Khi vừa
xuống ngựa, đập vào mắt trước tiên là tấm biển hiệu “Thệ Thúy trà hiên” đượm
màu cổ xưa.
Bốn chữ
này được viết theo lối triện thể cong cong mềm mại, không phải người có học có
lẽ sẽ không nhận ra nổi tất cả nếu nhìn lần đầu tiên.
“Không
biết huynh từng tới nơi này chưa? Nghe nói trên phố có tới mười mấy trà quán,
đáng tiếc muội chỉ biết mỗi chỗ này, không biết đã phải là nơi tốt nhất chưa
nữa, tuy cũng mới chỉ là lần thứ hai nàng tới đây, Tô Phong Nghi đã mở cửa, lão
luyện đi trước dẫn đường, bộ dạng cứ như khách quen chính hiệu.
Đường
Hành vội gật đầu: “Con mắt của muội quả không sai. Đây chính là nơi huynh thích
nhất. Trà ngon, bánh ngon, yên tĩnh, bố trí phòng ốc cũng cực kỳ trang nhã,
nghe nói chủ nhân nơi này ngoài trà nghệ còn là một nhà môi giới đồ cổ”.
“Huynh
nói Điền tam gia sao? Muội đã gặp rồi”, Tô Phong Nghi lãnh đạm nói, cứ bàn tới
nghề ruột của mình, trên mặt nàng thoắt cái đã lộ ra vẻ cao ngạo.
“Nói
trước đã, ta trả tiền”, Đường Hành thấy nàng vận bộ đồ giản dị, chiếc váy xòe
vải thô may vụng là loại rẻ nhất bán trong các tiệm trên phố, trên người chẳng
có lấy một món trang sức, hắn không khỏi thấy buồn thay cho nàng, khẩu khí
không tự chủ được mà thêm mấy phần quan tâm: “Nhưng cứ xem như muội mời”.
Hắn sợ
Tô Phong Nghi không biết tuy cái Thệ Thủy trà hiên này nhìn không bắt mắt nhưng
kỳ thực là trà quán giá cả đắt đỏ nhất trong thành. Một chén cam lộ nóng thêm
hai miếng bánh dứa đã đòi tới hai lượng bạc, tương đương với tiền ăn cả tháng
trời của một gia đình bình thường. Huống chi mấy cô gái Đường Hành giao thiệp
đều là hạng động một tí là sư tử hống, Tô Phong Nghi lại đòi mời khách, riêng
cái phần tâm ý này thôi đã khiến hắn cảm thấy rất vui nhưng lại thêm phần bất
an, làm gì dám hy vọng nàng thực sự bỏ tiền.
“Không,
không, không, muội mời, đương nhiên muội trả tiền”, Tô Phong Nghi không để tâm
tới đề nghị ấy, lắc đầu như trống lắc: “Muội có việc muốn nhờ huynh giúp”.
Đường
Hành cười: “Nhờ ta giúp muội đánh nhau hả? Ai đắc tội muội, nói nghe xem nào”.
“Còn
rắc rối hơn thế nhiều. Cho nên mong huynh chớ có khách khí. Cái nhân tình này
một lần còn lâu mới đủ, nói thật, bây giờ muội đã cảm thấy có chút xấu hổ rồi”,
tuy là nói vậy, trên mặt nàng đến nửa cái bóng của sự xấu hổ cũng chẳng có.
“Muội
nói thế làm ta bắt đầu cảm thấy hơi căng thẳng rồi”, Đường Hành nửa đùa nửa
thật, thư thả nói.
Hai
người tìm một chỗ kín đáo, gọi trà.
“Nói
đi, nhờ ta làm gì?”
“Muốn
mượn một thứ trên người huynh dùng một lần.”
Đường
Hành ngó xuống y phục của bản thân.
Hắn cho
rằng trên người mình thứ quý giá nhất là bộ y phục với mái tóc giả trên đầu,
hai thứ này đều tốn của hắn rất nhiều tâm trí và tiền bạc. Nhưng hai thứ ấy rõ
ràng Tô Phong Nghi sẽ chẳng mượn, bởi bất kể là thể hình hay hình dạng mái đầu,
hai người đều khác xa nhau. Cảm thấy yên tâm, Đường Hành bèn hỏi: “Nói đi, muội
muốn mượn cái gì?”.
“Ghé
tai qua đây, muội nói nhỏ cho huynh.”
Hắn
nghếch đầu qua, Tô Phong Nghi ghé bên tai hắn thì thầm một
câu.
Nàng
chưa nói hết, chỉ nghe “phụt” một tiếng, ngụm trà trong miệng Đường Hành bắn
ra, mặt đỏ lựng tới tận mang tai: “Cái gì? Muội nói cái gì?”.
“Thật
ra đối với huynh, chuyện này cũng chẳng có gì phiền phức lắm, đúng không?”
“Muội
điên rồi! Muội vẫn là một tiểu nha đầu!”
“Chúng
ta bằng tuổi, huynh chỉ hơn muội có mấy tháng, phải không?”
“Nhưng
mà…”
“Muội
biết chuyện này đúng là làm khó huynh”, Tô Phong Nghi khổ sở nói: “Huynh có thể
giúp muội lần này được không?”.
“Xin
lỗi, việc này ta không giúp được”, Đường Hành vừa lắc đầu vừa thở dài: “Hôm kia
gặp một vị lão thái gia còn than thở với ta, nói rằng thói đời ngày một đi
xuống, lòng người không nghiêm chỉnh… thật không ngờ mới thoáng cái đã ứng lên
người muội”.
“Việc
này thì có liên quan gì tới nhân tâm với lại thói đời?”, Tô Phong Nghi hai tay
chống cằm, đôi mắt mở to, dáng vẻ thật ngây thơ vô tội, chốc chốc còn chớp chớp
mắt, thủ thỉ: “A Hành, huynh vẫn là trai tân hả?”.
“Đương
nhiên!”
Trên
mặt Tô Phong Nghi lộ ra vẻ thất vọng: “Nói như
vậy, huynh không có kinh nghiệm…”.
“Hoàn
toàn không, muội tìm người khác đi”, Đường Hành lập tức nói: “Nếu thực là không
tìm được, ta sẽ tìm giúp muội”.
“Huynh
cho rằng muội là một nữ nhân tùy tiện sao?” Tô Phong Nghi véo vào cổ tay Đường
Hành một cái thật mạnh: “Tìm huynh là vì tín nhiệm huynh”.
“Chớ,
chớ, chớ, ngàn vạn lần chớ có tìm ta. Ta làm không nổi, Tử Hân mà biết sẽ giết
ta mất.”
“Chúng
ta không nói, huynh ấy sẽ không biết đâu.”
“Không,
không, không, huynh ấy sẽ biết, huynh ấy là đại phu”.
“Muội
chỉ cần một lần.”
“Một
lần cũng không.”
“Xem
như muội cầu xin huynh, được không?”, giọng nàng vừa nhẹ nhàng, mềm mại lại
ngọt ngào, nũng nịu cứ như miếng bánh dứa trên đĩa vậy: “Chuyện này thật sự rất
quan trọng đối với muội, chỉ cần huynh nhận lời muội, lần sau bất kể huynh có
muốn muội làm gì, dù có bảo muội nhảy vào nước sôi lửa bỏng muội cũng không từ,
nếu mà nhíu mày, muội không phải là Tô Phong Nghi nữa”.
