Mê Hiệp Ký

Chương 11

Khi ngã xuống, trong mắt Hà Y là bầu trời đỏ, tuyết đỏ, cây cối cũng đỏ, xa xa trên cây là một bóng áo trắng, rồi dần dần tất cả chuyển thành màu tía, một màu tía nhạt, bầu trời tía nhạt, tuyết màu tía nhạt, dưới gốc ngô đồng màu tía nhạt một bầy đom đóm quanh quẩn trong đám cỏ.

Mấy con chuồn chuồn cánh mỏng tang trong suốt, toàn thân tuyền một màu lam, duyên dáng bay nghiêng nghiêng bên tai, phát ra tiếng giống hệt tiếng ong gọi bầy. Mấy quả quýt trên cây, dưới ánh trăng tựa như tỏa sáng, trên mỗi quả quýt đều có một cô bé rất rất nhỏ mặc áo trắng, cầm đèn lồng đỏ ngồi chơi.

Chúng dang chân dang tay, mở những cái miệng nhỏ bé non nớt thong thả hát một bài ca tựa như đã từng nghe… Nhược hữu nhân hề sơn chỉ a, Bị tiết lệ hề đái nữ la. Kỉ hàm đệ hề hựu nghi tiếu, Tử mộ dư hề thiện yểu điệu…[1] (Núi kia tựa có bóng ai, Eo thắt nữ la[2], quàng vai tiết lệ[3]. Ánh mắt đa tình cười xinh thế, Chàng mến ta rồi bởi yểu điệu.) [1] Bài Sơn Quỷ trong Cửu ca thuộc Sở Từ của danh nhân Khuất Nguyên (340 – 278 Tr.CN). [2] Nữ la tức là cây tùng la. [3] Tiết lệ là sắn dây.

Nàng mơ mơ hồ hồ, dường như đã thiếp đi rất lâu nhưng bị một cơn đau buốt lay tỉnh. Một bàn tay dịu dàng, nhè nhẹ vuốt ve khuôn mặt nàng. Bàn tay lạnh giá, so với khuôn mặt đang dần dần lạnh đi của nàng còn băng lạnh hơn.

Nàng chầm chậm, gắng gượng mở mắt, nhìn thấy khuôn mặt thật quen thuộc, tái nhợt nhưng tuấn tú, đôi mắt sâu thẳm tựa rừng thu, nhưng khi nhìn nàng lại có một vẻ ấm áp khôn tả. Mộ Dung Vô Phong đang ngồi trước mặt nàng.

Nàng miễn cưỡng gượng cười, tuy không dám nhìn nhưng nàng biết thanh kiếm kia vẫn còn cắm trên người mình. “Chàng… làm thế nào… mà xuống được?”, nàng vừa thở hổn hển vừa hỏi. Hiện giờ nàng không nằm trên tuyết mà đang nằm trong lòng của Mộ Dung Vô Phong, chàng cẩn thận ôm lấy nàng dường như muốn dùng hơi ấm của mình sưởi ấm cho nàng. “Đương nhiên là trèo xuống rồi”, Mộ Dung Vô Phong thì thầm bên tai nàng.

“Chàng… biết trèo cây?”, nàng vẫn muốn cười. “Nếu là trèo xuống thì vẫn được”, thần sắc chàng nhợt nhạt nhưng vẫn rất bình tĩnh nhìn nàng. “Sao ta… không… nhìn thấy? Bộ dạng trèo cây của chàng nhất định… nhất định…”, nàng ho vài tiếng, ho ra cả máu. “Nàng vừa ngất đi”, vừa nói chàng vừa dùng ống tay áo nhè nhẹ lau đi vết máu trên môi nàng.

“Mộ Dung Vô Phong, nhân khi ta còn chưa chết, chúng ta nói chuyện đi”, tự dưng trong lòng dậy lên nỗi phiền muộn, tại sao lúc gặp nhau thì ngắn ngủi mà khi phải chia ly lại dài thế, lâu thế? Nàng khẽ nói: “Chàng nói xem, ta mặc áo đỏ… có đẹp không?”.

“Đẹp”, chàng nhìn nàng nồng nàn, nói: “Nàng mặc gì cũng đẹp”. “Ta sợ nhìn thấy máu của mình…” Trong lòng Mộ Dung Vô Phong trào lên nỗi chua xót, lẽ nào cô ấy ôm lòng liều chết mà tới đây? “Hà Y, nàng nhìn ta này”, khuôn mặt chàng gần như áp vào mặt Hà Y, “Từ lần đầu tiên gặp mặt, nàng đã giống như một chú cá hoạt bát”.

“Chàng nói… nói tới cá làm ta lại muốn ăn… ăn canh cá”, thấy bộ dang thương tâm của chàng, Hà Y không nén được lại trêu đùa. “Nàng không thể chết”, ánh mắt chàng sâu thẳm, tựa như hồ nước không sao nhìn thấy đáy: “Nếu như nàng chết, ta sẽ ở đây bầu bạn với nàng, mãi mãi bầu bạn với nàng”. “Vô Phong, đừng để ý đến ta, chàng phải… phải mau nghĩ cách rời khỏi đây đi. Ở đây lạnh quá…”, nàng có chút cuống quýt nói. “Không lạnh, ở bên nàng không lạnh chút nào”, chàng ôm lấy nàng, khẽ nói.

“Vô Phong, sao ta không cảm thấy… đau đớn chút nào?”, nàng chợt hỏi. “Ta đã điểm mấy huyệt đạo để cầm máu cho nàng. Còn cả… còn cả một vài huyệt đạo khiến toàn thân nàng tê liệt”, chàng nhẹ giọng nói. Những huyệt đạo có thể khiến toàn thân tê liệt, Hà Y cũng biết một chút nhưng việc này cực kỳ nguy hiểm, trước nay trên giang hồ chưa từng có ai dám đem thân mình ra thử. Chỉ mảy may sai sót sẽ lập tức bỏ mạng.

