Lời Nguyền Lỗ Ban

Chương 111

-Đẩy sóng vào bến! - Bộ Bán Thốn hét lớn, âm thanh vang vọng lập tức bị gió biển cuốn đi rất xa, rất xa.

“Đẩy sóng vào bến” là một trong những kỹ thuật đóng thuyền kỳ tuyệt của Lỗ gia, có nghĩa là trong thuyền lớn có ẩn chứa một thuyền nhỏ, hoặc cải tạo một bộ phận nào đó trên thân thuyền lớn thành thuyền nhỏ. Khi gặp tình huống bến xa nước cạn, thuyền lớn không thể cập bờ, có thể dùng thuyền nhỏ để liên lạc giữa bến và thuyền lớn, đồng thời cũng là phương tiện tẩu thoát hữu hiệu khi gặp nguy hiểm.

“Đẩy sóng vào bến” cũng là kỹ năng thứ tám trong Kỳ môn Độn giáp, có nghĩa là tập trung lực lượng nòng cốt tấn công nền tảng phòng thủ của đối phương, các đợt tấn công dồn dập, liên tiếp, không cho đối thủ có cơ hội nghỉ ngơi. Lại kết hợp với việc điều cánh quân nhỏ hư trương thanh thế, nhằm uy hiếp, gây áp lực cho đối phương trên nhiều phương diện.

Hơn thế nữa, “Đẩy sóng vào bến” còn là một cú tấn công được thực hiện bằng chính sinh mạng của Bộ Bán Thốn...

o O o

Lại vài ngày nữa trôi qua trong sự nơm nớp sợ hãi của tất cả mọi người. Đêm nay, tới lượt lão Xoa giữ bánh lái. Có thể thấy lão Xoa đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Trên gióng ngang sau bánh lái, lão đã dựng sẵn hai cây lăng mâu sáng loáng và một cây đinh ba xiên cá bằng thép Miến Điện, lại giăng thêm hai tấm lưới chão trên bậc tam cấp gỗ dẫn lên bệ lái, để đề phòng có người chớp nhoáng đột nhập lên trên. Lão còn đặt sẵn bên chân một chiếc hũ sành, nếu không may có chuyện, sẽ tung chân đá nó vỡ tan để đánh động cho người trong khoang thuyền biết. Kỳ thực từ sau khi Âu Tử bị ám sát, tất cả mọi người trên thuyền đều vận dụng đủ mọi phương cách để bảo vệ bản thân mỗi khi tới phiên cầm lái trong đêm. Không chỉ có vậy, bọn họ còn rất cẩn trọng trong ăn uống. Chiếc mũi của lão mù và cành trâm bạc của Thuỷ Băng Hoa đều là những công cụ tuyệt hảo để giám định xem thức ăn có bị bỏ thuốc độc hay không.

Lỗ Nhất Khí thấy mọi người đều đã vào cả khoang thuyền, bèn kín đáo bước lên bệ lái, nói khẽ với lão Xoa:

-Vào canh hai đêm nay, ông hãy bí mật lái thuyền ngoặt lên phía bắc, cố gắng đừng để người khác phát giác. Còn nữa, chuyện này tuyệt đối không được nói với bất kỳ ai, ai hỏi cũng mặc, chỉ cần giữ đúng hướng đi mà tôi đã dặn!

-Vậy không tìm bảo bối nữa à? – Lão Xoa thắc mắc.

-Không tìm nữa! Đối thủ đang theo sát phía sau, có tìm thấy cũng không giữ nổi.

-Nơi này cách bảo địa chẳng còn bao xa, vẫn có thể tranh thủ thời cơ tới đó, tìm thấy lập tức cao chạy xa bay, đối thủ chưa chắc đã tóm được chúng ta.

-Không cần mạo hiểm nữa! Hung huyệt đã dịch chuyển quá xa, mở rộng quá mức rồi. Có lấy được bảo bối cũng chưa chắc định nổi, hơn nữa đi đi lại lại trên biển rất tốn công tốn sức, lãng phí thời gian. Món bảo bối đó chẳng có nghĩa lý gì với chúng ta nữa, giờ thì chỉ có đối phương cần đến thôi!