“Phong
Nghi, muội nhất thời nóng đầu rồi. Có điều, đối với ta mà nói”, Đường Hành nhìn
chăm chăm vào mắt nàng, nhấn từng chữ: “Chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết là
chuyện lớn”.
“Đừng
có nghiêm túc thế chứ, lão huynh”.
“Ta nói
thật đấy”.
Tô
Phong Nghi kinh ngạc nhìn hắn, không hiểu ý tứ của hắn.
Đường
Hành đành phải nhỏ giọng giải thích: “Ta không muốn làm loại chuyện đó bởi vì
ta không muốn cảm thấy mình là nam nhân”.
Sững
người hồi lâu, Tô Phong Nghi hỏi: “Đây chỉ là một chuyện làm rồi thì thôi. Sao
huynh cứ phải nghĩ tới nam nữ? Việc này thì có liên quan gì tới việc là nam hay
nữ?”.
“Đương
nhiên có liên quan. Đấy là việc một nam nhân làm với một nữ nhân.”
“Huynh
quên mất câu lúc nãy huynh thức tỉnh muội rồi sao.”
“Ta có
thức tỉnh gì muội à?”
“Huynh
hỏi muội ‘Ở đây có sói’ hay là ‘Ở kia có sói’. Trên đời này vốn không có ‘ở
đây’ với ‘ở kia’, ‘đây’ với ‘kia’ chỉ có liên quan tới ý nghĩ thôi. Cùng lẽ ấy,
trên đời cũng không có ‘nam’ và ‘nữ’, chỉ có hai người chúng ta”, Tô Phong Nghi
ra sức dỗ dành: “Sao huynh cứ phải nghĩ nhiều như thế?”.
Đường
Hành nhìn nàng một cách kỳ dị: “Nhưng mà, nếu đã là như thế, tại sao lại có
nhiều người ghét ta như vậy? Ta đâu có chọc ghẹo ai đâu”.
“Muội
đâu có ghét huynh”, Tô Phong Nghi nói: “Muội thích huynh. Khinh Thiền cũng
thích huynh đấy thôi! Muội với Khinh Thiền cũng đâu giống kẻ ngốc, đúng không?”
Đường
Hành không lên tiếng.
“Còn
nữa, tóc huynh cần, muội bao tất. Mỗi khi tóc muội dài đủ một thước, muội sẽ
cắt tặng huynh, được không?”
“…”
“A
Hành, huynh nói đi, rốt cuộc huynh có nhận lời giúp muội không?”
Đường
Hành vẫn lắc đầu như cũ: “Ta là tên bại hoại bị Đường môn đuổi đi, từng vì tội
‘Không giữ tiết hạnh’ mà bị bắt vào Hình đường. Các trưởng lão muốn hỏi tội ăn
mặc quái đản của ta, phụ thân ta lại chính là đường chủ Hình đường. Người phản
lại tác phong thường ngày, dốc hết miệng lưỡi cãi tội cho ta… Ta vốn nhất mực
cho rằng phụ thân là một người thật thà trung hậu, không ngờ người cũng rất
giỏi giảo biện, chẳng những phủ nhận sạch sẽ, lại còn dẫn ra gia pháp các đời, cứng
rắn dìm bẹp cơn dấy binh hỏi tội của các trưởng lão. Nhưng ta biết sâu thẳm
trong lòng người luôn không hiểu tại sao ta phải như thế này, luôn hy vọng ta
có thể là một người bình thường”, giọng Đường Hành hơi run: “Nhưng mà ta không
làm được, ta không sửa được… Ta không xứng là con trai người! Có lúc ta thật sự
hy vọng người sẽ mắng chửi ta, nhưng người chẳng nói gì. Bất kể người trong tộc
có chê bai trách móc trước mặt người thế nào, phụ thân cũng chưa từng trách ta
một câu, làm như không biết chuyện gì.
“Bởi
thế huynh rời khỏi Đường môn, rời khỏi nhà. Một mình sống ở thành trấn khác?”
Đường
Hành gật đầu.
Tô
Phong Nghi nhìn hắn cảm thông, dịu dàng nói: “Phụ thân huynh không trách huynh
là bởi ông ấy yêu thương huynh. Nếu đến cả những người thân thích gần gũi nhất
với huynh cũng nhìn huynh như người đời, chẳng phải huynh không còn chốn dung
thân sao?”.
Đường
Hành từ tốn nhấp một ngụm trà, nói: “Có lẽ người làm được thế đã rất không dễ
dàng. Nhưng mà đối với ta, im lặng mới chính là sự đả kích lớn nhất”.
Nàng
thừa nhận lời Đường Hành là có đạo lý, có những lúc, im lặng cũng là một dạng
bạo lực.
“Đừng
nghĩ thế, cha huynh không đánh huynh vì chuyện đó đã là không tệ rồi. Người đời
trước tác phong cổ hủ, những thứ có thể lý giải là có hạn”, nói rồi nàng vỗ vỗ
vai hắn, tiếp lời: “Có điều muội quá ích kỷ rồi, chỉ nghĩ cho bản thân, không
nghĩ tới cảm nhận của huynh. Chỉ là muội… có chút sợ hãi. Mỗi lần muội ở cùng
với Tử Hân, bắt đầu rõ ràng rất tốt, kết quả lại toàn là cãi cọ. Muội chỉ hy
vọng lần này bọn muội có thế tốt đẹp từ đầu tới cuối một lần… Yên tâm đi, nếu
huynh đã không muốn, muội sẽ không ép huynh… Chuyện này cứ coi như muội chưa
từng nhắc tới. Uống trà, uống trà đi, vẫn là muội mời”.
“Sao
muội cùng ta… thì không sợ?”, Đường Hành nhìn nàng dò hỏi.
“Bởi vì
huynh đặc biệt.”
“Muội
ám chỉ phương diện nào?”
“Huynh
có tinh thần phục vụ”, Tô Phong Nghi nói: “Điểm này là cực kỳ hiếm có”.
“Hiểu
rồi.”
Tô
Phong Nghi cầm một miếng bánh dứa bỏ vào lòng bàn tay, nhấp trà rồi bẻ từng
mẩu, từng mẩu ăn. Qua một lúc lại cúi đầu thăm dò Đường Hành, thấy hắn tâm sự
trùng trùng, buồn bã không vui liền lấy khuỷu tay huých huých hắn, hỏi: “Này,
làm ăn không thành nhưng quan hệ còn đó, sao huynh cứ ủ rũ cúi đầu thế?”.
“Phong
Nghi, muội thật sự rất muốn như thế?”, Đường Hành thở dài thườn thượt.
“Ừm”,
Tô Phong Nghi gật đầu thật mạnh.
“Muội
đã nghĩ tới hậu quả chưa?”
“Mọi người
nói mẹ huynh là một đại phu trứ danh, đối với y thuật hẳn huynh cũng biết một
chút”, nàng tỉnh bơ nói: “Huynh nhất định có cách”.
“Ta
chưa từng gặp một nữ nhân nào to gan lớn mật như muội.”
“Huynh
nói vậy tức là huynh định giúp muội?”, nàng thận trọng ướm hỏi.
Đường
Hành cười khổ: “Chí ít ta cũng không nên vì nguyên tắc thứ hai của mình: Vui vẻ
phục vụ nữ nhân”.
Tô
Phong Nghi mừng rỡ: “Thật chứ? Huynh đồng ý rồi sao? Tốt quá rồi! Sau khi xong,
muội nhất định sẽ cảm ơn huynh chu đáo. Khách điếm không tiện, huynh thấy ngôi
miếu nọ thế nào? Nơi đấy rất hẻo lánh. Chiều mai huynh rảnh không?”.
