Tháng Giêng, mặt trời ở Doanh Thất[1]. Gió
đông tan giá, côn trùng rậm rịch thức giấc đông.
[1]
Tức Thất tinh, một trong Nhị thập bát tú.
Tháng
này, khí trời giáng xuống, khí đất thăng lên, trời đất hòa đồng, cây cỏ sinh
sôi.
…
Nắng
xuân bên ngoài không chiếu vào phòng.
Đây là
một căn phòng, trong phòng là phòng, phòng lồng trong phòng.
Hắn quỳ
xuống cạnh bộ xương trắng đó, đã quỳ trọn ba canh giờ.
Dầu đèn
đã cháy hết, khói đen bốc lên nhuộm đen thanh xà trên đầu hắn.
Trong
không khí có mùi khói khiến người nghẹt thở.
Nặng
nề.
Mồ hôi
từ trán hắn nhỏ xuống.
Lưng
hắn bị thương nặng, đau tới mức gần như không vươn được cho thẳng.
Nhưng
bộ xương trắng đó đứng im ắng, hốc mắt trống rỗng chằm chằm dán vào hắn, cho dù
đã cúi đầu, hắn cũng vẫn có thể cảm nhận được loại áp lực đáng sợ đó.
Trong
đầu hắn, bộ xương bóng loáng này đã khôi phục lại máu thịt, khôi phục lại dáng
vẻ mũ giày chỉnh tề, y phục thung dung ngày trước.
Hắn
thống khổ nhắm mắt lại.
So với
lúc người còn sống, hắn muốn nhìn thấy không phải là bóng hình đó mà là bộ
xương khô trước mặt không chút biểu cảm này.
… “Con
phải biết ‘ngoại thị[2]’ không hề đáng sợ, đáng sợ chính là ‘nội thị [3]’.”
[2]
Bên ngoài nhìn vào.
[3]
Bên trong tự nhìn nhận.
Hắn còn
nhớ lời của ông ta.
… “Một
ngày con có được nội thị, bất kể ngoại thị có là thế nào đều không quan trọng.”
Bây
giờ, nội thị ngày ngày giày vò hắn.
Hắn cắn
răng, vươn thẳng lưng, đưa cánh tay run rẩy châm nén hương vòng trên lư hương.
Bên
ngoài, nước suối bắt đầu chảy, thỏ chạy cáo lùa. Tre non mới nhú, khe nước đầy
tràn.
Thân
hình hắn cao lớn, hắc y bó sát thân, mặt và tay đều có vết sẹo đáng sợ nhưng
những thứ ấy không hề ảnh hưởng tới nét anh tuấn của hắn.
Trầm
mặc rất lâu, hắn đột nhiên nói với bộ xương trắng: “Phụ thân, con bị thương
rồi”.
Không
hề có tiếng hồi đáp.
Sau đó,
hình như muốn tự thuyết phục bản thân, hắn lại bổ sung thêm một câu: “Nhưng xin
người yên tâm, con vẫn đủ sức để có thể kết thúc tất cả, để người được yên nghỉ
nơi cửu tuyền”.
Nói
xong, hắn rút chủy thủ ra, vạch một đường nhỏ trong lòng bàn tay, dùng máu của
mình tưới tắt ám hương.
Mùi máu
tươi chảy, hắn đã quen từ lâu.
Hắn
chống thiết kiếm xuống đất, miễn cưỡng đứng thẳng dậy, cảm thấy vết thương trên
lưng lại bắt đầu vỡ ra, máu tươi thấm ướt lưng áo.
Nhưng
hắn vẫn cố sức đẩy mở hai cánh cửa, sải bước đi ra ngoài.
Ánh mặt
trời chói lọi khiến người ta lóa mắt.
…
Đông
Đường trần.
Chàng
đơn độc chen lách giữa một đám hàng rong.
