảng vía. Trương Thiên Ý lại hỏi:
- Ngoài mấy việc này ra, lão còn nói gì nữa?

Nhạc Chi Dương định đem chuyện Thạch Ngư ra kể, nhưng ngẫm lại, Triệu Thế Hùng bắt khách xem đỡ kiếm phát xuất từ ý muốn tự bảo vệ bản thân, còn tên quỷ đòi nợ này trước khi đi lại giết toàn bộ người sót lại, so với Triệu Thế Hùng còn ác độc hơn gấp bội, nếu thật sự trên Thạch Ngư có chứa võ công tuyệt đỉnh, tên này một khi luyện thành chẳng biết sẽ hại chết bao nhiêu mạng người nữa. Nghĩ đến đây, gã chối quanh co:
- Không, không nói gì cả!

- Nói láo! - Trương Thiên Ý quay phắt đầu lại, ánh mắt sắc lẹm: - Ngươi nói láo!

Nhạc Chi Dương cười phì:
- Ngài không tin thì thôi!

Trương Thiên Ý nheo mày quan sát thiếu niên rồi ơ hờ bảo:
- Nói vậy, ngươi sống cũng chẳng còn ích lợi! Ngươi đã biết thân phận của ta, sao có thể để ngươi tồn tại trên đời này được!

Nhạc Chi Dương thất kinh, vội chữa:
- Ổng chỉ nói về ổng, có nhắc gì đến ngài đâu!

Trương Thiên Ý cười lạnh:
- Ngươi cho là ta sẽ tin hả?

Nhạc Chi Dương thoạt nghĩ, tên quỷ đòi nợ này giết gã dễ như vê một con kiến, nhưng nếu nói ra nơi cất giấu Linh Đạo Thạch Ngư, gã lại không cam lòng chút nào. Nhạc Chi Dương bỗng nảy ra một ý, cao giọng bảo:
- Ta nhớ ra rồi, đúng là ổng có nói về một vật quan trọng gì đó đang giấu trong Tử Cấm Thành!

- Tử Cấm Thành? - Trương Thiên Ý sững người: - Lão ta bảo ở trong Tử Cấm Thành?

- Phải đó! - Nhạc Chi Dương gật đầu thật lực: - Chuẩn khỏi cần chỉnh!

Trương Thiên Ý cười lạnh:
- Giỏi cho thằng nhóc, dám ba xạo à?

Nhạc Chi Dương giật thót người, buột miệng thốt:
- Ta có xạo đâu!

Trương Thiên Ý thấy gã hoảng đến đỏ mặt tía tai, dáng vẻ không giống như giả bộ, lại nghĩ gã tuổi còn nhỏ, trong lúc khẩn cấp chẳng thể chế ra cái ý tưởng về Tử Cấm Thành như vậy. Triệu Thế Hùng là trùm bịp bợm, có lẽ đã đem giấu Linh Đạo Thạch Ngư vào hoàng cung thật, nơi ấy cấm vệ nghiêm ngặt, đất rộng người thưa, quả là một nơi lý tưởng để cất đồ.

Trương Thiên Ý lấy bụng ta suy bụng người, đã tin đến mấy phần, lại hỏi:
- Được, vậy lão ta có nói là ở chỗ nào trong Tử Cấm Thành hay không?

Nhạc Chi Dương cười đáp:
- Có chứ!

Trương Thiên Ý hờ hững hỏi:
- Nơi nào?

Nhạc Chi Dương cười tiếp lời:
- Vừa nãy ngài định giết ta, ta nói ra địa điểm rồi chẳng phải lập tức đi đời nhà ma ư?

Trương Thiên Ý nổi giận, trừng trừng nhìn gương mặt cười cợt của Nhạc Chi Dương, hận không thể phát cho gã một chưởng chết toi. Nhưng hắn dốc lòng lấy được Thạch Ngư, Triệu Thế Hùng chết rồi, chỉ còn thiếu niên này là manh mối duy nhất. Cân nhắc tới lui, hắn đành bấm bụng nuốt giận, bày ra một khuôn mặt tươi rói:
- Vừa rồi ta nói đùa ấy mà, nhóc à, ngươi nói ra nơi cất giấu, ta sẽ lập tức thả ngươi đi.