-Chuyện này đã bàn bạc với anh Bộ và mọi người chưa? – Lão Xoa vừa hỏi vừa vân vê đầu chão.

-Rồi! Ông cứ làm như vậy đi! – Nói đoạn, cậu lập tức quay người bước thẳng xuống khoang thuyền, không nói gì thêm nữa.

Trong lúc đối thoại với lão Xoa, Lỗ Nhất Khí thấy trong lòng hồi hộp vô cùng. Suy nghĩ của lão Xoa khác hẳn Âu Tử, Âu Tử chỉ biết làm đúng theo yêu cầu của cậu, trong khi lão Xoa nhất định vặn vẹo đến cùng để hỏi cho ra nhẽ.

Một bầu yên lặng tuyệt đối bao trùm khắp boong thuyền, cũng giăng kín toàn bộ mặt biển, chỉ thi thoảng trong gió đêm vẳng đến vài tiếng “u u” yếu ớt.

Trong khoang thuyền, Lỗ Nhất Khí kín đáo lấy lại khẩu pạc-hoọc từ chỗ Thuỷ Băng Hoa, giấu vào trong lòng, tay nắm sẵn viên đá huỳnh quang Ba Tư trong túi áo để có thể lấy ra bất cứ lúc nào. Lần trước với Âu Tử, cậu cứ ngỡ rằng kẻ kia chỉ lẩn ra để căn vặn và ngăn cản, hoàn toàn không ngờ lại xảy ra án mạng, nên không có bất cứ sự chuẩn bị nào trước đó.

Sau khi đã chuẩn bị xong xuôi, cậu tập trung tinh thần, nằm yên lặng chờ đợi sự lạ xảy ra. Song cậu đã thất vọng vì cho tới tận sáng, ngoài những tiếng ngáy, tiếng đánh hơi, tiếng nghiến răng, trong khoang thuyền im ắng hoàn toàn, không hề có một âm thanh khác lạ. Sau cùng, không thể cưỡng lại cơn mệt mỏi, cậu đã lơ mơ ngủ thiếp đi. Trong mơ, cậu nhìn thấy Thuỷ Băng Hoa, lão mù, Bộ Bán Thốn, Sa Khẩu và lão Xoa, còn có cả Âu Tử đã chết. Tất cả bọn họ đều nhìn cậu với ánh mắt khinh khỉnh, chất vấn cậu bằng giọng điệu giễu cợt.

-Thứ mánh khoé nhãi ranh của cậu thì lừa được ai?

-Á... Lão Xoa!

-Lão Xoa...

Chưa chợp mắt được bao lâu, Lỗ Nhất Khí đã choàng tỉnh trong tiếng la hét hỗn loạn ở bên ngoài. Cậu nhảy dựng ngay dậy, mắt chưa kịp mở tay đã lôi ngay viên đá huỳnh quang Ba Tư ra khỏi túi áo.

Tới khi nhìn thấy cảnh tượng xung quanh, cậu mới biết viên đá đã trở nên thừa thãi. Cửa khoang thuyền mở rộng, ánh sáng chói mắt tràn đầy trong khoang, trời đã sáng bảnh. Trong khoang thuyền chỉ còn độc một mình cậu, những người khác đã ra ngoài từ lúc nào mà cậu không hề hay biết.

Những tiếng kêu la ở bên ngoài dần dần lắng xuống, song trên boong thuyền lại vọng lên tiếng bước chân rầm rập. Một bóng đen chắn ngang luồng ánh sáng trước cửa khoang thuyền, thò đầu vào bên trong gọi lớn:

-Lỗ môn trưởng! Lỗ môn trưởng!

Lỗ Nhất Khí đứng dậy, đầu hơi váng vất. Tuy không nhìn rõ mặt người này, song cậu vẫn nhận ra giọng nói của Sa Khẩu, bởi lẽ giọng Quan Thoại của hắn luôn kèm theo một thứ âm đuôi cứng nhắc nghe rất lạ tai.