Không
khí khô ráo, bụi đất bốc mù, con đường dưới ánh nắng sáng rõ bắt mắt. Không xa
có âm thanh “kẽo kẹt, kẽo kẹt” vọng tới, đó là tiếng cột cờ lắc lư của mấy lá
cờ hiệu bạc màu nơi quán rượu đang phần phật bay trong gió. Bất kể là bảng hiệu
hay là người đi đường rõ ràng đều có chút uể oải. Chàng mặc một bộ trường bào màu
xám tối, sau lưng đã bị mồ hôi của con ngựa làm cho ướt đẫm, phát ra một mùi
không dễ ngửi cho lắm. Sau khi đứng vững, kéo mũ ra, trên đỉnh đầu phảng phất
như đột nhiên có một vòng xoáy, phấn hoa đầy trời và một cơn gió lùa ập thẳng
tới trước mặt, còn chưa kịp rút khăn tay ra chàng đã hắt hơi liền ba cái, không
sao nhịn được. Chàng vội vàng lấy một viên thuốc trong người ra, bỏ vào miệng
ngậm.
Trên
con phố lớn thế này, trừ phi anh sủi bọt mép ngất tại chỗ, nếu không, cho dù là
ho khạc, nhổ đờm hay là hắt hơi thì đều bị coi là chuyện tầm thường. Chẳng ai
quen biết anh, cho nên chẳng ai thèm để ý tới anh.
Mọi
người xung quanh rõ ràng đang mải miết bàn tán đến chuyện khác.
“…
Ngươi phải hiểu, hôm đó ta tới nhà họ Vương mướn một con ngựa tốt, giá hai
lượng. Phải nuôi ăn hai mươi ngày cho tới lúc trả, riêng tiền cỏ đã mất thêm
một lượng sáu tiền… Lại còn là hàng xóm nữa chứ, đúng là quá xấu tính!”
“Thế
thì có sao? Ngươi chưa xem giá cả hôm nay à? Một cân thịt heo mà đòi một hào
tám; một cân thịt trâu một hào ba; lần trước ta mời khách mua một con ngan
sống, đã mất một tiền tám hào… Đắt như thế, đúng là không để người ta sống nữa
rồi.”
“Ừ thì
đã thế rồi, nhưng tại sao đến một thùng phân giá cũng phình ra? Hôm rồi định
mua một thùng, tháng trước hỏi vẫn là năm hào, hôm qua hỏi, đã thành tám hào
rồi, ta nghĩ mãi, không mua nữa. Dùng nốt thùng cũ hẵng hay.”
“Đấy
chẳng phải vì người quá đông sao…”
Mạch
suy nghĩ của chàng càng lúc càng xa vời.
Trước
khi đi một ngày, phụ thân gọi chàng vào thư phòng của người, khuyên nhủ một lần
nữa: “Ta biết, con luôn không thích nơi này, từng cãi vã với không ít lão tiên
sinh”.
Chàng
không nói gì, xem như thừa nhận.
“Có
điều, bên ngoài rất loạn, thân thể con cũng không tốt. Ta và mẫu thân con đều
rất lo lắng.”
Chàng
tiếp tục im lặng.
“Thế
này đi, chúng ta còn không ít y quán phân tán ở các nơi. Nếu con quả thật muốn
ra ngoài, có thể tùy ý chọn một cái, tới đó ở vài tháng một năm rồi về.”
“Không”,
chàng không chút động lòng.
Trong
thoáng chốc, phụ thân có chút thất hồn lạc phách, giọng lại mềm đi: “Tử Hân,
nghe lời đi”.
… Trong
ký ức của chàng, phụ thân gần như chưa từng nói với chàng hai chữ “nghe lời”,
bởi thế tạo thành một sự thật là chàng và Tử Duyệt tỷ tỷ của mình trước giờ
chẳng nghe lời mấy.
“Cha,
con sẽ thường xuyên viết thư về nhà”, sợ rằng phụ thân mà nói thêm vài câu thì
mình sẽ mềm lòng, chàng vội vàng kết thúc cuộc nói chuyện, bước về phía cửa.
Lúc sắp
ra tới cửa, phụ thân chợt hỏi: “Tử Hân, rốt cuộc con muốn cái gì?”.
Dừng
bước, nghĩ một chút, chàng lắc đầu đáp: “Không muốn gì hết”.
… Bao
nhiêu năm sau, mỗi khi nhớ tới lần nói chuyện đó, chàng đều tự hỏi bản thân,
rốt cuộc mình muốn cái gì trên đời này?
Chàng
phát hiện ra đây là một câu hỏi rất khó trả lời.
Có lẽ,
chàng cần phải phủ định một cái gì đó thì mới có thể cảm thấy trưởng thành.