Nhạc Chi Dương cười khì khì, học theo giọng điệu ban nãy của hắn:
- Ngài cho là ta sẽ tin hả?

Trương Thiên Ý vun kiếm đâm xoạc đến, ngực Nhạc Chi Dương bỗng lạnh toát, nhoi nhói đau. Gã cúi nhìn xuống, mũi kiếm đã xuyên rách cả áo, đâm ngập vào da đến nửa phân, chỉ nghe Trương Thiên Ý rờn rợn nói:
- Nhóc con, mau thành thật khai báo, bằng không ta moi tim ngươi ra cho chó xơi!

Hơi kiếm lành lạnh ập đến, máu trong người Nhạc Chi Dương trở nên rét buốt như thể lọt vào hố băng. Gã đã từng chứng kiến thủ đoạn của Trương Thiên Ý, thầm biết nếu nói ra sự thật sẽ lập tức ăn ngay một kiếm xuyên tâm, tức thì hít sâu một hơi, run rẩy bảo:
- Nói ra cũng chết, không nói cũng chết, dù sao... dù sao thì cũng toi đời, ta thà không nói cho rồi!

- Thật hả? - Trương Thiên Ý cười lạnh: - Ta đâm một kiếm hỏi ngươi một câu, xem ngươi có thể chịu được bao kiếm?

Nhạc Chi Dương nói:
- Anh trai ngài chịu hai mươi mốt đao, chịu không nổi phải khai ra, kết quả cũng là chết nhăn răng. Ta còn nhỏ tuổi, người ngợm mỏng giấy, ngài mà đâm một kiếm thì cả đời này đừng mơ tìm ra vật ấy!

Trương Thiên Ý lườm lườm nhìn gã, hai mắt tóe lửa, da mặt tái đi, cứ ngỡ với thằng nhóc miệng hôi sữa này thì chỉ cần vừa quát vừa dọa, chắc chắn có thể ép nó ngoan ngoãn khai ra sự thật. Nào ngờ, thằng nhóc này xảo trá hơn người, trước sau không hề bị mắc lừa. Trương Thiên Ý cân đong thiệt hơn, sợ rằng một kiếm này vung đi sẽ thật sự cắt tuyệt manh mối, trong lòng tuy cáu bẳn nhưng vẫn từ từ thu trường kiếm về, lạnh lùng nói:
- Nhóc con, phải làm sao ngươi mới chịu nói?

Nhạc Chi Dương cười đáp:
- Vào Tử Cấm Thành thì ta sẽ nói cho!

Câu nói này cực kỳ nằm ngoài dự liệu của Trương Thiên Ý. Hắn cứ ngỡ Nhạc Chi Dương sẽ bắt hắn cam đoan bằng cách nào đó như viết giấy xác nhận chẳng hạn, mấy loại giao kèo này về sau nhẹ nhàng xé bỏ đi là xong, Nhạc Chi Dương vẫn khó có thể thoát chết. Nhưng, câu trả lời kia hoàn toàn khiến cho hắn bối rối, tạm thời trố mắt nhìn thiếu niên, lòng ngập ngừng khó quyết.