Có lẽ cũng chỉ một mình Mộ Dung Vô Phong mới đủ khả năng thực hiện. “Vô Phong, nghe ta nói”, trong lồng ngực lại có một trận đau thắt, nàng chợt cảm thấy khó thở, nhất thời tiếng nói trở nên gấp gáp: “Chàng có thể rời khỏi đây. Cầm lấy cái còi này… Lúc đến ta đã tính có thể cứu thoát chàng, cho nên… cho nên đã bố trí trước trong rừng một cỗ… một cỗ xe ngựa”. “Trên xe có Kim sáng dược không?”, chàng lập tức hỏi. “Không có, chỉ có một ít… một ít thuốc chàng thường dùng.

Là Thôi đại phu đưa cho ta. Bọn họ… mấy vị tổng quản không đồng ý cho ta tới… tới cứu chàng. Là ta lén đi”, nàng mang theo mấy thứ thuốc chàng phải uống hàng ngày, thuốc phải uống lúc lên cơn đau tim, rượu trị bệnh phong thấp, thuốc chống phong hàn. Chàng thổi chiếc còi trong tay, quả nhiên có một cỗ xe ngựa từ trong rừng chạy ra.

Có lẽ con ngựa này theo Hà Y nhiều năm rồi, đã có linh tính, vừa nghe thấy tiếng còi là kéo chiếc xe ngựa tới trước mặt hai người mới dừng lại. Mộ Dung Vô Phong nhẹ nhàng đặt Hà Y xuống đất, hai tay chống xuống di chuyển thân mình, bao nhiêu khó nhọc mới trèo được lên xe. Trong đầu bỗng dấy lên bao nhiêu cái “nếu như”.

Nếu như chàng có một đôi chân khỏe mạnh, nếu như chàng biết võ công, nếu như…, thì Hà Y đã không… Chàng nghiến chặt răng, buộc mình tống khứ những cái “nếu như” kia ra khỏi đầu. Trên thế giới này vốn không có cái gọi là “nếu như”.

Những người miệng hay lải nhải “nếu như” là những kẻ không hề hiểu sự gian nan của cuộc đời. Trong xe có tất cả những thứ lúc bình thường lúc ra ngoài chàng phải đem theo, một chậu sưởi ấm đầy ắp than sưởi, mấy cái chăn dày, y phục để thay, nước, lương khô, hộp thuốc, mấy gói thuốc còn có thứ quan trọng nhất, chính là chiếc xe lăn của chàng.

Chàng mở tung tất cả các gói thuốc, lấy trong đó mấy vị thuốc chàng đang cần đặt vào chậu sưởi, sao thành bột. Tiếp đến đem tất cả quần áo xé thành những dải vải dài. Sau đó đưa chiếc xe lăn xuống, lấy một tấm chăn dày, đem theo thuốc bột và rượu thuốc rồi quay trở về bên Hà Y. Sau lưng nàng tuyết nhuộm màu đỏ thẫm.

Đôi môi nàng thì lại trắng bệnh. Trong cơn gió buốt nàng không thể chịu đựng lâu thêm nữa. “Sao hả? Có phải ta chuẩn bị rất đầy đủ không?”, Hà Y nhìn chàng có chút dương dương đắc ý nói. Thân thể nàng đã bắt đầu không tự chủ mà run lên cầm cập, sắc mặt càng lúc càng đáng ngại.

Nàng biết nếu có thể cứu Mộ Dung Vô Phong, từ nơi này thong thả về Vân Mộng cốc chí ít cũng phải mất bốn ngày trời. Trong bốn ngày ấy, đương nhiên chàng phải cần tới những thứ đã chuẩn bị sẵn trên xe. “Tốt lắm rồi”, chàng đã khôi phục lại vẻ bình tĩnh, cũng quay trở lại dáng vẻ lãnh đạm ngày thường. Chàng từ trên xe lăn ngồi xuống đất, lấy chiếc chăn dày trùm lấy nàng. “Hà Y, nàng uống rượu đi”, chàng mở nút bình rượu.

“Đây là… đây là rượu thuốc, dùng để xoa bóp cho chàng, đắng chết đi được, ta không uống đâu!”, nàng thốt. “Mùi vị cũng không tồi, không tin, ta uống cho nàng xem”, chàng ngửa cổ nuốt ừng ực một ngụm. “Không”, nàng ngang bướng nói: “Không được bắt người sắp chết uống những thứ không ngon, u hồn của ta sẽ hận chàng đấy”. “Nghe lời nào, Hà Y”, chàng nâng đầu của nàng. “Có muốn, làm… làm một chữ ‘lữ’[4] trước không”, nàng bẽn lẽn nói, khuôn mặt đỏ hồng. [4] Tự hình của chữ lữ giống như hai bộ khẩu chồng lên nhau, tức là chỉ việc “hôn”. “Chữ ‘lữ’?” chàng nghi nghi hoặc hoặc: “Chữ ‘lữ’ gì?”. “Đồ ngốc, đồ khờ!”, nàng xấu hổ đỏ bừng mặt, “Chàng…”, còn chưa nói xong, môi đã bị chặn lại, chàng hôn nàng thật sâu.