Bởi
thế, chàng muốn một thế giới, một con đường, một cuộc sống khác.
Đám bé
gái bảy, tám tuổi đang chơi bên đường. Bọn chúng ném qua ném lại cái túi thơm
chứa tiền đồng, lần lượt tranh cướp, vui vẻ đuổi nhau dưới bóng liễu, hưng phấn
náo nhiệt, mồ hôi đầy đầu. Lại có một đám con trai bắt dế mèn dưới đất. Có mấy
đứa còn mặc quần thủng đít, mông vểnh rõ cao, trên mông rõ ràng còn thấy mấy
cái bớt.
Lần đầu
tiên chàng gặp Đường Hành, Đường Hành cũng đang mặc một cái quần thủng đít rộng
thùng thình. Đường Hành còn nói đừng nghĩ nó còn nhỏ, thật ra nó cực kỳ ham học
hỏi. Sau đó chỉ chỉ cái mông bóng loáng của mình, nói là ở đấy có hai vết bớt
màu tím. Quả nhiên, mỗi khi đám trẻ con quần nhau thành một đống, chàng luôn
nhanh chóng tìm ra Đường Hành giữa nhung nhúc những cái mông, lôi nó ra khỏi
đám ấy.
Nhưng
mà sở trường của Đường Hành không phải đánh nhau, mà là giả chết.
“Tử Hân
ca ca, huynh chơi với đệ đi!”, vừa mới biết nhau chưa tới hai ngày, một sớm
Đường Hành trèo lên đầu giường, đưa ngón tay vạch mí mắt chàng, năn nỉ nói.
“Đệ
muốn chơi cái gì?”, chàng dụi đôi mắt còn ngái ngủ.
“Đệ
biết giả chết, huynh có biết không?”
Sau đó,
Đường Hành liền nằm trên giường biểu diễn các kiểu chết: Có trúng thương gục
ngã, chết ngay tức thì; có toàn thân co giật, nôn máu ồng ộc; có trúng độc phát
tác, mặt mũi nhăn nhó; có toàn thân trúng tên, ngửa mặt rống lớn; có tẩu hỏa
nhập ma, lắc như rang đậu; có cưỡi ngựa trúng đao, ngã gục xuống đất; có giữa
đường gặp phúc kích, không địch nổi mà bỏ mạng; có bị tra tấn mà mắng chửi, đại
nghĩa lẫm liệt; có dũng cảm đoạt binh khí, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng… tóm
lại là khiến Tử Hân há hốc mồm cứng đơ lưỡi, mắt hoa cả lên, không thể không
thừa nhận kỹ thuật diễn xuất của thằng nhóc bốn tuổi này quả là hạng nhất trong
thiên hạ.
Cuối
cùng, Đường Hành mồ hôi nhễ nhại hỏi: “Có vui không?”.
“Vui
lắm.”
“Đệ dạy
huynh nhé. Xong rồi bọn mình cùng giả chết, cũng coi như có bạn.”
“Sao đệ
cứ thích giả chết vậy?”
“Ca ca
đệ thích đệ như thế, nếu không huynh ấy không chơi với đệ.”
Cũng là
lần đầu tiên gặp mặt thì bị đối phương đánh một trận nên thân, ấn tượng của Tử
Hân đối với Đường Phất còn xa mới bằng Lưu Tuấn.
Đường
Phất cao lớn, lúc đi đứng ngực vươn rõ cao, không biết cưỡi ngựa nhưng lại
thích xỏ một đôi giày đi ngựa vừa đen lại vừa sáng, khi bước trên sàn gỗ phát
ra tiếng lộp cộp. Nghe bảo nó vốn là vua của lũ trẻ trên con phố ở nhà mình,
thủ hạ có mười mấy đứa lâu la, hoàn toàn nghe theo sự chỉ huy của nó. Bởi thế
Đường Phất không thèm chơi với tiểu đệ đệ Đường Hành nhỏ hơn mình bốn tuổi này.