Nhạc Chi Dương ngoài mặt thì tươi cười nhưng trong lòng hết sức lo lắng, đối mặt với kẻ sát tinh này gần như chẳng có cửa sống, sớm muộn dù có được Thạch Ngư hay không, tên quỷ đòi nợ này cũng giết gã. Có câu "Trì tắc sinh biến"(*), kế hoạch hiện tại chỉ đành cố gắng kéo dài thời gian mà thôi. Thủ vệ trong hoàng cung hết sức nghiêm ngặt, tên quỷ đòi nợ này dù võ công cao đến mấy, chắc chắn cũng không thể tiến vào cung, mà một khi chưa vào cung hắn sẽ tạm thời không giết gã, lâu dần có lẽ sẽ tìm được cơ hội trốn thoát.
(ND chú: nghĩa là việc mà trì hoãn, để chậm… thì dễ xảy ra biến cố)

Hai người nhìn nhau trầm tư, trong lòng kẻ nào cũng lướt qua biết bao toan tính, Trương Thiên Ý chợt chậm rãi cất tiếng:
- Nhóc con, ngươi nói sẽ giữ lời chứ?

Nhạc Chi Dương cười đáp:
- Chắc chắn!

Trương Thiên Ý gật đầu thu lại trường kiếm, lòng bàn tay bất chợt lật lên vỗ vào ngực Nhạc Chi Dương. Gã chỉ cảm thấy thân thể đau nhói, chịu không nổi hét toáng lên.

- Mùi vị thế nào hả thằng ranh? - Trương Thiên Ý cười ha hả: - Ta đã tống một mũi "Dạ Vũ Thần Châm" vào gần huyệt Thiên Trung của ngươi, nếu ngươi thành thật biết nghe lời, về sau ta sẽ rút kim châm ra cho ngươi. Còn ngược lại, hừ, mũi kim châm này sẽ không ngừng luồn khoét, sau cùng sẽ xuyên thủng màng tim của ngươi, khiến ngươi chết trong đau đớn tột độ.

Nhạc Chi Dương vẻ mặt thê thảm, cảm giác nơi trúng châm tê tê ngứa ngứa hết sức lạ thường. Trương Thiên Ý đưa mắt nhìn gã, mỉm cười:
- Nếu sợ chi bằng ngươi nói ra địa điểm, chẳng phải xuôi rót đôi đàng hay sao?

Nhạc Chi Dương củng cố lại tinh thần, cười đáp trả:
- Nếu ngài không cần vật kia, chẳng phải cũng là xuôi rót đôi đàng ư?

Trương Thiên Ý giận đến mờ mắt, quát lớn:
- Nhóc con mạnh mồm, ta xem ngươi mạnh đến khi nào?

Nhạc Chi Dương cười:
- Không phiền ngài quan tâm!

Trương Thiên Ý nhổ "phì" một tiếng, mắng:
- Ta quan tâm cái rắm nhà ngươi!

Nhạc Chi Dương nói:
- Được thôi, bây giờ thì ta chưa có rắm, đợi khi nào có, ta thả cho ngài quan tâm!

Trương Thiên ý nổi khùng, đang định ra tay dạy dỗ, chợt nhớ đến Linh Đạo Thạch Ngư bèn ghìm lại ý định đánh người, âm thầm thề rằng lấy được Thạch Ngư rồi thể nào cũng phải đâm thằng nhóc ấy từng kiếm một đến chết thì thôi. Trong lòng tuy bực dọc nhưng ngoài mặt lại cố tỏ vẻ lạnh lùng, hắn gọi:
- Nhóc con, đi theo ta!

Hai người một trước một sau rời khỏi con hẻm. Nhạc Chi Dương quay đầu nhìn lại, ngõ hẻm tối u u, thi thể của Triệu Thế Hùng đã chìm lấp đi mất. Đang mãi miết ngó nghiêng, Trương Thiên Ý đột ngột vươn tay phải ra chộp lấy vai gã, tay trái giơ lên cao, từ trong tay áo bắn ra một sợi dây xích dài mảnh, đầu dây có đúc móng sắt, "Bặc" một tiếng móc lên mái nhà.

Nhạc Chi Dương không kịp nghĩ ngợi nhiều, hai chân đã rời mặt đất, thân thể như bốc lên cao. Trương Thiên Ý nhanh nhẹ như một làn khói, thoăn thoắt lướt trên mái hiên, dưới nách kẹp lấy Nhạc Chi Dương, gặp phải tường cao nhà lớn thì nhún người nhảy qua, cao hơn nữa thì sử dụng móng sắt, câu tường móc mái mà bay thẳng lên trên.