Một cái hôn thật dài, thật lâu, hơi thở như đều thành của chàng rồi, nơi bụng bỗng đau quặn một cái, chàng đã rút thanh kiếm ra. Tất cả bột thuốc đều rắc lên miệng vết thương, tại chỗ nghiêm trọng nhất còn đắp vào một chút kim sáng dược Hà Y mang theo tùy thân. Sau đó chàng nhanh chóng băng vết thương lại rồi ôm lấy nàng đưa tới xe ngựa. May mà nàng mang theo xe lăn của chàng, nếu không chỉ sợ dù chàng có bỏ ra bao nhiêu sức lực cũng chưa chắc đem được nàng lên xe mà không động tới vết thương của nàng.

Nếu không có xe ngựa, họ chỉ đành ngồi dưới gốc cây ấy mà dần dần chết cóng. Nữ nhân đã thông minh thì bất kể là lúc nào vẫn cứ thông minh. Tuyết bay, gió buốt, lò than hồng. Khí lạnh tê tái ngấm tới tận xương của tháng Hai như bị tấm rèm dày chặn ngoài cửa.

Hà Y cuộn trong mấy tầng chăn dày, nằm trên một bên ghế, lò sưởi ấm áp đặt bên mình, ánh lửa đỏ chiếu lên khuôn mặt tái nhợt đến đáng sợ của nàng. Nàng mất quá nhiều máu, vết thương lại quá sâu, thậm chí cả sau khi đã được băng lại, đến cả Mộ Dung Vô Phong cũng không dám khẳng định liệu vết thương của nàng đã hoàn toàn ngừng chảy máu hay chưa.

Huống chi bọn họ không đủ dược liệu. Nếu là người bình thường, trong tình trạng ấy trong vòng một canh giờ là mất mạng rồi. Nhờ là người tập võ Hà Y mới có thể chịu đựng lâu như thế. “Nàng thấy ấm chưa?”, Mộ Dung Vô Phong bình đạm nói. Lúc thăm bệnh cho người đang trong cơn nguy kịch, bất kể trong lòng anh có lo lắng đến thế nào, có tuyệt vọng ra sao, tuyệt đối không được mảy may thể hiện ra để bệnh nhân thấy.

Tay của đại phu phải cực kỳ ổn định, để giữ sự ổn định ấy, anh phải giữ khoảng cách với bệnh nhân. Nếu như anh quá thương cảm với bệnh nhân, tay của anh sẽ yếu đi, không dám thử, không chịu mạo hiểm dẫn tới bỏ lỡ nhiều cơ hội cứu chữa. Chàng thường dạy học trò của mình như thế. Hà Y gật đầu, nhẹ giọng đáp, “Trước khi tới đây ta đã hỏi qua mấy người dân bản địa rồi, nếu chúng ta cứ đi về phía trước, đi khoảng một ngày sẽ gặp được một thôn lớn”.

Ánh mắt của nàng vẫn còn rất trong sáng tỉnh táo, tiếng nói tuy nhỏ nhưng vẫn giữ được tốc độ nói như lúc thường. Mộ Dung Vô Phong gật đầu, trong lòng tính toán một chút.

Lộ trình quay về đại khái phải mất bốn ngày, trên đường cũng nhiều hung hiểm, mịt mùng chẳng bóng người. Xem ra chỉ có thể đi về phía trước, đến thôn đó nghỉ lại một chút có khi cũng tìm được người giúp đỡ. Cũng có thể trong thôn có tiệm thuốc, mấy vị thuốc chàng cần sẽ có.

“Chàng có biết đánh xe ngựa không?”, nàng chợt hỏi. Rốt cuộc cũng không thể cùng ngồi trong xe rồi cứ thế đậu xe bên đường mãi được. Lời vừa ra khỏi miệng lòng đã hối hận rồi. Việc này còn cần hỏi sao? Mộ Dung Vô Phong vốn quen ngồi xe, chỉ sợ cái roi đánh xe trông như thế nào cũng không biết.

Quả nhiên chàng thành thật nói: “Chưa từng thử qua, có điều chắc cũng không quá khó”. “Nó là ngựa của ta, có thể tự đi về phía trước, chàng chỉ cần nhắm lúc nào nó đi chậm lại thì ra roi thúc là được”, giọng của nàng càng lúc càng nhỏ, càng lúc càng mỏng, cơ hồ nghe không rõ. Mộ Dung Vô Phong cuộn mình trong một chiếc áo khoác dày, trèo lên trước xe nói: “Nàng yên tâm, nằm yên, chớ động đậy”. Xe ngựa chầm chậm tiến về phía trước.

Đường núi gập ghềnh, một con đường hẹp quanh co vươn dài mãi như vô cùng tận. Trên trời tuyết vẫn rơi, con đường dần chìm trong tuyết.

Đã đi được khoảng ba canh giờ, cứ mỗi nửa canh giờ, Mộ Dung Vô Phong lại vào thùng xe xem một lần. Tuy hơi thở yếu ớt, Hà Y vẫn ương ngạnh một câu đáp một câu tiếp chuyện Mộ Dung Vô Phong. Người sáng mắt đều có thể phát hiện đầu óc của nàng đã dần dần mất tỉnh táo, chỉ dựa vào chút khẩu khí mà kiên trì đến bây giờ, không muốn để chàng quá lo lắng, xét cho cùng sức khỏe của chính chàng cũng không được tốt.

Hai ngày trước chàng vẫn đang còn là một bệnh nhân đến việc ngồi dậy khỏi giường cũng khó khăn, bây giờ phải vừa vất vả đánh xe, vừa chăm sóc vết thương của nàng trong cái thời tiết như muốn lấy mạng chàng. Không gian tĩnh mịch, đêm dần xuống.

Không xa phía trước có ánh đèn thấp thoáng trong rừng cây. Lẽ nào Hà Y nhầm? Thôn kia vốn không xa đến thế? Nhưng xem ra kia không giống như thôn trang, bởi chỉ có một ánh đèn, một ánh đèn nho nhỏ. Đến gần mới thấy đó là hai gian phòng lụp xụp, có vẻ như là nơi ở của thợ săn.