Mỗi lần ra ngoài, nó lại không thể không mang theo Đường Hành nhưng cảm thấy
thằng nhóc này chẳng có tác dụng gì, cho nên mỗi lần chơi đánh nhau, nhiệm vụ
của Đường Hành toàn là giả chết… Lúc bắt đầu nó chỉ giả vờ đại khái thôi, còn
kiêm cả các vai bưng trà rót nước, chạy cờ, ai ngờ càng về sau kinh nghiệm càng
nhiều, giả chết giống tới kinh người, bọn nhỏ xung quanh không sao làm được, từ
đấy giả chết mới thành nhiệm vụ chuyên môn của nó.
Hôm Tử
Hân gặp Đường Phất lần đầu ấy, chàng đã cùng giả chết với Đường Hành ba lần.
Thật ra, Tử Hân vốn có thể diễn những vai hay ho hơn, ví dụ như sát thủ hắc đạo
ngoan cố kháng cự. Không ngờ Đường Phất cho rằng Tử Hân vừa gầy vừa thọt, không
xứng làm đối thủ của nó, mà kỹ thuật giả chết thì lại còn kém xa Đường Hành,
thế là chỉ thị Tử Hân làm thủ hạ của Đường Hành, đầu tiên là làm cường đạo chặn
đường cướp bóc, sau đó hai người sẽ quỳ dưới đại đao của nó cầu xin tha thứ rồi
cùng bị chém chết. Kiểu trò chơi thế này cực kỳ đơn giản, nếu như người tham
gia quá ít thì không có tình tiết gì đáng nói. Tử Hân “chết” ba lần đã thấy
chán, nhưng Đường Phất thì lại đang hứng chí hừng hực, thích thú không biết mệt.
Vai của nó không phải là “hoàng thượng” thì là “nguyên soái”, hoặc là “đại
hiệp”. Trái ngược với nó, Đường Hành, Tử Hân ắt chỉ có thể chọn làm một trong
các vai “phản thần”, “nghịch tặc” hay “ác đồ”. Chơi hết ba lượt, Tử Hân đột
nhiên nói với Đường Phất: “Lần này đổi lại được không? Ta với Đường Hành là
nguyên soái, ngươi làm ác tặc?”, khuôn mặt Đường Phất lập tức sầm xuống, nói
rằng trước giờ nó không diễn kẻ xấu. Tử Hân cũng nổi giận: “Ta cũng không phải
kẻ xấu, sao lần nào cũng phải diễn người xấu?”. Đường Phất khoanh tay trước
ngực, ánh mắt cực kỳ khinh bỉ, nói: “Ngươi là thằng què, thằng què tức là kẻ
xấu”.
Tử Hân
một quyền vung tới, trúng ngay quai hàm Đường Phất. Đường Phất một cước đạp
văng trượng của Tử Hân, đánh cho một trận tơi bời rồi nghênh ngang bỏ đi. Đường
Hành chạy đi nhặt trượng rồi rút khăn tay lau máu mũi cho Tử Hân, nhỏ giọng
nói: “Tử Hân ca ca, đừng giận ca ca đệ, được không? Đây là… đây là bao hạt dẻ
đường. Đệ không ăn nữa, cho huynh hết đấy! Huynh nguôi giận, được không?”.
Tử Hân
bưng mũi, tức anh ách ngồi dậy nói: “Tại sao ta không được giận hắn?”.
“Huynh
mà không nghe lời ca ca đệ, huynh ấy sẽ lại đánh huynh đấy”, cứ như Đường Phất
vẫn còn đứng sau lưng mình, Đường Hành thì thầm hỏi: “Huynh sẽ không đi mách
cha đệ chứ?”.
“Không
đâu.”
“Nếu
như huynh mách cha mẹ huynh, bọn họ sẽ đi mách cha đệ đấy.”
Nhìn bộ
dạng hết sức lo lắng của Đường Hành, Tử Hân thở dài một tiếng, nói: “Ta sẽ
không nói đâu”.
Thật
ra, đám trẻ con trong Vân Mộng cốc cũng có quy tắc giống như thế. Bị đứa khác
đánh rồi lại ôm mặt về khóc lóc mách với cha mẹ sẽ bị coi là đứa nhát gan. Cho
nên, đây sớm đã không còn là lần đầu tiên Tử Hân mũi sứt mặt sưng về nhà. Phụ
thân thấy không hề trách cứ gì, cũng không hỏi là ai đánh, chỉ bôi chút thuốc
giảm đau cho nó rồi nói: “Đi chơi đi”.