Trương Thiên Ý khinh công tuyệt diệu, cứ vượt nóc băng tường vèo vèo. Nhạc Chi Dương có cảm giác thân thể lúc lên lúc xuống, đầu váng mắt hoa, nhộn nhạo muốn ói. Bất chợt, phía trước dựng lên một bức tường thẳng tắp cao vời vợi, chẳng thấy đỉnh là đâu. Nhạc Chi Dương chỉ cảm thấy Trương Thiên Ý không ngừng trèo lên, trèo hoài trèo mãi, chợt nghe "keeng" một tiếng, hai người chùng xuống một nhịp. Trái tim Nhạc Chi Dương như nhảy tọt lên cổ họng, gã hé mắt nhìn ra, nhuyễn kiếm nơi tay phải Trương Thiên Ý đang ghim ngập vào vách tường, lắc lư đỡ lấy hai người.

"Đi!" Trương Thiên Y bật hơi mở giọng, mượn lực đàn hồi của thân kiếm cố nhảy lên phía trên. Hai người xoay vòng trên không, lộn nhào một cái rồi đáp xuống đầu tường. Nhạc Chi Dương ngoái lại nhìn, chỉ cảm thấy đầu óc chếnh choáng, gã nghiễm nhiên đã leo lên đỉnh chóp của kinh thành, phòng ốc bên dưới nhỏ như đồ chơi, trùng trùng điệp điệp hệt như gợn sóng dập dềnh, ánh đèn lửa bên trong lấp lánh, chỉ sợ một cơn gió thoảng thôi cũng có thể thổi tan tác cả.

Không để gã nhìn lâu, Trương Thiên Ý lại bổ nhào về phía trước, lúc thì xài móng sắt, khi lại dùng nhuyễn kiếm, cứ lên lên xuống xuống, vượt qua một gờ tường cao, bồng bềnh đáp xuống mặt đất. Hắn buông Nhạc Chi Dương ra, phì phò thở dốc. Thiếu niên lồm cồm ngồi dậy, ngoảnh đầu quan sát, bốn bên cây cối um tùm, thấp thoáng cột to mái cong cùng rất nhiều phòng ốc tối lù mù không chút ánh sáng.

- Đây là đâu? - Nhạc Chi Dương thắc mắc hỏi.

Trương Thiên Ý hừ lạnh một tiếng, trả lời:
- Tử Cấm Thành!

Nhạc Chi Dương hoảng hốt nhảy dựng, há miệng toang thét lên, Trương Thiên Ý lập tức giơ tay bóp chẹt lấy cổ gã, ép cho tiếng la đã dâng đến miệng phải nuốt ngược vào.

-Đến Tử Cấm Thành rồi! - Trương Thiên Ý hắng giọng quát hỏi: - Vật ấy ở đâu?

Nhạc Chi Dương đớ lưỡi cứng họng, máu nóng dồn ứ lên đầu. Gã vốn ba hoa bịa chuyện, đối với sự tình trong Tử Cấm Thành hoàn toàn mù tịt, nhất thời vò đầu bức tai, lúng túng không nói nên lời.

Trương Thiên Ý trỗi máu nghi ngờ, lạnh giọng hỏi:
- Nhóc con, ngươi không gạt ta chứ?

Nhạc Chi Dương thấy sắc mặt của hắn, đầu lóe lên suy nghĩ, bản thân gã chưa từng đến Tử Cấm Thành, tên quỷ đòi nợ chắc cũng giống như thế, việc đã đến nước này, chỉ có thể bịa đại ra một cái tên, lừa cho qua chuyện rồi tính tiếp. Nghĩ như vậy, gã bèn vỗ đầu kêu lên:
- Ta nhớ ra rồi, điện Quần Phương, không sai, chính là điện Quần Phương!

- Điện Quần Phương à?