-Cậu thử lên trên xem sao, lão Xoa biến mất rồi!

Lỗ Nhất Khí rùng mình một cái, máu huyết đổ dồn lên não. Sự việc lường trước cũng đã xảy ra, song một lần nữa cậu lại bỏ lỡ mất.

Mọi thứ trên bệ lái không mảy may suy suyển, ngay cả góc độ của những ngọn lăng mâu và đinh ba cũng giống y hệt như khi cậu đến trao đổi với lão đêm qua. Trên bệ lái, trên sàn thuyền, trên mạn thuyền không hề có một dấu vết khả nghi, song cũng không tìm ra được vết tích nào liên quan tới lão Xoa. Lão Xoa đã biến mất, ngay cả một sợi tóc cũng không hề lưu lại.

Lỗ Nhất Khí không ngờ lại có một kết quả như vậy. Cậu vẫn không chịu bỏ cuộc, tiếp tục lùng sục kỹ lưỡng khắp bệ lái và boong thuyền, còn thò cả đầu ra quan sát bên ngoài mạn thuyền, song vẫn không phát hiện được bất cứ điểm nào đáng ngờ. Là chuyện quái quỷ gì đã xảy ra? Dù lão Xoa có trượt chân rơi xuống biển, với bản lĩnh của lão, hoàn toàn có thể bơi đuổi theo thuyền. Nếu không, lão cũng phải lên tiếng kêu cứu để đánh động những người trong thuyền mới phải, sao lại có thể biến mất một cách im hơi lặng tiếng như vậy?

Vốn chắc mẩm rằng chỉ một mẻ lưới sẽ hốt ngay được cá, không ngờ lại liên tiếp chuốc lấy thất bại, đến mảy vây cá cũng không thấy tăm hơi, Lỗ Nhất Khí ủ rũ ngồi phịch xuống bó lưới chão ở một bên thuyền.

Đang gục đầu chìm trong suy nghĩ, bỗng như sực nhớ ra, cậu vội ngẩng phắt đầu lên hỏi:

-Hướng thuyền có thay đổi không?

-Không, cậu yên tâm, đến một dải đường bên[19] cũng không xê dịch! - Bộ Bán Thốn đã kiểm tra từ trước, bởi vậy lập tức khẳng định rất chắc chắn.

Lỗ Nhất Khí cười khổ sở:

-Khi các anh phát hiện thấy lão Xoa biến mất, sao không gọi tôi sớm hơn?

-Không phải đâu, chúng tôi cũng chỉ vừa mới phát hiện ra! - Bộ Bán Thốn trả lời.

-Các anh cũng vừa mới phát hiện ra ư? - Lỗ Nhất Khí vô cùng nghi hoặc, ngước mắt nhìn vầng mặt trời đã lơ lửng trên cao.

-Đúng vậy! Không hiểu tại sao hôm nay ai cũng dậy muộn! - Thuỷ Băng Hoa nói.

Lỗ Nhất Khí cuối cùng đã phát hiện ra điều bất ổn, bèn quay đầu lại nhìn lão mù, hy vọng lão tặc vương một thuở có thể đưa ra một vài gợi ý. Song lão mù lại lặng thinh không nói, chỉ dựa lưng vào mạn thuyền, gò má rung giật, tròng trắng mắt chớp đảo liên hồi.

-Cái gì phía trước kia? – Đúng vào lúc đó, Sa Khẩu đột ngột kêu toáng lên. Mọi người đều vội vã đổ xô lại phía mũi thuyền, mạn thuyền, nhìn về phía trước.

Trên mặt nước chẳng có thứ gì. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa đều không nhìn thấy điểm gì khác lạ. Lão mù đương nhiên càng không. Song Bộ Bán Thốn vừa liếc qua đã biết ngay Sa Khẩu đang chỉ vào thứ gì, đó là một đường ranh giới phân rõ hai phần nước trong và nước đục.