Có đèn đương nhiên là có người. Bất kể thế nào bọn họ cũng phải xuống xe nghỉ lại một đêm. Một là, vết thương của Hà Y cần khâu lại, thay thuốc. Hai là, ngựa cũng mệt rồi. Cắn răng đưa xe xuống đất, ngồi lên rồi ôm lấy Hà Y.

Sắc mặt của Hà Y xám như tro, người mềm nhũn nằm trong lòng chàng, hơi thở vừa yếu ớt vừa khó khăn. Chàng gõ cửa, cửa mở “kẹt” một tiếng, một đại hán cực kỳ tráng kiện bước ra, lúc mở cửa trong tay còn cầm một cái bánh nướng.

Người này mặc một tấm áo khoác da hổ, trang phục theo lối thợ săn điển hình. Mộ Dung Vô Phong mỉm cười, nói: “Vị huynh đài này, chúng tôi là người qua đường, vốn muốn đi suốt đêm không ngờ gặp gió tuyết. Không biết liệu có thể cho ở lại chỗ này qua đêm, sáng mai xin đi sớm. Đến lúc đó xin phép được gửi tiền phòng”.

Người thợ săn nhìn hai người một lượt, thấp giọng khó chịu nói: “Chỗ tôi đây chỉ có một cái giường, nếu hai vị muốn ở lại chỉ có thể ở phòng củi, nếu không chê thì cứ vào”. Mộ Dung Vô Phong nói: “Chỉ cần có chỗ dung thân là được, không dám phiền phức hơn”.

Người thợ săn thấy đôi chân chàng bất tiện, định đón lấy Hà Y, Mộ Dung Vô Phong rụt lại, từ chối nói: “Đa tạ. Cô nương đang lâm trọng bệnh, không nên cử động nhiều, cứ để tôi”. Trong phòng củi có một vại nước, một bếp lò, mặt đất thì toàn bùn, bẩn thỉu vô cùng.

Còn may trong góc tường có một đống rơm. Mộ Dung Vô Phong gom đống rơm lại thành một đống thật dày, bên trên trải tấm chăn đem từ trên xe xuống, sau đó cần thận hết sức đặt Hà Y lên tấm chăn. Trong bếp hãy còn tàn lửa, cho thêm vài thanh củi lại cháy bùng lên, thoáng chốc đã đun xong một siêu nước nóng.

Khung cửa sớm đã hỏng hết, hai cánh cửa chỉ khép hờ với nhau, cứ khi gió to thổi tới lại lách cách va vào nhau. Mộ Dung Vô Phong rửa tay rồi lại sao thuốc, hòa với nước nóng, chế ra một bát thuốc cao đặc màu đen. Chuẩn bị xong mọi thứ, chàng tháo lớp băng đang cuốn ở bụng nàng, rửa sạch vết thương rồi lấy trong hộp thuốc một con dao nhỏ vừa mỏng vừa sắc nhọn, trước tiên hơ qua lửa rồi nhúng vào rượu thuốc. Hà Y nhìn chàng, không kìm được mà run bắn toàn thân, nhỏ giọng hỏi: “Có đau lắm không?

Ta… ta từ nhỏ đã rất sợ đau”. Mộ Dung Vô Phong bật cười, nói: “Sở nữ hiệp mà lại sợ đau? Việc này nói ra, chỉ sợ người khác sẽ cười vỡ bụng”. “Chính vì sợ đau nên ta mới khổ luyện khinh công, chính là để chạy… chạy cho nhanh một chút”, nàng lo lắng nhìn chăm chăm vào con dao trên tay chàng. “Ta đã dùng châm phong bế đại huyệt trên người nàng, hiện giờ trừ đầu nàng là còn có thể cử động ra, tất cả những nơi khác trên người đều không có cảm giác.

Chỉ sợ phải để nàng nằm như thế mười ngày, đợi khi vết thương khép lại ta mới dám giải khai huyệt đạo của nàng”, chàng vừa nói vừa bắt đầu xử lý vết thương. Từ khi bắt đầu hành nghề đến nay đây là lần đầu tiên đối diện bệnh nhân lại lưỡng lự, chàng chần chừ một lát, mãi không xuống tay được. Nghiến chặt răng, chàng dùng con dao nhỏ rạch vết thương đã sưng phù, mở ra một đường hẹp rồi từng lớp từng lớp khâu lại, thoáng chốc đã hoàn toàn khâu xong.

Tay của chính chàng lần đầu tiên không do chàng làm chủ mà run rẩy. Bôi thuốc cao lên, dùng nước nóng lau qua thân thể lạnh băng của nàng rồi thay cho nàng một bộ y phục trắng sạch sẽ. Biết chàng ưa sạch sẽ, lúc đi nàng đã mang theo hơn mười bộ y phục trắng còn quần áo để chính mình thay thì nàng lại quên sạch. Xử lý xong tất thảy, đắp chăn cẩn thận cho nàng, chàng lặng lẽ, chăm chú nhìn nàng, nhìn rất lâu rồi chợt nói: “Hà Y, khi còn nhỏ… có người thường ức hiếp nàng sao?”.

Trên lưng của nàng còn vài vết sẹo mờ mờ, tuy là của nhiều năm trước nhưng chàng vẫn có thể tưởng tượng lúc ấy trông ra sao. Nàng cười cười, tránh cái nhìn của chàng: “Ta lợi hại như thế này, làm sao có ai bắt nạt được ta? Chẳng qua thuở nhỏ nghịch ngợm, hay bị ngã nên mới có mấy vết ấy thôi ấy mà thôi”. Nàng lựa lời mà quên rằng Mộ Dung Vô Phong là một đại phu, tự nhiên đủ khả năng nhận diện các loại sẹo.