Mặt
Đường Hành lại đỏ lên: “Vội thế sao?… Muội không nghĩ thêm đi đã? Ta phải nói
với muội trước, ta thật sự không rành lắm”.
“Vậy
thì tìm sách học hỏi chút đi!”
“Nguời
nhờ giúp đỡ là muội, vậy thì học hỏi cũng nên là việc của muội chứ?”, Đường
Hành liên tục xua tay: “Có điều, nếu muội muốn xem trong Tố
Nữ kinh hay Nhiếp sinhtổng yếu nói thế
nào, ta cũng có thể nghĩ biện pháp…”.
Tuy
trước giờ chưa từng nghe tới tên hai cuốn sách này, Tô Phong Nghi vẫn có thể
đoán ra nội dung của chúng, vội hỏi: “A Hành, huynh nói xem, hai cuốn sách ấy
Tử Hân liệu có đọc qua?”.
Vẻ mặt
của Đường Hành kỳ quái: “Ta không biết… Làm sao ta biết được?”.
Hai
người ngượng nghịu nhìn nhau, người nào người nấy tự cầm lấy lách trà của mình
uống một ngụm.
Tô
Phong Nghi hai tay bưng tách trà, cười nói: “Huynh biết không, trong nghề đồ cổ
cũng có những cao thủ làm giả. Người to gan lớn mật, đồ thời Tam Đại[1],
Tần Hán đều dám làm, lại còn có khả năng làm tới mức hình dạng kích thước không
một chút sai biệt. Ví dụ như đồ tùy táng bằng thanh đồng trên thị trường, loại
có minh văn[2] quý giá hơn nhiều so với
đồ không có minh văn. Bọn họ
có thể mô phỏng minh văn thời Thương, Chu, khắc lên đồ thanh đồng không có minh
văn. Ví dụ như để khiến cho đồ thanh đồng mô phỏng có được màu sắc cổ xưa, bọn
họ sẽ đào một cái hố, cho than hồng, đổ giấm chua, đặt đồ đồng vào, dùng bã
rượu phủ lên rồi lại lấp đất chôn ba ngày, lúc lấy ra liền có được vệt loang
như đồ cổ… “
[1]
Hạ, Thương, Chu, ba triều đại thời cổ của Trung Quốc thường được gọi gộp là Tam
Đại.
[2]
Tức đồ thanh đồng bên trên có khắc chữ.
Tuy
thừa kế tổ nghiệp, là lão bản của bốn tiệm đồ cổ hạng hai trong thành này, hứng
thú của Đường Hành đối với đồ cổ thật ra chỉ dừng ở mức “hiếu kỳ” mà thôi.
Mà
người trong nghề đều biết, hiếu kỳ chỉ là “cảm thấy hứng thú”, “hiểu biết qua
loa”, cũng đồng nghĩa với “chẳng liên quan gì đến mình”, “chẳng muốn nghiên cứu
kỹ”.
Cho nên
“hiếu kỳ” với “quan tâm” thường sẽ quay lưng vào nhau, đường ai nấy đi.
Đường
Hành giương mắt lên, nhạt giọng hỏi: “Vậy ta phải quan tâm tới vấn đề này là
vì…”.
“Kỹ
thuật”, Tô Phong Nghi nói: “Bất kể là làm ngành gì, kỹ thuật đều rất quan
trọng. Xin hỏi, tóc giả của huynh tại sao lại làm được tốt như thế? Bất kể chạy
nhảy như thế nào, cũng không bị rơi ra?”.
“Bởi vì
có một vị bằng hữu chuyên pha chế loại keo dính đặc biệt cho huynh.”
“Còn
nữa, sơn đỏ trên móng tay huynh, tại sao sơn rồi chỉ cần chùi vài cái là đi?”
“Vì vị
bằng hữu nọ còn đưa ta một phương thức phối chế rất hữu hiệu, chuyên dùng để tẩy
rửa màu sơn đỏ trên móng tay.”
“Vị
bằng hữu ấy là…”
“Tử
Hân.”
Tô
Phong Nghi không dám tin vào lỗ tai mình: “Tử Hân? Huynh ấy làm cái đó cho
huynh?”.
“Muội
có muốn dùng thử son huynh ấy phối chế cho ta không?”
Tô
Phong Nghi tức tối nói: “Thảo nào huynh lại thích ở cùng với huynh ấy thế!”
Đường
Hành chìa hai tay ra: “Muội xem, nghề nghiệp gì trên đời trước giờ đều xuất
hiện thành đôi. Có người thích hóa trang và làm mặt nạ, thì sẽ có người thích
làm phấn son và đạo cụ”.
Tô
Phong Nghi bi phẫn: “Đây là tình bạn của hai người à?”.
“Tình
bạn của bọn ta rất thuần khiết.”
Đôi mắt
Tô Phong Nghi đảo khắp lượt, trong đầu chợt nảy ra một ý nghĩ, liền hỏi: “Nếu
hai người đã là bằng hữu tốt, huynh có biết Tử Hân kỵ nhất là chuyện gì
không?”.
“Biết,
nhưng không nói cho muội.”
Tô
Phong Nghi lại nghẹn ngào: “Đường Hành, cầu xin huynh mà!”.
“Được
rồi”, Đường Hành mềm lòng: “Tử Hân ghét nhất là người khác động vào trượng của
mình”.
Tô
Phong Nghi thất thanh kêu “A” một tiếng, tuyệt vọng hỏi: “Tại sao?”.
“Muội
đã từng nghe chuyện về Tiểu Mi chưa?”
Tim Tô
Phong Nghi đập thình thịch: “Tiểu Mi? Ai là Tiểu Mi?”.
Đường
Hành không trả lời mà hất hất hàm về phía trái, còn đánh mắt ra hiệu.
Tô
Phong Nghi chợt ngửi thấy có mùi như mùi táo chua trong không khí.
Quay
đầu lại, nhận ra người áo trắng đang ngồi ở bàn bên cạnh tự lúc nào.
Người
áo trắng rõ ràng tuổi còn rất trẻ nhưng mái tóc đã bạc phơ.
Vẻ
ngoài của hắn rất sạch sẽ, toàn thân không bám một hạt bụi. Trên bàn có một
tách trà, trà vẫn còn đầy, hơi nóng bốc lên. Người áo trắng trang nhã cắn quả
táo xanh trong tay, xem ra hắn đã ăn không chỉ một quả, hai hạt táo được nhằn
sạch sẽ trên đĩa bách điểu đặt bên cạnh.
Thẩm
Không Thiền.
Bộ dạng
ăn táo của hắn rất chăm chú, tựa như không hề chú ý tới Đường Hành và Tô Phong
Nghi. Tô Phong Nghi chỉ chỉ cánh cửa, ý bảo Đường Hành nhanh nhanh rời khỏi
đây.
Đúng
lúc ấy, Thẩm Không Thiền đằng hắng một tiếng, cặp mắt liếc tới, quét lên mặt Tô
Phong Nghi sắc như đao.
Đường
Hành nheo mắt, chuyển người tới, bình thản chào hỏi: “Một ngày rồi không gặp,
Thẩm huynh khỏe chứ?”.
“Đường
công tử đúng là mau quên, hôm qua không phải huynh hỏi ta lúc nào có thời gian
tới quán uống tách trà sao?”, Thẩm Không Thiền thu ánh mắt lại, nhìn vào hạt
táo trong tay mình, thản nhiên nói: “Vừa hay, hôm nay ta rảnh rỗi cho nên tới
đây.”