-Mặt nước phía trước tự dưng ngầu đục, xem ra chúng ta đã vào hải phận Hoàng Hải rồi, cách cửa sông Trường Giang không còn xa nữa. Sau hai ba ngày sẽ tới đất liền! – Nhìn vào vị trí trên hải đồ và hướng đi của con thuyền, Bộ Bán Thốn đã biết trước sẽ gặp hiện tượng này.

Quả nhiên, khi con thuyền đi thêm hơn nửa ngày nữa, màu sắc của nước biển đã chuyển dần từ màu lam thẫm sang màu lam nhạt, rồi sang màu xám, sau đó lại dần dần ngả sang màu vàng đục.

Trong hơn nửa ngày đó, ngoài sự biến đổi của màu nước biển, tiếng gió cũng đã đổi khác. Sức gió không tăng lên, song tiếng ù ù vẳng theo trong gió lại lớn dần. Lỗ Nhất Khí cảm giác âm thanh này không đơn giản chỉ là tiếng gió, mà nghe có phần hơi giống tiếng còi. Nếu đúng là như vậy, chứng tỏ đối phương đã bắt đầu tăng tốc áp sát.

Một người đã chết, một người mất tích, anh em của Bộ Bán Thốn đã mất mất hai. Song trông hắn không có vẻ gì buồn bã, mà trái lại, hắn có vẻ rất nôn nóng. Trong hơn nửa ngày qua, hắn đã hỏi Lỗ Nhất Khí không dưới tám lần:

-Tiếp theo phải làm gì?

Một người với đôi chân vững như bàn thạch giờ đây tâm trí đã trở nên bất ổn, thế nhưng Lỗ Nhất Khí vẫn chưa đưa ra câu trả lời dứt khoát.

Lỗ Nhất Khí quyết định sắp xếp lại tất cả mọi manh mối. Cậu ngồi trên một mé boong thuyền, lặng phắc như một pho tượng, cơm nước không động đến một hạt. Ngoài Bộ Bán Thốn chốc chốc lại đến hỏi: “Tiếp theo phải làm gì?”, chỉ có Thuỷ Băng Hoa dám bước lại gần, khe khẽ đặt bên cạnh cậu một bát nước đầy ắp.

Cậu cứ thế ngồi lì ở đó đến khi trời tối mịt. Gió đông nam đột ngột nổi lên, hai cánh buồm chốc đã căng phồng. Con thuyền mũi sắt tăng tốc băng lên, khiến thân thuyền hơi chao đảo. Bát nước bên cạnh Lỗ Nhất Khí đã sánh ra ngoài gần nửa, vẫn không thấy cậu bê lên uống lấy một ngụm.

-Nổi gió đông rồi, hôm nay là ngày mấy? – Đây là câu nói đầu tiên của Lỗ Nhất Khí sau cả nửa ngày trời câm lặng.

-Sang xuân đã hơn nửa tháng rồi! - Bộ Bán Thốn không lúc nào rời mắt khỏi Lỗ Nhất Khí, vừa nghe cậu hỏi, lập tức trả lời ngay.

-Trên biển chẳng biết đến ngày tháng, qua Tết lúc nào cũng không hay!

Câu nói của Lỗ Nhất Khí khiến mọi người đều thấy bùi ngùi. Suốt những ngày qua lo chạy thoát thân còn không xong, còn tâm trí đâu mà Tết với nhất? Lại thêm tình hình trước mắt, còn không dám chắc có giữ được cái mạng hay không.

Đêm nay, không có ai cầm lái. Chẳng ai dám, cũng chẳng ai muốn đảm nhận nhiệm vụ này, nên chỉ buộc dây chão cố định bánh lái, rồi để con thuyền muốn trôi đi đâu thì trôi.

Một đêm bình yên, song cả đám người không ai ngủ được ngon giấc. Gió biển thổi dữ dội mạng theo từng tràng những tiếng u u như quỷ hú, khó mà chợp mắt cho nổi. Huống hồ trong khoang thuyền bao trùm một bầu không khí nguy hiểm chết chóc, khiến ai nấy đều căng thẳng trong tư thế cảnh giác cao độ.