Trương Thiên Ý đờ ra, cái tên này vô cùng thô tục, nào có giống cách xưng hô trong hoàng cung. Nhưng đúng như Nhạc Chi Dương dự đoán, hắn gấp gáp đến đây, đối với tình hình trong cung cũng chả biết mô tê gì. Trương Thiên Ý ngàn vạn lần cũng không ngờ rằng thằng nhỏ vô lại này lại cả gan gạt hắn bằng cách đổi đi một chữ trong tên hiệu kỹ viện rồi bê rập khuôn sang đặt cho hoàng cung, hắn bèn hỏi:
- Triệu Thế Hùng nói sao? Đại khái là ở hướng nào?

- Đại khái...

Nhạc Chi Dương giả bộ trầm ngâm, thầm nghĩ Quần Phương... Quần Phương... không phải phụ nữ thì là hoa cỏ(*), liền nảy ra sáng kiến:
- Triệu Thế Hùng có nói ở bên trong Ngự Hoa Viên!
(ND chú: chỗ này giải thích rõ hơn, “Quần phương” có nghĩa đen là hoa thơm cỏ lạ, nghĩa bóng là nơi có nhiều gái đẹp, vì vậy ven sông Tần Hoài mới có kỹ viện tên là Quần Phương. Nhạc Chi Dương đem cái tên ấy gán cho cung điện, chả trách Trương Thiên Ý thấy là lạ, lại suy diễn ở gần nơi có hoa cỏ là Ngự Hoa Viên!)

Lúc Nhạc Chi Dương nói dối, ánh mắt gã láo liêng, lời lẽ ấp a ấp úng, nếu đổi lại là người khác Trương Thiên Ý đã sớm đặt nghi vấn, thế nhưng Nhạc Chi Dương tuổi tác còn nhỏ, Trương Thiên Ý thân là bề trên, vốn cho rằng tên nhóc quỷ này không có nhiều tâm cơ đến độ liều lĩnh bịa chuyện linh tinh gạt người như vậy.

Định bụng thế xong, Trương Thiên Ý cảm thấy an tâm hơn, cười giễu:
- Ngự Hoa Viên, điện Quần Phương, chẳng phải là nơi phi tần trong cung cúng tế thần hoa hay sao? Nếu đã là nơi cúng tế, phải gọi là đền Quần Phương mới hợp lý. Hừ, Chu Nguyên Chương xuất thân ăn mày, kém văn dốt chữ, đặt tên cung điện cứ nghe như rắm chó tắc ị.

Cha chú của hắn bại bởi tay Chu Nguyên Chương, hắn luôn canh cánh chuyện này trong lòng cho nên đợi khi có dịp liền thỏa sức móc mỉa cho hả gan.

Nhạc Chi Dương vừa nghe vừa trộm nghĩ:
- Đền Quần Phương cái khỉ khô á, là viện Quần Phương mới đúng! Chu Nguyên Chương thì rắm chó tắc ị, rắm chó của tên quỷ đòi nợ nhà ngươi cũng có xuôi lọt được đâu.

- Đi thôi! - Trương Thiên Ý quay người định cất bước.

Nhạc Chi Dương la lên:
- Đi đâu chứ?

Trương Thiên Ý lạnh lùng bảo:
- Đương nhiên là đến điện Quần Phương.

Nhạc Chi Dương giật thót, vội hỏi:
- Ngài biết Ngự Hoa Viên ở đâu à?

Trương Thiên Ý đáp:
- Có miệng để làm gì mà không biết hỏi đường?

Nhạc Chi Dương thầm kêu khổ, hận không thể cắm đầu bỏ chạy, nếu thật sự gặp phải người trong cung, màn kịch của gã sẽ tức khắc lộ tẩy, khi đó tên quỷ đòi nợ này sẽ lên cơn tam bành, không giết ngay thì cũng chặt tay chặt chân, không chặt tay chân thì cũng khó tránh bị lóc vài ba miếng thịt. Nhớ đến thảm cảnh của Triệu Thế Hùng, Nhạc Chi Dương liên tục rùng mình ớn lạnh.