Đương
nhiên làm gì có chuyện vừa khéo như thế! Tô Phong Nghi thầm nghĩ. Thuật truy
đuổi của Thẩm Không Thiền trên giang hồ đại danh tuyệt đỉnh. Không phải Tam Hòa
tiêu cục chưa từng để mất tiêu, chỉ là lần nào cũng được hắn tìm được đem về.
“Xin
thứ lỗi, xin thứ lỗi, xem tôi đãng trí chưa kìa!” Đường Hành gọi một thị nữ,
dặn dò: “Phiền cô nương tính tiền trà của vị công tử kia vào tên ta.”
Hắn vốn
là khách quen ở đây, thị nữ châm trà, gật đầu rời đi.
“Nếu
Thẩm huynh đã thích vị táo, hay là thử trà táo ở đây xem”. Đường Hành thành
thật kiến nghị: “Có một loại trà gọi là ‘Thanh Hoa Quả trà’, chính là dùng táo,
sơn trà và mật ong pha chế thành mùi vị chua ngọt cực kỳ ngon miệng”.
Không
biết tại sao, trên mặt Thẩm Không Thiền luôn có một thần thái khiến nữ nhân
nhìn vào mà trong lòng xót xa. Hắn vốn là một nam nhân rất anh tuấn, vì cái
thần thái này, trông lại có chút như kẻ mất hồn. Giọng hắn cũng thật dễ nghe,
thâm trầm mà ôn hòa, nếu hắn có thể nói một hai câu đầy ắp tình cảm, ắt sẽ
khiến rất nhiều nữ nhân si mê.
Thẩm
Không Thiền liếc Đường Hành một cái, lại chuyển ánh mắt về ngọn nến ảm đạm trên
bàn mình, tưởng như đang chìm vào một hồi ức ngọt ngào nào đó: “Thê tử ta lúc
mang thai rất hay nôn mửa, không ăn được gì khác ngoại trừ táo xanh. Lúc đó lại
đang mùa đông, ngoài chợ sớm đã không còn hàng. Ta phái người đi tứ xứ tìm mua
mới kiếm được hai sọt từ phương nam đem lên. Mấy tháng ấy nàng ăn vô số táo
xanh nhưng vẫn rất gầy, cả ngày mệt mỏi buồn ngủ”.
Hắn ngơ
ngẩn nhìn về phía trước, ánh mắt miên man, thần thái nghiêm túc, giọng nói đau
buồn.
Không
biết vì sao tự nhiên hắn nhắc tới chuyện này, Đường Hành và Tô Phong Nghi bốn
mắt nhìn nhau, không dám chen lời.
“Lúc ấy
nàng đã mang thai sáu tháng mà vẫn nôn mửa. Mùng Ba Tết, nàng nói muốn về nhà
mẹ thăm hỏi, ta vốn định đi cùng nàng, nhưng vì tiêu cục tạm thời có việc, lại
đang thiếu người, ta đành phải ở lại, nhờ tứ đệ thay mình đưa nàng đi. Nhà
thông gia chỉ cách tiêu cục có hai canh giờ lộ trình, nàng nói sẽ ở đó nghỉ một
đêm, hôm sau là về. Ai ngờ đêm hôm đó bọn họ đưa nàng về. Người nàng trúng một
kiếm, xuyên vào bụng dưới, máu chảy đầm đìa, dùng loại kim sang dược nào cũng
không có tác dụng. Bấy giờ nàng đã bắt đầu hôn mê, đại phu tới nhìn qua đã nói
không cứu nổi. Nàng vật vã trên giường hơn một canh giờ, dáng vẻ đau đớn. Sau
cùng, nàng chợt tỉnh lại, ta biết đó là hồi quang phản chiếu, chỉ có thể ôm
chặt lấy nàng, ôm chặt nàng. Nàng nói…”
Giọng
Thẩm Không Thiền bắt đầu nghẹn ngào: “Nàng nói nàng không xong rồi, nhưng nàng
cảm thấy đứa con vẫn còn sống, đang quẫy đạp trong bụng nàng, hỏi xem ta có
cách gì cứu lấy đứa bé. Ta chỉ đành dỗ dành nàng, bảo là đại phu sắp tới rồi,
nàng không cần lo. Thật ra lúc ấy nàng đã không còn sức mà nói nữa, ta biết ai
cũng không cứu nổi nàng. Nàng một mực nhìn ta, cứ hỏi mãi bao giờ đại phu đến,
cho tới lúc tắt thở, ánh mắt nàng vẫn còn nhìn về phía cửa”.
Nghe
tới đây, Tô Phong Nghi cảm thấy chua xót, nàng bất giác đưa tay quệt mắt, nhìn
Thẩm Không Thiền bằng đôi mắt đẫm lệ.
Hắn
tiếp tục nói: “Ta thề trước mộ nàng, có phải lên trời xuống đất cũng quyết bắt
được hắn, róc xương lột da, báo thù cho nàng. Một tháng sau, quả nhiên ta bắt
được hắn. Ta đày đọa giày vò hắn đủ kiểu, khiến hắn không còn ra hình người…
Tên tiểu tử đó không thẹn là con cháu Quách gia, tính khí cứng cỏi, sống chết
gì cũng không van xin. Nhưng tới sau chót ta vẫn thả hắn. Ha ha, ta đã thả hắn,
không phải bởi mềm lòng, mà là bởi chỉ chết có một lần thì quá dễ dàng cho hắn.
Đối với ta, chí ít hắn phải chết một trăm lần mới giải được mối hận trong lòng!
Không ngờ vì nhất thời mù quáng mà gây thành đại họa. Hắn giết chết ngũ đệ của
ta, khiến mẫu thân ta đau lòng tới sắp phát điên. Bây giờ ta mới biết, hắn sống
trên đời, chính là để giết sạch người của Thẩm gia, từng người, từng người một,
chỉ không biết tiếp theo tới lượt ai!… Nếu như lúc trước ta một kiếm kết liễu
đời hắn, thì đã chẳng có chuyện bi thảm sau này”.
Nói tới
đây ánh mắt hắn đột nhiên lạnh lùng quét qua hai người, Đường Hành thì lạnh
tanh, Tô Phong Nghi lại cảm thấy sau lưng lạnh toát. “Phụ thân của Tô cô nương,
Tô Khánh Phong Tô lão gia là bậc Hàn Lâm thoái hưu, là học giả nức tiếng nghề
kim thạch, bậc bắc đẩu ngành đồ cổ. Tại hạ từng có duyên gặp mặt một lần. Cứ
như ta biết, mười mấy vị huynh đệ của Tô cô nương đều là người đọc sách nho
nhã, chưa từng học võ. Gia thế của Đường huynh, người trong võ lâm ai ai cũng
biết, tất chẳng cần nói, nhưng mấy năm nay Đường môn cũng đang bị nợ nần quấn
lấy, khó giữ được mình, dù là Tam hòa tiêu cục bé nhỏ, các vị cũng còn nợ ba
khoản ngân lượng tới nay chưa trả. Ta hy vọng hai vị đừng xen vào thù hận hai
nhà Thẩm Quách, nếu không hai vị chính là kẻ địch của Thẩm gia. Nếu như hai vị
đồng ý lập tức rời Gia Khánh, Thẩm mỗ xin cung kính tống tiễn, lại tặng thêm lộ
phí. Nếu vẫn còn muốn sớm tối bầu bạn với Quách Khuynh Quỳ, ta chỉ đành nhắc
trước hai vị…”, hắn gõ gõ ngón tay xuống bàn, âm trầm nói: “Nơi đây, thành trấn
này, chính là nơi chôn thây của huynh đệ Quách gia. Ai giúp hắn thì kẻ ấy sẽ
phải chôn cùng hắn. Lời Thẩm mỗ tới dây đã cạn, xin hai vị bảo trọng”.