Trời vừa sáng rõ, Bộ Bán Thốn liếc vào la bàn, phát hiện ra hướng thuyền đi không hề xê dịch lấy mảy may. Quả là kỳ lạ hết sức! Dù bánh lái đã được buộc cố định, song vẫn còn hướng gió và thuỷ triều, đáng lẽ hướng thuyền vẫn phải xê dịch ít nhiều mới phải!

Lỗ Nhất Khí nghe vậy, một nỗi hoài nghi và kinh ngạc âm thầm trỗi dậy trong lòng. Không hiểu tại sao những sự việc quái lạ cứ dồn dập nối nhau kéo tới?

Bộ Bán Thốn lại hỏi một câu:

-Tiếp theo phải làm gì?

Nước biển giờ đã đục ngầu, cho thấy con thuyền cách đất liền không còn xa nữa. Lúc này, Lỗ Nhất Khí bắt đầu do dự, không biết nên đổi hướng hay tiếp tục đi thẳng? Dựa theo manh mối từ tấm thẻ ngọc, đi thẳng về phía trước rất có khả năng sẽ tìm ra bảo bối. Song đối thủ đang truy đuổi ráo riết phía sau, đã sắp sửa áp sát. Còn đổi hướng? Chưa truy ra được tai mắt do thám của đối thủ đang ở trên thuyền, chắc chắn không thể đổi hướng. Mục đích của đối thủ là muốn cậu dẫn bọn chúng tới vị trí cất giấu bảo bối chính xác, bọn chúng tuyệt đối không cho phép thay đổi hành trình. Cái chết của Âu Tử và sự mất tích của lão Xoa có lẽ đều liên quan tới đổi hướng.

Thuỷ Băng Hoa lại bưng đến một bát nước đặt bên cạnh Lỗ Nhất Khí, lần này Lỗ Nhất Khí đã bê bát nước lên. Mặt boong thuyền vốn không bằng phẳng, được thiết kế hơi dốc về phía máng nước hai bên, như vậy nước trên boong mới có thể chảy xuôi vào máng đổ ra biển. Bát nước quá đầy, đặt trên mặt boong thuyền nghiêng dốc sẽ sánh ra ngoài. Lỗ Nhất Khí bèn chuyển bát nước lên trên cọc buộc chão bên mạn thuyền, nơi đó có vẻ bằng phẳng hơn.

Gió đông nam càng thổi gấp, con thuyền vẫn bập bềnh tiến về phía trước. Nước trong bát cũng sóng sánh theo nhịp rung lắc của con thuyền.

-Chỉ khoảng một ngày nữa là tới đất liền rồi! - Bộ Bán Thốn nói ra câu này là để nhắc nhở Lỗ Nhất Khí, quyết định thế nào nên thực hiện ngay đi.

Song không có phản ứng gì. Lỗ Nhất Khí cứ trơ trơ như pho tượng gỗ, chỉ nhìn chằm chằm vào bát nước trước mặt. Dường như ngay cả hơi thở, nhịp tim, mạch đập cũng đều biến mất. Kỳ thực, đây chính là một phương thức nhập định ở cảnh giới cực cao thâm, song bản thân Lỗ Nhất Khí lại không hề hay biết. Cậu chỉ cảm thấy làm như vậy có thể dẹp yên mọi lo lắng bất an, khiến đám tư duy rối như tơ vò thông suốt trở lại.

Lỗ Nhất Khí đã nghe thấy lời nói của Bộ Bán Thốn. Nhập định khác với thông linh, thông linh là quên bỏ tất cả mọi thứ phàm tục bên mình, tập trung tinh khí để điều khiển sức mạnh vô hình của cảm giác. Còn nhập định là nâng cao tất cả các năng lực cảm tri của bản thân trong thời khắc ở trong trạng thái đó. Bởi vậy, không những cậu nghe thấy lời nói của Bộ Bán Thốn, mà còn nghe thấy rõ ràng hơn trước đó rất nhiều.