Chàng cúi thấp đầu trầm mặc, không truy hỏi thêm nữa. “Chàng thì sao? Lúc nhỏ chàng thế nào?”, nàng hỏi lại, cố gắng khiến bầu không khí dễ chịu hơn. Chàng nhạt giọng nói: “Không nhớ lắm”. Giữa hai người vì sao cuối cùng vẫn có một vài việc không thể nói ra? Rốt cuộc nàng muốn che giấu cái gì? “Ngủ sớm một chút đi.

Nàng mệt rồi”, không đợi Hà Y lại mở miệng hỏi, Mộ Dung Vô Phong dứt khoát cắt ngang câu chuyện. Chàng nửa nằm nửa ngồi trên một đụn rơm cách nàng mười thước, dặn dò: “Nếu ban đêm thấy khó chịu chỗ nào, nhất định phải gọi ta dậy”. “Ừm”, nàng quay mặt về phía chàng, nhìn chàng nhắm mắt lại rồi rất nhanh chìm vào giấc mộng.

Cây đèn rất nhỏ. Dưới ánh đèn, khuôn mặt chàng nhợt nhạt nhưng anh tuấn, dưới đôi mày kiếm là cái mũi thẳng dài và đôi môi thanh tú. Lúc ngủ, chàng vẫn hơi nhíu mày, tựa như kể cả trong giấc ngủ vẫn đang nghĩ ngợi gì đó. Hà Y ngắm chàng, không cười nữa.

Trong lòng nàng trỗi dậy muôn nỗi xót thương. Áo khoác trắng như tuyết đắp nghiêng nghiêng trên người chàng lại càng lộ rõ làn da trắng đến mức gần như không có chút huyết sắc và thân thể yếu ớt của chàng.

Mười mấy ngày không gặp vậy mà chàng lại gầy đi nhiều như thế. Nàng nhìn chàng đến ngẩn người, nhìn rất lâu mới cảm thấy có chút mệt mỏi nhưng không sao ngủ được. Thân thể không thể cựa quậy chút nào, đây tuyệt đối không phải cảm giác dễ chịu. Nàng nhanh chóng cảm thấy bức bối, muốn nói chuyện, cho dù chỉ cử động đầu ngón chân thôi cũng được. Nàng đành xoay xoay thứ duy nhất có thể cử động được – cái đầu, trong lòng dấy lên nỗi bi thương. Lẽ nào đây chính là cảm giác của chàng mỗi khi cơn phong thấp tái phát? Cánh cửa đột nhiên mở ra.

Người thợ săn kia nhẹ nhàng tiến vào. Nàng chỉ liếc một cái là hiểu hắn muốn làm cái gì, bởi trên tay hắn là một con dao, một con dao chặt củi. Ánh mắt hắn nhìn nàng trừng trừng. Nàng không thể cử động, một chút cũng không. Nàng cũng không thể gọi.

Gọi một tiếng, người đầu tiên bị con dao kia chém xuống chính là Mộ Dung Vô Phong. Tên thợ săn đi đến bên nàng, vén chăn trên người nàng, sau đó cởi y phục của nàng. Trong mắt hắn là một loại thần thái gần như điên cuồng, một loại cảm giác hưng phấn khó nói lên lời, hắn bắt đầu cởi y phục của mình, bắt đầu hôn lên mặt nành, lên người nàng, sau đó bắt đầu… Không có chút cảm giác gì. Tuy căm hận muốn chết.

Nàng nhìn hắn thở hổn hển sung sướng trên người mình… Nàng biết vết thương của mình đang chảy máu. Chỗ được khâu giờ đã nứt toác. Nàng chỉ hi vọng mình có thể nhanh chóng được giải thoát khỏi nỗi ô nhục này, nhanh chóng chết đi! Hơi thở hổn hển kia sắp tới lúc hưng phấn nhất, tên thợ săn bắt đầu phát ra những âm thanh ngây ngất.

Một bóng áo trắng bổ tới! Hai người nhanh chóng cuốn lấy nhau. Đây là một loại vật lộn nguyên thủy nhất, hai người lăn lộn trên đất, không biết được rốt cuộc ai đang chiếm thế thượng phong, chỉ biết con dao trong tay tên thợ săn điên cuồng chém tới nhưng trước sau không hề chém trúng Mộ Dung Vô Phong, chỉ chém lên mặt đất đến tóe lửa.

Rất nhanh, tên thợ săn đã áp đè được Mộ Dung Vô Phong xuống đất, con dao bổ củi hung bạo chém xuống! “Phập” một tiếng, vai của Mộ Dung Vô Phong đã trúng một dao! Máu tươi phun ra lênh láng. Tên thợ săn đắc ý cười độc ác, nâng dao lên, một lần nữa chém xuống đầu Mộ Dung Vô Phong! Đột nhiên, một ngón tay thanh mảnh nhanh như chớp điểm vào yếu huyệt trí mạng của hắn! Mộ Dung Vô Phong không có nội lực, cũng không biết võ công nhưng chàng là thần y.

Cho nên chàng mới có thể dễ dàng không phí chút sức mà phong bế huyệt đạo của một người, so với bất kỳ kẻ nào luyện võ công còn hiệu quả hơn. “Keng” con dao bổ củi rơi xuống đất. Người vẫn giãy giụa. Mộ Dung Vô Phong vùng dậy, cầm cao dao lên, không hề do dự chém xuống đầu hắn. Tựa như bị ma nhập, chàng vẫn cứ chém xuống, chém đến khi Hà Y ở bên cạnh gọi: “Vô Phong, dừng tay… hắn… hắn chết rồi!”