Nói
xong, hắn cười lạnh một tiếng, đứng dậy phất áo mà đi.
Một cỗ
xe ngựa đứng đợi ngoài cửa, đám thủ hạ cung kính cúi đầu nghênh đón. Thấy hắn,
quản gia Thẩm Quân đứng bên cửa xe, nhanh chân lẹ tay mở cửa cho hắn.
“Lão
gia tới chưa?”, hắn hỏi.
“Vừa
mới tới.”
“Ai
theo hầu?”
“Nhị
gia và lục gia.”
“Tứ gia
vẫn đang trên đường?”, lão tứ Thẩm Khô Thiền cai quản việc làm ăn phía tây,
theo lý thì nên tới rồi mới phải.
Thẩm
Quân chợt cúi đầu, hồi lâu không đáp.
“Xảy ra
chuyện gì?”
“Vừa
mới nhận được tin, tứ gia…”
Lòng
Thẩm Không Thiền trĩu xuống, chỉ cảm thấy choáng voáng, thân thể không kìm được
loạng choạng.
“Tứ gia
giữa đường đã gặp độc thủ.”
Dự cảm
của hắn thường rất linh nghiệm.
Trầm
mặc một lúc, hắn run giọng hỏi: “Lão phu nhân đã biết chưa?”.
Thẩm
Quân gật đầu.
Thẩm
Không Thiền nghiến răng, hỏi tiếp: “Ngươi khẳng định là Quách Khuynh Trúc hạ
thủ?”.
Cừu thù
của Thẩm gia không ít, chẳng phải chỉ có mỗi mình huynh đệ họ Quách.
“Không
chắc là hắn, có điều thủ pháp thì rất giống.”
Hắn
nhíu máy: “Thủ pháp thế nào?”
“Chuyện
này…”, Thẩm Quân ngập ngừng, không dám nói tiếp.
“Nói
đi.”
“Hắn
lấy đi gan của tứ gia,”
…
Trước
giờ bà không thích người khác gọi mình là “lão phu nhân”, bởi bà cho rằng mình
chưa hề già.
Bà là
vợ kế của Thẩm Thái, lúc được gả cho ông ta, bà mới chỉ mười lăm tuổi, bà đã
sinh cho ông ta năm người con, luôn sống cuộc sống sung sướng ít phải lo buồn.
Tuổi già ít thiếp, Thẩm Thái lại càng sủng ái vị phu nhân này. Năm nay bà ta
vừa mới qua đại thọ năm mươi của mình, Thẩm Thái đã tổ chức yến tiệc cho bà,
mời mọc khách khứa. Trong Thẩm phủ một phen náo nhiệt, quà mừng đưa đến nhiều
tới mức nhận không kịp, nhưng đèn lồng đỏ cũng chưa kịp tháo xuống, trong một
tháng bà ta đã mất liền hai đứa con trai.
Bà còn
nhớ cơn đau khủng khiếp như đứt ruột lúc sinh con, cứ như con dao cứa thật sâu
vào máu thịt, xẻ đôi bản thân, nhưng cơn đau ấy lại là niềm vui, bởi vì phần
kia biến thành một sinh mệnh, bước vào thế giới của bà.
Tất cả
con cái của bà, bất kể là có phải do bà thân sinh hay không đều rất cung kính,
hiếu thuận với bà. Trong cái đại gia đình này, Thẩm Thái nắm giữ uy nghiêm
tuyệt đối. Bà còn nhớ lúc mình mới được gả vào phủ Thẩm, trưởng tử Thẩm Huy
Thiền - con trai do nguyên phối phu nhân của Thẩm Thái sinh - thế nào cũng
không chịu gọi bà là mẫu thân, cho nên bị Thẩm Thái đánh một trận rất đau. Sau
khi sinh được bốn đứa con trai, bà đã cho rằng vị trí của mình trong cái nhà
này đã cực kỳ kiên cố, nhưng chính lúc ấy, Thẩm Thái tự dưng lại đề xuất muốn
có một đứa con gái.
Ông ta
nói, con trai của ông ta đã quá nhiều, nhưng con gái lại chẳng có lấy một đứa.
Nếu như bà không sinh cho ông ta một đứa con gái, ông ta sẽ cưới về một thiếp
khác.
Bà ta
là nữ nhân Thẩm Thái sủng ái nhất, tính khí rất khó chiều, tùy hứng, luôn luôn
muốn gì được nấy.
Sau khi
liên tục sinh được bốn người con trai, bà ta từ thân thể đến tinh thần đã hoàn
toàn chán ghét đối với chuyện sinh con đẻ cái. Đương nhiên, loại chán ghét này
không thể nói ra, chỉ có thể để sâu trong lòng. Ngoài mặt bà ta vẫn cứ là một
người mẹ tốt. Thêm vào đó, vì bản thân tự mình giằng co với cái tâm tình không
ổn định kia, bà ta khiến cho chính mình tâm lực kiệt quệ. Bà ta không tin vú
nuôi, không tin người hầu, mỗi một đứa con đều do chính bản thân mình cho bú,
tất cả thời gian của mình đều dành cho con cái. Bà cảm thấy bản thân là công
thần của Thẩm gia, vậy mà Thẩm Thái rõ ràng không để tâm tới công lao của mình.
Bà ta
ngầm ôm hờn giận, không tin bản thân không đẻ được con gái.
Quả
nhiên, bà ta nhanh chóng mang thai, thuận lợi sinh hạ được một cô con gái xinh
đẹp, Thẩm Thái không biết nói sao, đành phải từ bỏ ý định cưới thiếp.
Nhưng
bà ta lại sản sinh ý nghĩ thù địch với đứa con gái này, cho rằng đây không phải
đứa con mình muốn. Càng trớ trêu hơn, Thẩm Thái lại hết lòng yêu thương nâng
niu đứa con gái ấy, thích gì chiều nấy, ngày càng lạnh nhạt với thê tử. Bà ta
rất ghét nữ nhân khác làm nũng trước mặt phu quân mình, cho rằng đấy là quyền
lợi chỉ bản thân bà mới có. Tính tình con gái lại giống như mẹ: cố chấp, tùy
hứng, dám nghĩ dám làm, nói gì làm nấy, còn xa mới bằng mấy đứa con trai ngoan
ngoãn nghe lời, biết đường chiều ý mẫu thân, cho dù có là giả vờ đi chăng nữa.
Bà biết
sự đố kỵ này của mình thật vô căn cứ nhưng đố kỵ là đố kỵ. Bà ta không yêu
thích gì đứa con gái, nhưng vẫn giấu thật sâu tâm sự ấy trong lòng. Bà ta vẫn
theo lệ mua y phục, khăn tay, mua son phấn, không tiếc tiêu tiền lên người con
gái. Bà ta đem châu báu cho con gái, dành tình yêu cho con trai.
Cho tới
một ngày, bà ta nghe được con gái nghiễm nhiên ở cùng với kẻ thù, tâm tình đã
chôn giấu rất lâu cuối cùng cũng bạo phát.