Thuỷ Băng Hoa có phần lo lắng về trạng thái của Lỗ Nhất Khí, bèn kín đáo đi hỏi lão mù. Lão mù đang trốn trong một xó, khi Thuỷ Băng Hoa hỏi lão, lão như thể không hề nghe thấy, vẫn tiếp tục lúc lắc đầu, lụng bụng câu gì trong miệng, gò má co giật liên hồi.

Thuỷ Băng Hoa thấy lão mù không để ý tới mình, bèn quay người bước đi. Đúng lúc đó, lão mù bỗng thôi lảm nhảm, khẽ cất giọng lào khào lên tiếng:

-Mất hồn rồi! Gọi hồn đi! Gọi hồn đi!

Người phản ứng đầu tiên trước câu nói này chính là Lỗ Nhất Khí. Trong trạng thái nhập định, câu nói rất khẽ của lão mù đã truyền đến tai cậu rành mạch từng tiếng. Một luồng âm thanh vô hình như một mũi gai xuyên sâu vào lỗ tai, quanh co rúc ráy một hồi, rồi xói thẳng vào trong não cậu. Mũi gai đã chọc thủng một bức mạng che tối tăm, khều tung lớp vỏ bọc, và một thứ đã hiển lộ rành rành trong trí não Lỗ Nhất Khí.

Gọi hồn? Hồn ở đâu? Bình sứ! Chiếc bình sứ đang ở trong khoang thuyền!

Lỗ Nhất Khí cuối cùng cũng sực nhớ ra, chú Tư đã từng giúp ai đó nhận giữ một chiếc bình tương tự. Loại bình này hình như được gọi là bình hồn. Đem tro xương của người chết nơi đất khách, cùng với một nhúm tóc và một chiếc răng đốt lên cho vào trong bình, rồi niêm phong nung kín miệng bình. Như vậy, hồn phách của người chết sẽ nhập vào trong bình không thể tản đi, mới có thể mang cả tro cốt và linh hồn của người chết trở về quê quán. Nhận giữ một chiếc bình như vậy chẳng khác gì thu nhận một cỗ quan tài đựng xác chết. Điều này khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy vô cùng khó chịu, tâm lý bài trừ đã khiến cậu cố tình gạt bỏ nó ra khỏi ký ức, nên không thể nào tìm lại được cảm giác tương tự từ trong não bộ.

Vừa nghĩ tới bình hồn, cậu lập tức nhớ ra một bộ sách dịch có tên là “Thiên linh tuyệt thuật tạp duyệt”[20], viết rằng ở vùng biên cương phía Bắc có Sa man[21] Chiêm Bà, đời đời đơn truyền, hiếm người biết tới. Nghe nói họ có thể tìm ra dấu vết di chuyển của linh hồn, hơn nữa còn có khả năng mượn hồn trả phách, điều khiển thi hài.

Lỗ Nhất Khí bật người nhảy dựng lên, chạy như ma đuổi vào trong khoang thuyền, xách ngay bình hồn ra. Dưới ánh sáng ban ngày, cậu đã phát hiện thấy hai dấu niêm phong hình chữ “lữ” nhỏ xíu trên đám cao lanh trám trên miệng bình. Quả nhiên là một chiếc bình hồn.

Lỗ Nhất Khí chẳng nghĩ ngợi gì thêm, vung mạnh tay trái, thẳng cánh liệng chiếc bình xuống biển.

Bộ Bán Thốn đứng trên bệ lái ngẩn ra nhìn Lỗ Nhất Khí, không hiểu chuyện gì xảy ra. Lỗ Nhất Khí quay người lại nói với hắn:

-Là bình hồn dẫn đường! Mau đổi hướng, cắt đứt đuôi bám phía sau!

Bộ Bán Thốn tuy vẫn nhìn sững vào Lỗ Nhất Khí, song đôi tay lập tức múa lên thoăn thoắt, vặn trái giật phải, sợi chão đang buộc chặt bánh lái chớp mắt đã bung ra tựa như làm phép. Sau đó, hắn xoay mạnh bánh lái sang phải.