Chàng quay đầu, bò đến bên nàng. Thần sắc phẫn nộ gần như điên cuồng! Khuôn mặt vừa thống khổ vừa dúm dó. “Ta không sao… hắn chưa… chưa làm gì ta…”, nàng bình tĩnh nhìn chàng, thân thể lõa lồ run lẩy bẩy trong gió lạnh. “Sao không gọi ta?”, hai mắt chàng nhìn chằm chằm vào mắt nàng, ánh mắt sắc nhọn như muốn moi linh hồn của nàng ra.

Nhưng giọng của chàng vẫn rất kiềm chế, lạnh lùng vô tình, giống như dáng vẻ mỉa mai chế giễu buổi đầu tiên họ gặp nhau. Nàng không nói gì, chỉ bình tĩnh nhìn chàng. “Nàng không nói, vậy để ta nói”, chàng nắm chặt lấy tay nàng, hung hăng gào lên: “Bởi vì ta là kẻ tàn phế, không bảo vệ nổi nàng, đúng không?”.

Trên vai chàng máu đỏ lòm một mảng. Mắt nàng đẫm lệ. Chàng lấy chăn phủ lên người nàng, quăng con dao xuống đất, ngồi lên xe lăn xông ra ngoài cửa. Còn nàng, nhục nhã, tủi hổ, phẫn nộ, lo lắng mà ngất đi. Tân gia trang.

Tân đại nương dậy rất sớm, có thể nói đại nương là người dậy sớm nhất thôn. Khói bếp thổi cơm sáng trong thôn còn chưa bốc lên, Tân đại nương đã hấp đến lồng màn thầu thứ ba. Tân đại nương là một quả phụ cao tuổi, gia đình con trai mấy năm nay đã vào thành bên kia núi mưu sinh, mỗi năm quay về được một lần. Bà thì dựa vào việc bán màn thầu với chút tiền tích lũy mà nuôi thân.

Hằng sớm bà đều hấp năm lồng màn thầu, đem đến chợ bán. Tân gia trang tuy nhỏ, nhưng trong vòng vài trăm dặm vùng núi quanh đây cũng tính là thôn trang lớn nhất, cứ ba ngày là có một phiên chợ, người mấy chục dặm gần đây đều đem đồ đến mua bán. Người vùng núi cần lao, chủ yếu lấy việc săn bắn làm kế sinh nhai.

Mấy năm gần đây trong núi này có nhiều chồn, nhiều cáo, mà báo cũng nhiều, hấp dẫn không ít thương nhân buôn da thú đến thu mua. Từ đó đến nay, trong thôn dần dần có người bên ngoài tới ở. Trong thôn không có khách điếm, người bên ngoài tới cũng gõ bừa cửa các nhà. Người vùng núi lương thiện, hiếu khách, cũng hiếu kỳ, thêm vào đó người bên ngoài tới cũng chi tiêu rộng rãi cho nên mọi người đều thích người bên ngoài.

Tân đại nương đang thu lồng màn thầu vừa hấp xong thì nghe thấy tiếng gõ cửa. Đó là một tiếng gõ cửa rất nhỏ rất lịch sự, tựa như sợ làm phiền người khác nhưng lại không thể không gõ. Cho nên gõ rất lâu rồi, Tân đại nương mới phân biệt được nó với tiếng lách cách của củi cháy trong bếp. Bà mở cửa, thấy phía trước có một chiếc xe ngựa bụi bặm bùn đất đậu lại, một thanh niên áo trắng cực kỳ anh tuấn ngồi trên một cái ghế có hai bánh xe gỗ, trong lòng ôm một cô gái sắc mặt vàng vọt cũng mặc áo trắng nhưng hai mắt đang khép chặt, rõ ràng đang hôn mê bất tỉnh. Rất ít người vùng núi lớn lên mà đẹp đẽ, mọi người đều phải sống một cuộc sống vất vả, răng vàng, mắt mờ, đầu thì lở loét, thân thể cũng do nhiều năm vất vả mà còng đi.

Còn người thanh niên áo trắng này anh tuấn tới mức khiến người khác ngưỡng mộ, sạch sẽ tới mức khiến người ta hâm mộ, thậm chí đến cả đầu móng tay cũng sạch bong không vết bẩn. Chiếc xe lăn của chàng tuy đã đi qua một đoạn bùn lầy nhưng nhờ chế tác tinh xảo mà không vấy bẩn lên y phục trắng như tuyết chút nào. Khuôn mặt của cả hai đều nhợt nhạt tới mức đáng sợ nhưng nụ cười nhẹ của chàng thanh niên vẫn cực kỳ mê hồn.

Đôi mắt chàng vốn lạnh lùng nhưng khi cười lại toát ra ánh sáng, ấm áp tựa như tiết xuân. Không đợi chàng thanh niên mở miệng, Tân đại nương đã cười nói: “Quý khách tới tá túc phải không?”. Thanh niên áo trắng gật đầu, nói: “Không biết…”. “Có, có, phòng con trai lão ở kế bên, có nhà bếp riêng, may là còn sạch sẽ. Lão sẽ lập tức thu dọn giúp công tử, qua một lát là có thể ở được rồi”, tựa như biết họ muốn hỏi cái gì, lại sợ khách đi mất, Tân đại nương nhanh nhảu đáp.

“Được như thế thì rất cảm tạ. Quý danh của đại nương là?” “Lão họ Tân, nên xưng hô với công tử thế nào?” Thanh niên áo trắng chính là Mộ Dung Vô Phong, chàng ngập ngừng một lát rồi nói: “Tôi họ Ngô. Vị này là…”, chàng nhìn vào cô gái trong lòng mình, có chút khó xử, tựa như không biết nên giới thiệu nàng thế nào. Tân đại nương cười nói: “Nếu như hai vị muốn ở riêng, lão có thể ở cùng với vị cô nương này. Bệnh của cô ấy có vẻ không nhẹ, lão đi nhóm lò sưởi đây”. Mộ Dung Vô Phong nghĩ một chút rồi lắp bắp nói: “Chúng tôi… ở cùng với nhau”.