Trên
đời chẳng có ai biết cách đối phó con gái bằng mẫu thân.
Bà ta
dễ dàng lừa con gái về khách điếm, tự tay lột sạch y phục nàng, sai nha hoàn
trói nàng vào cột phòng.
Dưới
ánh nến mờ mờ, da thịt con gái bà mượt mà lấp lánh, còn trên khuôn mặt người mẹ
thì lại khô héo vì đau thương, nếp nhăn đầy trán, đôi mắt thâm sưng, đôi môi
nứt nẻ, lộ ra thần thái suy sụp.
Con gái
đẹp đẽ như hoa như ngọc giống hệt bà hồi trẻ, mạnh mẽ hiếu thắng. Nam nhân theo
đuổi nàng rất nhiều, nàng cũng từng thích mấy người. Lời đồn đại cứ tới tấp
truyền về, người trong nhà, ai cũng biết rõ nàng đã làm không ít chuyện khiến
Thẩm gia mất mặt, chọc cho Thẩm Thái vốn trước nay yêu chiều con gái cũng không
nhịn được mà nổi trận lôi đình. Cả nhà bắt đầu vội vàng đôn đáo tìm hôn phu cho
nàng, chuyện hôn sự chính đang trong lúc gấp rút thu xếp.
“Mày
yêu nó”, bà ta ngửi thấy có mùi dâm đãng trên người nàng: “Đúng không?”.
“Con
không hề!”
“Có
người nhìn thấy hai đứa chúng mày ở cùng nhau, rất thân thiết”, Thẩm thị lạnh
lùng nói: “Trong Như Lai khách điếm ở Hưng Nguyên phủ, bọn mày thậm chí còn ở
chung một phòng”.
Ánh mắt
bà ta như một con dao mổ, hết lần này tới lần khác soi vào bụng nàng, ước lượng
đường nét của nó.
Nàng
hít sâu một hơi, bụng căng mịn như của thiếu nữ.
“Cái gì
khiến cho chúng mày tâm đầu ý hợp thế?”, bà ta sắc giọng bức hỏi: “Là thảm kịch
của cha mẹ mày, hay là cái chết của các huynh mày?”.
“Không
phải! Đều không phải! Con chỉ vì dò la tung tích của Quách Khuynh Trúc”, nàng
quay đầu đi, không dám nhìn vào đôi mắt phẫn nộ của mẫu thân: “Để báo thù cho
tứ ca, ngũ ca. Đây vốn là ý của người, kế hoạch của người, tự người đích thân
sai bảo, lẽ nào người quên rồi?”.
Bà ta
nghe ra được bên trong có ý mỉa mai, lật tay một cái, tát vào mặt con gái: “Ta
chẳng mong gì báo thù rửa hận, mày không ăn cây táo, rào cây sung là đã tạ ơn
trời đất lắm rồi. Trời đất ạ, sao Thẩm gia chúng ta lại lòi ra một đứa con gái
như mày? Sao mày phải ti tiện nhường này? Sao lại phải làm mất mặt cha mày?
Người ta móc một mắt của mày, giết anh ruột mày, mày vẫn muốn gả tới đó làm em
dâu nó? Nam nhân trên đời lẽ nào chết sạch rồi sao?”.
Bà ta
vừa nói, vừa rút ra một cái kéo, bắt đầu gọt tóc con gái. Bà ta vươn mấy ngón
tay gầy héo, thô bạo nắm lấy mái tóc dài của con gái, từng nhát, từng nhát cắt
xuống dứt khoát, mạnh bạo như cắt cuống rốn cho trẻ sơ sinh. Trong lúc ấy, bà
ta không ngừng lẩm bẩm một mình, giống như đang nói chuyện với những đứa con
trai đã chết của mình. Bà ta hoàn toàn quên đi bản thân còn có một đứa con gái,
mà coi đứa con gái ấy là phản đồ gia tộc, là hung thủ sát hại con trai bà. Bất
chợt liếc thấy thái độ lạnh lùng, trơ trơ của con gái, bà ta lập tức coi đó là
một loại phản kháng, nỗi hận trong lòng lại càng được khuấy lên. Người bị trói
trên cột thì một mực ngẩng cao đầu quật cường, không giãy giụa, không van lơn,
cũng không khóc lóc, chỉ mặc kệ bà ta cắt cho tán loạn mái tóc huyền mượt mà
của mình.
Cuối
cùng, bà ta cắt tới mỏi tay rồi, bèn quăng kéo xuống đất, đột nhiên gọi tên
cúng cơm của mấy đứa con trai mà khóc lóc thảm thiết xông ra ngoài.
Nàng
biết mẫu thân là một nữ nhân cảm tính mãnh liệt, bị kích động một chút thì cả
đêm không ngủ được, nước mắt đẫm mặt. Quá nửa thời gian nhàn rỗi của phụ thân
đều dùng để an ủi tâm sự u buồn khó hiểu của mẫu thân. Cho nên bà ta xông ra
ngoài, nhào vào vòng tay phu quân, chỉ sai một nữ tỳ chuyển tới lời dặn dò của
mình.
“Phu
nhân ra lệnh cho tôi nói với tiểu thư, bắt đầu từ bây giờ, tiểu thư nên ngoan
ngoãn thật thà ở trong nhà, không được đi đâu nữa. Phu nhân nói, đây là ý của
lão gia.”
Nàng lỡ
mất một lần thay thuốc, con mắt bị thương lại dấy lên cơn đau nhói buốt. Nàng
nhăn mặt, nhỏ nhẹ nài xin nha hoàn: “Thúy Ngọc, tỷ tỷ tốt, nới dây cho muội một
chút”.
Thúy
Ngọc cắn môi nói: “Tiểu thư… nô tỳ không dám. Đây là phu nhân đặc biệt căn dặn,
tiểu thư nên mau mau nhận sai với người đi thôi”.
“Muội
thấy khát, tỷ lấy cho muội chén trà đi”, Thẩm Khinh Thiền nhẹ giọng nói.
“Vâng”,
Thúy Ngọc đáp một tiếng rồi đi ra.
Nàng
nghe thấy ngoài song có tiếng động nhẹ, ngay sau đó, “soạt” một tiếng, bóng đen
xuyên cửa sổ nhảy vào.
Nàng
biết hắn đã tới.
Bóng
đen rút chủy thủ cắt dây thừng, lấy khăn trải giường cuộn người nàng, ôm nàng
nhảy ra ngoài cửa sổ, phi ngựa chạy mất.
Trên
đường hắn không nói năng gì, chỉ ôm chặt lấy nàng, cảm thấy thân thể nàng run
rẩy không thôi.
Đi được
nửa đường, hắn hỏi nhỏ xem nàng có lạnh không. Nàng đáp không lạnh.
Kế đến,
nàng hỏi hắn định đưa mình tới đâu. Hắn đáp về khách điếm trước.
“Tử Hân
nói vết thương của nàng phải thay thuốc đúng giờ, nếu không sẽ đau không chịu
nổi.”
Nàng
cười khổ, thân thể cuộn vào trong lòng hắn.
Trên
ngực hắn vẫn còn cuốn băng, hơi thở và nhiệt độ cơ thể len qua những lớp vải
băng truyền tới nàng. Trong chốc lát, nàng cảm thấy an toàn và ấm áp tựa như
đứa trẻ thơ trở về vòng tay mẹ. Bọn họ về tới khách điếm, hắn bế nàng về giường
mình, cắm trọng kiếm trên sàn cạnh đầu giường, ngồi bên cạnh thủ vệ cho nàng.