Bánh lái không hề nhúc nhích.

Bộ Bán Thốn điếng người, hai tay siết chặt, lỗ chân lông trên khắp cơ thể như cũng co cứng lại theo. Hắn thận trọng vận thêm vài phần sức lực, đẩy mạnh một lần nữa, nhưng bánh lái vẫn trơ trơ. Hết sức kinh ngạc, hắn lại quả quyết vận lực xoay mạnh bánh lái sang bên trái, song bánh lái vẫn không hề nhúc nhích.

Các lỗ chân lông trên khắp cơ thể hắn đột ngột giãn chùng, mồ hôi lạnh tứa ra ướt đẫm cơ thể. Đây là con thuyền do đích thân cao thủ Lỗ gia chế tạo, cho dù có vỡ tan thành mảnh vụn, thì vị trí tối quan trọng này hẳn cũng không thể xảy ra trục trặc mới phải.

-Sao thế? Bánh lái kẹt à? Để tôi xuống xem! – Nhìn vào hành động của Bộ Bán Thốn, Sa Khẩu biết ngay bánh lái có vấn đề. Hắn bám lấy một sợi dây chão buộc trên cột buồm đu lên bệ lái, chuẩn bị trượt xuống đuôi thuyền kiểm tra.

-Cẩn thận, lấy thêm sợi chão buộc vào người, nếu tấm chắn không trượt đi được, ngươi lại rơi xuống biển, sẽ không thể quay thuyền lại vớt được đâu! - Bộ Bán Thốn buộc chặt dây chão quanh thắt lưng Sa Khẩu, cố định chắc chắn.

Sa Khẩu chuẩn bị xong xuôi, liền nhảy lên gióng ngang của trụ bánh lái, xoay người chuẩn bị trượt xuống theo sợi chão.

-Khoan đã! – Đúng lúc này, trong đầu Lỗ Nhất Khí chợt loé lên một tia sáng, những chi tiết rời rạc bỗng chốc đã ghép lại thành hình trong trí não - Xuống đây! Xuống đây trước đã!

Sa Khẩu lại nhảy trở xuống bệ lái. Lỗ Nhất Khí ghé sát vào tai hắn thì thầm:

-Rút đao, phục ở đây!

Sa Khẩu thoắt ngẩn tò te, song nhìn vào vẻ mặt nghiêm trọng và ánh mắt của Lỗ Nhất Khí, hắn hiểu rằng việc này không phải chuyện đùa. Hắn lập tức rút ngay con dao găm vây cá mập hai lưỡi và một con dao rọc sống dày lưỡi rộng từ trên người ra, hỏi:

-Phục ở lối nào?

Lỗ Nhất Khí không nói, mà chỉ tay xuống phía dưới mé phải đuôi thuyền.

Chú thích

[19] Đường sọc chạy dọc từ mang cá tới đuôi cá.

[20] Đây là cuốn sách dịch từ tiếng nước ngoài xuất hiện vào thời Nguyên, tương truyền tác giả là một thương nhân châu Âu, nhưng sau khi được dịch ra và khắc in, chưa từng thấy đề tên người dịch. Cuốn sách ghi chép một số sự việc quái lạ tại những khu vực biên viễn và các nước nhỏ xung quanh Trung Hoa thời Nguyên, ngoài ra còn ghi chép một số kỹ nghệ hiếm gặp. Sa man Chiêm Bà đúng là được ghi chép trong cuốn sách này.

[21] Sa man, tức là một loại hình vu sư, đồng cốt phổ biến ở vùng Băc Á, có khả năng giao tiếp với thần linh, vong hồn bằng cách hồn rời khỏi xác, hoặc để thần thánh, ma quỷ nhập vào mình. Quá trình này được Sa man tự mình thực hiện nhờ tiếng hát, tiếng đàn, hương khói và những động tác nhảy múa điên loạn.
Bình Luận (0)
Comment