“Vậy cô ấy chính là thê tử của công tử rồi”, Tân đại nương chăm chú nhìn chàng. Khuôn mặt chàng đỏ lên một chút, một lúc sau nói: “Chân của tôi không được thuận tiện, liệu có thể…”, chàng nhìn thanh chắn cửa dưới chân. “Việc này dễ thôi”, Tân đại nương thoắt cái đã lấy từ trong phòng ra một con dao chặt củi, chặt hai thanh chắn cửa phòng đi. Mộ Dung Vô Phong lăn bánh xe đi vào phòng khách, đặt cô gái nằm trong lòng lên giường rồi phủ chăn đắp cẩn thận cho nàng. Tân đại nương lấy cho chàng một tách trà nóng, hai cái màn thầu.

Chàng khách khí tiếp lấy, nói: “Đa tạ”. Dáng vẻ ăn màn thầu của chàng vẫn rất lịch lãm, dáng vẻ uống trà cũng lịch lãm. Từ trước tới giờ Tân đại nương chưa từng thấy ai từng cử chỉ, hành vi đều lịch lãm đến thế. “Đại nương, quanh đây có tiệm thuốc nào không?”, Mộ Dung Vô Phong chợt hỏi. “Có đấy, mỗi tội không lớn.

Đại phu là từ bên ngoài mời tới, họ Lưu, y thuật rất giỏi. Cứ cách chín ngày mới tới một lần. Đến lúc ấy người mấy chục dặm quanh đây lại kéo tới khám bệnh. Lúc ông ta chưa tới, sẽ do đồ đệ tọa đường, trình độ kém hơn một chút. Các vị đến vừa khéo, hôm nay ông ta đang ở đây, có cần lão đưa các vị đi không?” Mộ Dung Vô Phong cười nhạt, nói:

“Không cần đi khám bệnh, tôi chỉ muốn lấy vài vị thuốc mà thôi”. Sau khi cho thêm củi, an bài ổn thỏa mọi việc, hai người cùng tới trước tiệm thuốc. Còn chưa thăm bệnh kê thuốc, người mua thuốc đương nhiên rất ít. Tân đại nương đưa Mộ Dung Vô Phong tới bên quầy thuốc, gọi người: “A Thủy, cha cháu có ở đây không?”, thôn nhỏ, mọi người đều quen nhau.

A Thủy là một thiếu niên mười sáu, mười bảy tuổi khỏe mạnh, nhà A Thủy chính là một trong vài nhà biết chữ trong thôn. Cha của A Thủy đương nhiên chính là ông chủ tiệm thuốc. “Ai cha, Tân đại nương, bà tới đây làm gì? Sao? Thấy chỗ chúng tôi đông người, mang màn thầu đến bán hả?”, một người trung niên béo tốt từ trong bước ra, nhiệt tình chào hỏi Tân đại nương, đồng thời đưa mắt đánh giá Mộ Dung Vô Phong.

Người miền núi hiếu kỳ thì cũng thôi, cha của A Thủy là người duy nhất trong thôn từng đi ra bên ngoài mở rộng tầm mắt cũng không nén được mà khâm phục khí chất thanh đạm tao nhã như hoa cúc của chàng. Mộ Dung Vô Phong im lặng nghe hai người chào hỏi, đợi cho tới khi họ nói xong. Tân đại nương nói: “Vị Ngô công tử này là khách mới tới nhà lão, nương tử của công tử không được khỏe, muốn tìm Tiêu lão bản ông bốc ít thuốc”.

Tiêu lão bản cười hà hà, nói: “Mọi người tới hôm nay thật khéo, Lưu đại phu vừa mới tới, đang uống trà trong nhà tôi. Ngô phu nhân ở nơi nào, mời Lưu đại phu tới khám lại chẳng tốt hơn sao?”. Mộ Dung Vô Phong khẽ ho vài tiếng, sắc mặt có chút tái đi. Tiêu lão bản thầm nhủ, chớ nói vợ ngươi, bản thân ngươi xem ra cũng đang bệnh tật. Mộ Dung Vô Phong khẽ nói: “Đa tạ, hà tất phải như thế. Phương thuốc tôi nhớ rõ đây rồi”.

“A Thủy, lại đây bốc thuốc”, Tiêu lão bản hắng giọng nói. “Làm phiền rồi, tôi muốn Đương Quy, Trạch Tả mỗi thứ năm tiền; Xuyên Khung, Hồng Hoa, Đào Nhân, Đan Bì mỗi thứ ba tiền; Đỗ Trọng một tiền. Mười gói như thế. Xin hỏi có Thất Li Tán không?” Tiêu lão bản nói: “Thất li tán… loại thuốc sẵn quý như thế tiệm nhỏ không có”. Mộ Dung Vô Phong cười nói: “Thuốc sẵn không có cũng không vội, giờ có thể pha chế.

Xin lấy cho tôi một tiền hai xu Chu Sa, Xạ Hương một xu hai li, Mai Hoa Băng Phiến một xu hai li, Hương Trầm một tiền năm xu, Hồng Hoa một tiền năm xu, Minh Mạt Dược một tiền năm xu, Huyết Kiệt một lượng, trà Phấn Khẩu Nhi một tiền bốn xu. Sau khi nghiền ra, chiếu theo số lượng trên chế thành mười phần”, chàng nói rất chậm, A Thủy chân tay cũng nhanh nhẹn, lấy ra một tờ giấy, bốc thuốc nhanh như bay.