“Khinh
Thiền, lần này không ai có thể mang nàng đi nữa, trừ khi bước qua xác ta.”
Nàng
ngây ra nhìn hắn, mệt mỏi nở nụ cười, không nói năng gì.
Qua một
lúc, nàng nắm lấy tay hắn, nhẹ nhàng hỏi: “Khuynh Quỳ, con của chúng ta, chàng
định đặt tên là gì?”.
Kết quả
của một trường hoan lạc, hai người không ngờ được lại mau có con đến thế. Hai
người cùng lúng túng khó xử, đành cố tỏ ra bộ mặt vui vẻ, nhưng chẳng ai biết
nên làm sao, nên trình bày với người thân thế nào.
“Gọi nó
là ‘Vô Hận’ đi”, nghĩ ngợi một lúc, Quách Khuynh Quỳ cười chua chát, đáp lời.
Nàng
theo thói quen đưa tay vuốt tóc sau đầu,bất chợt ý thức được mái tóc dài của
mình đã mất, bèn nhìn hắn, buồn bã hỏi: “Bộ dạng thiếp khó coi lắm phải
không?”.
Hắn đưa
bàn tay thô ráp, vuốt ve trán nàng, nói với nàng bất kể bộ dạng nàng có thế
nào, hắn vẫn cứ thích nàng. Trong mắt hắn, nàng vĩnh viễn là người con gái mỹ
lệ nhất.
Xa xa
văng vẳng tiếng chuông vọng, đêm đã khuya lắm. Hắn đi gọi Tử Hân tới thay thuốc
cho nàng, nàng rất nhanh chìm vào giấc ngủ ngon.
“Ai cắt
tóc cô ấy thế?”, trước khi đi, Tử Hân hỏi.
“Mẫu
thân nàng.”
“Oa!”,
Tử Hân kinh ngạc nhìn hắn, nhíu mày nghĩ ngợi một chút, rồi nói: “Nếu như cô ấy
cần tóc giả, Đường Hành nhất định có thể giúp được”.
Quách
Khuynh Quỳ nhìn theo bóng lưng chàng, buồn cười nhưng cười không nổi, chỉ cảm
thấy trong miệng chua chua. Bao nhiêu năm đã qua, Tử Hân chẳng hề thay đổi.
Chàng và Đường Hành giống hệt nhau, quan tâm tới chi li tiểu tiết của sự việc
hơn là thực chất của nó. Có điều, sự cảm thán của Quách Khuynh Quỳ rất nhanh đã
biến mất tăm mất dạng, bởi vì Tử Hân vừa ra khỏi cửa đã lại vòng trở vào, cuối
cùng cũng hỏi một vấn đề rất thực tế: “Hai người dự định thế nào?”.
“Ngồi
thuyền đi từ đây xuôi dòng xuống, rất nhanh là tới được Vân Mộng cốc.”
“Lẽ nào
ngươi quên ngày xưa ngươi chính là từ Vân Mộng cốc bỏ đi?”
Tử Hân
hơi ngẩn ra, trong lòng nghĩ nếu bản thân viết gia thư nhờ cậy, với thực lực
của Vân Mộng cốc, sự an toàn của Quách Khuynh Quỳ có đến mười phần chắc chắn.
Nhưng nghĩ lại, cứ trông tác phong truy cùng đuổi tận của Thẩm gia, Vân Mộng
cốc chỉ sợ khó được yên tĩnh. Phụ thân lại chuyên tâm về đường học vấn, trước
này cực kỳ xa lánh giang hồ, Quách Khuynh Quỳ đương nhiên không muồn Vân Mộng
cốc bị cuốn vào trường can qua này, cho nên mới thoái thác như thế. Cũng không
tiện gượng ép, Tử Hân chỉ đành nói: “Đợi ngươi tìm được chỗ an toàn, ta và
Đường Hành sẽ theo hộ tống”, ngưng một chút, chàng lại nói: “Có điều, cứ theo
tình hình trước mắt mà nói, ta vẫn cho rằng Vân Mộng cốc là nơi an toàn nhất”.
Nhắc
tới Vân Mộng cốc, hồi ức như một tiếng chuông ngân xa xôi vọng lại, trên mặt
Quách Khuynh Quỳ hiện lên nụ cười ấm áp: “Mười mấy năm không gặp, không biết Tử
Duyệt thế nào rồi?”.
“Tỷ ấy
thành thân rồi.”
“Thành
thân rồi? Để ta đoán xem… ừm, nhất định là hắn, cái tay người Ba Tư, con trai
thứ hai của Ô tổng quản, Mộ Dung Tế, đúng không?”
Tử Hân
cũng cười, nhưng nụ cười đượm vẻ thê lương: “Sao ngươi biết?”.
“Tên
tiểu tử đó từ nhỏ đã là cái đuôi của Tử Duyệt rồi. Lần đó Tử Duyệt kêu gào đòi
ăn mật ong, hắn bèn lấy gậy trúc khều tổ ong vò vẽ, kết quả là cả lũ ôm đầu
chạy. Chỉ có ngươi chạy không nhanh, vẫn là ta cõng ngươi, hai đứa bị ong đốt
cho đầu sưng như thủ lợn. Hắn thì chẳng sao, qua mấy ngày là lành rồi. Ngươi
thì lại ốm nặng một trận, khiến cho hắn vừa bị cha đánh, lại vừa bị Tử Duyệt
chửi, thê thảm không thôi.”
Tử Hân
gần như sắp quên hết mấy chuyện thời thơ bé, được hắn gợi lại, bèn nở nụ cười
nhẹ, nói: “Ngươi đoán không sai”.
“Tên
tiểu tử ấy cuối cùng cũng học y thuật?”
“Đúng
vậy.”
“Ngươi
nhớ lúc hắn còn nhỏ bị Ô tổng quản xách tai tới nhà Sái đại phu bắt bái sư
không? Hắn sống chết không chịu, khóc lóc um trời một trận. Bây giờ hắn lại
theo nghề này sao?”
“Có lẽ
còn là người có y thuật giỏi nhất trong lớp trẻ tuổi ở Vân Mộng cốc… Phụ thân
ta rất thích hắn.”
“Vậy
chẳng phải hắn phải gọi ngươi một tiếng sư thúc sao?”
Tử Hân
lắc đầu: “Trước giờ chưa từng gọi. Mà dù hắn có bằng lòng gọi, Tử Duyệt cũng sẽ
không chịu. Huống chi năm năm đầu tuy hắn luôn theo Sái đại phu, nhưng sau này
thì một mực theo phụ thân ta, cho nên bối phận sớm đã loạn lên rồi”.
Chàng
ôn hòa nhìn vị bằng hữu, có chút kỳ quái vì sao hắn cứ nhắc lại chuyện hồi bé.
Ký ức của Quách Khuynh Quỳ thật giống như y thư phụ thân biên soạn, trang nào
trang nấy tường tận kỹ càng, không mảy may thiếu sót. Còn ký ức của chàng lại
mơ hồ không rõ ràng như một đám sương khói màu tro nhạt vậy.