- Ngươi lề mề gì đó?

Trương Thiên Ý quay đầu lại, ánh nhìn u ám. Nhạc Chi Dương chẳng còn cách nào khác, đành lục tục nối gót theo sau, trong lòng cuống cuồng suy tính, mắt nhòm trái liếc phải tìm đường tháo thân.

Hoàng cung sâu như bể, tối om om không thấy ánh đèn lửa, ven đường hoa lá cây cỏ mọc chi chít; mấy hòn giả sơn cong cong vẹo vẹo vừa giống quái thú, lại tựa phi long, như bay như chạy, sừng sững đối mặt nhau, giữa ao nước lớn là mấy cọng sen héo úa lụi tàn, lênh đênh bèo giạt. Chợt đâu một cánh hạc bay vút lên, cất tiếng kêu lảnh lót dọa cho Nhạc Chi Dương lẩy bẩy cả người.

Rẽ sang một hành lang dài, phía xa có ánh đèn chậm chậm lướt đến, Trương Thiên Ý rảo chân đón đường, chỉ thấy hai tên mặc áo quần sặc sỡ đang tiến lại gần, tên cầm đèn quát lớn:
- Ai?

Tiếng quát vừa dứt, Trương Thiên Ý đã nhảy phốc đến, chỉ nghe hai tiếng "huỵch huỵch", hai tên cùng lúc té ngửa. Trương Thiên Ý túm dậy một tên, lột sạch áo mũ rồi ném cho Nhạc Chi Dương, hét:
- Thay đồ!

Nhạc Chi Dương mơ hồ tuân lời thay y phục, người gã vẫn chưa nhổ giò, mặc áo bào vào người cứ rộng thùng thình. Lúc này Trương Thiên Ý đang cởi áo ngoài của tên còn lại ra tự khoác lên mình, sau đó giải huyệt đạo cho y, cười bảo:
- Đắc tội, đắc tội! Xin hỏi đến Ngự Hoa Viên phải đi thế nào?

Tên nọ hồn vía lên mây, trỏ tay về xa:
- Đi thẳng... Đi thẳng... về hướng đông bắc!

Trương Thiên Ý cười:
- Cảm ơn nhé!

Đang định đặt tên nọ xuống, hắn chợt nhớ ra một chuyện, bèn hỏi thêm:
- Điện Quần Phương nằm trong Ngự Hoa Viên à?

- Điện Quần Phương? - Tên nọ ngẩn ra: - Đó... Đó là chỗ nào? Ta chưa từng nghe thấy!

Trương Thiên Ý mặt mày biến sắc, quay đầu nhìn lại, nhưng bóng dáng của Nhạc Chi Dương thì đã bặt tăm bặt tích. Hắn giận đến trào máu, vội nhảy lên một hòn giả sơn phóng mắt ngó quanh, chỉ thấy đường ngang dãy dọc, lố nhố đá hoa, sắc đêm trập trùng như biển cả nuốt chửng vô số phòng ốc, đừng nói là người, ngay cả bóng ma cũng chẳng kiếm nổi.

Trương Thiên Ý cứ nghĩ Nhạc Chi Dương trúng phải Dạ Vũ Thần Châm nhất định không dám bỏ trốn nên đã mất cảnh giác để gã thừa cơ hội lủi đi; lúc này hắn có hối cũng không kịp, chỉ đành đứng đực ra một thoáng rồi nhảy khỏi hòn giả sơn, giẫm chân đạp xèm xẹp lên hai tên nằm dưới đất đến khi chúng vỡ đầu tóe óc mới thôi. Hắn nhặt thi thể lên, trói vào một tảng đá rồi ném xuống ao nước bên cạnh, sau khi cúi đầu nghĩ ngợi bèn xách đèn đi thẳng về phía trước.
Bình Luận (0)
Comment