Mộ Dung Vô Phong lặng yên nhìn A Thủy, chỉ hai vị thuốc bên trong bảo: “Hai vị này… không đúng. Đây không phải Tô Mộc, đây không phải Huyết Kiệt”, A Thủy lè lưỡi, vội vàng đi đổi. Tiêu lão bản cười nói: “Xem ra hiểu biết của công tử đối với dược liệu thật không ít”. Mộ Dung Vô Phong cười: “Bản thân tôi cũng thường đổ bệnh, cho nên hay tiếp xúc với dược liệu”. Tiêu lão bản gẩy bàn tính, nói: “Tổng cộng hai mươi mốt lượng bạc”.

Mộ Dung Vô Phong lấy trong người ra một tờ ngân phiếu, đưa sang nói: “Đây là năm mươi lượng bạc”. Tiêu lão bản cười, không nhận mà nói: “Sơn nhân không dùng ngân phiếu, chúng tôi chỉ thu bạc trắng”. Mộ Dung Vô Phong hơi ngây người, thoáng nghĩ rồi nói: “Chỗ các ông đây có chỗ nào đổi ngân phiếu không?”. “Không có.

Ngân phiếu là thứ người trong thành dùng. Ở đây không ai tin ngân phiếu”, Tiêu lão bản nói. Mộ Dung Vô Phong nói: “Xin lỗi, tôi không mang bạc trắng, đến một văn tiền cũng không có. Liệu có thể…”. “Bản tiệm trước giờ không ghi nợ”, thấy người này lấy một đống thuốc quý cuối cùng lại không có bạc, thuốc thì đã lẫn lộn vào nhau, nghiền thành bột, trong lòng Tiêu lão bản thật không hề cao hứng. Tân đại nương thấy dáng vẻ thất vọng của Mộ Dung Vô Phong bèn nói: “Công tử, thôn chúng tôi nhỏ, trước giờ chưa có ai được thấy qua ngân phiếu, cũng không phân biệt nổi thật giả, hay là chỗ lão đây còn ba mươi văn tiền, trước tiên mua mấy vị đơn giản, gom lại dùng được không?”. Tân đại nương bán màn thầu, một ngày cùng lắm là thu được mười, hai mươi văn tiền, đối với bà mà nói, ba mươi văn tiền quả thực là một khoản không nhỏ.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Đa tạ. Có điều liệu có thể như thế này không? Tiêu lão bản. Thuốc này tôi đem đi trước, coi như là tôi nợ, rồi tôi sẽ đến đây làm giúp ông mấy ngày đem tiền ấy trả ông?”. Tiêu lão bản khinh thường nói: “Chỗ tôi không thiếu người”. Mộ Dung Vô Phong nói: “Ông mời thầy thuốc nơi khác tới, tiền khám, tiền đi lại, tiền chiêu đãi hẳn cũng không nhỏ? Nếu như ông để tôi, tôi chỉ lấy tiền khám, các loại phí khác đều miễn hết. Tôi còn có thể ngày nào cũng tới, không cần bắt bệnh nhân phải đợi chín ngày”. “Cậu cũng là đại phu?”,

Tiêu lão bản nhìn chàng đánh giá. Người này có lẽ điên rồi, mặt mày thì xanh xao, hai chân tàn phế ừ thì cũng thôi đi, lại còn luôn ho khan. Đến bệnh của mình còn không chữa nổi thì bệnh nhân nào dám đến xin chữa bệnh? Mộ Dung Vô Phong gật đầu. “Hay là thế này, hôm nay cậu với Lưu đại phu cùng khám bệnh, nếu thực sự cậu có bệnh nhân, tôi sẽ mời cậu. Có điều, phí khám bệnh chỉ có thể bằng một nửa Lưu đại phu.

Người ta là danh y của trấn lớn, tuổi cao, kinh nghiệm nhiều còn công tử cậu…” “Tiền khám bệnh của tôi một xu cũng không thể ít hơn ông ta”, Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng nói: “Ông chủ là người làm ăn, đương nhiên phải biết hàng nào giá nấy”. “Công tử…”, Tiêu lão bản líu lưỡi, người này rõ ràng tới xin khất nợ, vậy mà còn chưng ra bộ dạng chắc giá không đổi. “E hèm”, Lưu đại phu từ trong nội đường bước ra, vừa vuốt râu vừa cầm bình tử sa trong tay nói: “Tiêu lão bản, đến giờ rồi, tôi bắt đầu khám bệnh đây”.

Mộ Dung Vô Phong lăn xe tới, chắp tay nói: “Lưu đại phu, tôi họ Ngô, là đại phu Tiêu lão bản mới mời tới. Hôm nay bệnh nhân nhiều, chúng ta cùng chuẩn bệnh, đến lúc ấy vẫn xin được chỉ giáo”. Tiêu lão bản ngầm thấy quái dị.

Người áo trắng này vốn ít nói, dáng vẻ cũng rất văn nhã, nhưng cứ khi nói đến tiền thì miệng lưỡi ép người ta, nhất quyết không chịu thiệt.

Lưu đại phu đi ra vừa lúc nghe thấy chàng nói phí khám bệnh không kém một xu, trong lòng không được vui, nhìn bộ dạng yếu ớt hư nhược của chàng lại càng không tiêu, bèn hừ lạnh một tiếng, khinh khỉnh nói: “Người trẻ tuổi thường ngông cuồng, sư phụ ngươi là ai?”. Mộ Dung Vô Phong thấy vẻ khinh thường của lão, thần sắc càng lạnh lùng: “Gia sư sớm đã qua đời, tên tuổi không nổi, không nhắc tới cũng được”. Lưu đại phu nói: “Được, mời”.
Bình Luận (0)
Comment