Một năm
sau khi Tử Hân rời khỏi Vân Mộng cốc, Tử Duyệt xuất giá. Rất nhanh sau đó, nàng
mang thai, sinh hạ được một đứa bé thoi thóp, chỉ sống có năm ngày. Tuy không
ai biết nguyên do nhưng người trong cốc đều lờ mờ đoán ra chuyện này có liên
quan tới huyết mạch của Mộ Dung Vô Phong: Mỗi một bé trai trong huyết mạch của
chàng đều không khỏe mạnh. Nửa năm sau đó, vết thương lòng từ việc mất con còn
chưa nguôi ngoai. Tử Duyệt lại có thai. Cả nhà đều trở nên cẩn trọng từng li
từng tí, tới cả chuyện Tử Duyệt ngẫu nhiên ho khan hoặc hắt hơi cũng khiến cho
phụ mẫu nàng lo lắng. Mang thai mười tháng, Tử Duyệt lại sinh hạ một bé trai
nhưng vận đen vẫn đeo bám như trước. Tim của đứa bé cực kỳ yếu ớt, chỉ sống
được không tới một tháng, cho dù Mộ Dung Vô Phong có thâu đêm canh gác, vắt óc
suy nghĩ cũng không sao chống nổi số trời.
Trong
ấn tượng của người ở Vân Mộng cốc, Tử Duyệt luôn là cô bé sống động hoạt bát,
vui vẻ bừng bừng, cực kỳ nghịch ngợm. Tuy gặp phải đả kích như thế, nàng xem ra
còn xa mới tới mức đau lòng muốn chết như người người tưởng tượng. Nàng nghỉ
ngơi hai tháng rồi lại trở về với sự bận rộn bù đầu như ngày thường, giúp Ô
tổng quản bàn chuyện làm ăn, hỗ trợ Quách Tất Viên lựa thuốc, Mộ Dung Vô Phong
thì lại hai tháng liền chẳng màng tới y vụ, một mình ở trong Trúc Ngô viện đau
buồn.
Mọi
người trong lòng đều thầm khen, đứa con gái này của Mộ Dung Vô Phong quả là
kiên cường.
Nửa năm
sau, mọi người lại tìm được nàng ở giữa hồ.
Đó là
một ngày hè oi ả, Tử Duyệt vốn bơi lội rất giỏi.
Nàng ôm
một tảng đá lớn chìm xuống đáy hồ, nhưng lại buộc tay mình vào sợi dây, đầu kia
buộc lên một góc lan can không bắt mắt ở tiểu đình giữa hồ.
Sau khi
nàng mất tích, người trong cốc phân thành mấy đội nhân mã, đạp nát từng góc đất
một dải Vân Mộng cốc nhưng chẳng tìm được gì. Sau cùng lại là Mộ Dung Vô Phong
phát hiện ra sợi dây thừng kia.
Men
theo dây ấy, phát hiện thấy nàng.
Kể từ
đó, Mộ Dung Vô Phong không bao giờ quay lại cái tiểu đình giữa hồ ấy nữa.
Mùa
đông năm ấy, sau khi nghe được cái tin thương tâm nọ, Tử Hân về nhà một chuyến.
Chàng
còn nhớ hôm ấy trời có sắc tím đỏ, tuyết nhẹ lất phất rơi. Chàng lưng khoác
hành trang, từng bước, từng bước đi hết sơn đạo thông tới Vân Mộng cốc. Thi
thoảng có mấy cỗ xe ngựa hoa lệ phóng vụt qua bên cạnh, vó ngựa đạp tuyết kêu
vun vút. Ai mà ngờ được người thanh niên đầu đội nón rộng, mình mặc áo thô,
bước đi khập khiễng này chính là chủ nhân tiếp theo của Vân Mộng cốc, đứa con
trai duy nhất của thần y Mộ Dung.
Chàng
tới trước mặt phụ thân, nghe người nói: “Đi thăm Tử Duyệt đi”.
Tử Hân
đạp tuyết mỏng, tới trước mộ nàng.
Tuyết
lặng lẽ rơi, vô thanh vô tức đọng trên chiếc ô trong tay. Trên mộ địa là một
mảng trắng muốt.
Thời
khắc ấy, ranh giới giữa vạn vật tiêu biến, tất cả hòa thành một luồng sáng
trắng.
Chàng
chẳng phân biệt nổi rốt cuộc ai là chủ nhân mấy ngôi mộ này, chỉ mơ màng đứng
giữa khu mộ rộng lớn, cảm thấy bản thân cũng là một cái thấy sắp được chôn cất.
Cho tới
khi chàng nhìn thấy cây tùng nọ, dưới cây tùng ấy là một ngôi mộ lẻ loi nhỏ bé.
Chàng
bước qua đó, dùng ống tay áo phủi tuyết bám trên bia.
…
Ngựa chạy mất rồi làm sao đây?
…
Muội buồn ngủ rồi, mai lại dạy huynh…
À, Tiểu
Mi.
Lần ấy,
chàng chỉ ở lại trong cốc bảy ngày, thúc chàng đi lại là phụ thân.
“Sao
con còn chưa đi?”, ngày thứ bảy, phụ thân chợt hỏi.
“Người
không muốn con ở lại hầu hạ bên người thêm mấy ngày à?”
“Không
phải con nói mấy năm nay con ở bên ngoài sống rất tốt sao?”
Chàng
gật đầu.
“Vậy
thì rời khỏi đây đi.”
Chàng
nhìn phụ thân khó hiểu.
“Cuộc
sống giống như đi trên cầu độc mộc”, phụ thân nói: “Bất luận xảy ra chuyện gì,
con vẫn phải tiếp tục tiến tới, không thể ngừng lại, càng không được ngoái đầu
nhìn lại”.
Ngọn
nến thoáng lay động, chàng sực tỉnh khỏi cơn hoài niệm.
Chuyện
gì phải đến cũng sẽ đến, Quách Khuynh Quỳ lại hỏi: “Nếu Tử Duyệt đã thành thân,
vậy thì chắc ngươi cũng đã thành cữu cữu rồi hả?”.
Chàng
do dự không biết có nên nói ra cái tin Tử Duyệt qua đời, nghĩ một chút bèn nói:
“Vẫn chưa”.
… Cứ để
Tử Duyệt tiếp tục sống trong cuộc trò chuyện.
Sau đó
Tử Hân nhanh chóng chuyển đề tài: “Chắc vừa rồi ngươi có nghe thấy tiếng tiêu
ngoài cửa sổ?”.
Quách
Khuynh Quỳ hơi biến sắc: “Không…”, vừa dứt lời, tiếng tiêu lại vang lên.
“Ta
nghĩ đại ca ngươi chắc đang tìm ngươi”, Tử Hân nói.
“Đây là
lần đầu tiên ta không chú ý tới tiếng tiêu của huynh ấy”, Quách Khuynh Quỳ buồn
bã nhìn ra ngoài cửa sổ, cười khổ: “Ta không muốn gặp huynh ấy”.
“Bởi vì
hắn đả thương Thẩm cô nương?”
Quách
Khuynh Quỳ ngần ngừ một lát, cuối cùng ôm tâm tình phức tạp mà gật đầu.
“Tô cô
nương có nói với ngươi không, rằng mắt của đại ca ngươi cũng bị thương rồi?”
Quách
Khuynh Quỳ ngẩng mặt, kinh sợ thốt: “Sao cơ? Sao ngươi biết?”.
Tử Hân
đang định giải thích, Quách Khuynh Quỳ đã không thấy đâu nữa, cánh cửa cọt kẹt,
giọng nói từ ngoài vọng lại: “Giúp ta chăm sóc Khinh Thiền, ta đi rồi sẽ quay
lại ngay”.