Sợ bị
truy hỏi, Tử Hân quay đầu bước về phòng, giữa đường vừa hay gặp đúng Tử Duyệt.
Là vua
của lũ trẻ con trong Vân Mộng cốc, Tử Duyệt biết rõ chuyện đánh nhau giữa bọn
trẻ con. Bởi vì là đệ đệ của Tử Duyệt, chẳng có đứa nào trong đám trẻ con ở Vân
Mộng cốc dám chủ động tìm Tử Hân gây sự đánh nhau. Đương nhiên, lúc bọn khác
đánh nhau, nó mò tới tự mình nhảy vào tham gia náo nhiệt mà ăn đòn thì không
tính. Tử Duyệt thấy mặt mũi đệ đệ mình sưng vù như đầu heo, liền bấm tay tính
xem hôm nay Tử Hân có thể đã đi những chỗ nào rồi nhớ tất cả vào lòng. Kế đó,
mặt không đổi sắc, chỉ nói chuyện với Tử Hân về cách vẽ bản đồ cho kế hoạch leo
núi, tới hôm sau thì dẫn theo một đám trẻ con tìm Đường Phất tính sổ.
Vì vấn
đề mặt mũi thể diện, lúc đầu Đường Phất còn không chịu động thủ với đám trẻ con
vắt mũi chưa sạch mặc quần thủng đít này. Huống chi còn có mấy đứa dùng tiếng
địa phương chửi bới, khiến nó không biết đường nào mà lần. Sau đó, Tử Duyệt hô
lớn một tiếng: “Đánh nó!”. Đám trẻ kia ồ ạt kéo lên, trong đó có mấy đứa nhìn
qua thì tưởng là khờ khạo, thật ra đều từng luyện qua mấy ngày quyền cước rồi.
Đường Phất chẳng phí chút sức nào đã đánh đổ ba đứa đầu hung hăng lao tới, ai
ngờ bọn phía sau lớp lớp nhào đến, cuối cùng đánh nó thâm tím mặt mày, mấy ngày
hôm sau vẫn nửa người nửa ngợm chẳng nhận ra nổi. Đường Hành ở một bên lo tới
mức khóc rống lên, định chạy về nhà gọi cha. Tử Duyệt bèn kéo nó lại, dịu dàng
dụ khị: “Đường Hành ngoan đừng khóc, ngày mai tỷ tỷ đưa đệ đi leo núi, trên núi
có rất nhiều thứ hay nhé. Trong phòng tỷ tỷ còn có mấy cái bánh hoa quế mới
hấp, đệ có muốn ăn không? Tới đây, bọn mình đi lấy nhé!”, nói rồi dụ dỗ lừa gạt
thằng bé, lôi nó tới phòng mình, cho nó mấy cái bánh ngọt, chẳng phí bao nhiêu
thời gian đã dỗ được nó hồi tâm chuyển ý.
Cứ như
thế, Tử Duyệt đã thành công trong việc chia rẽ huynh đệ Đường gia.
Lúc gặp
Lưu Tuấn, Tử Duyệt cũng định dùng cách ấy thu phục nhưng rồi phát hiện Lưu Tuấn
khó đối phó hơn nhiều so với Đường Phất. Cùng là một lũ trẻ con xông vào nó,
Lưu Tuấn nhanh tay nhanh mắt, tránh khỏi một bước, túm lấy bím tóc của Tử
Duyệt. Chỉ nhẹ nhàng kéo một cái, cô bé kêu ré lên, đám trẻ con lập tức sợ hãi
lùi lại ba bước. Tử Duyệt liền tỏ ra muốn đình chiến, còn nói đội leo núi của
mình vừa hay đang thiếu một người có kinh nghiệm đi núi phong phú như Lưu Tuấn,
hỏi Lưu Tuấn có muốn tham gia không? Lưu Tuấn tỏ ra không thích thú lắm, cuối
cùng dưới sự năn nỉ của đám trẻ mới miễn cưỡng đồng ý, nhưng lại không biết bản
thân đã cứ thế rơi vào thòng lọng của Tử Duyệt, bất tri bất giác trở thành thủ
hạ số một của Tử Duyệt.
Thân
cận với bằng hữu của mình, nhưng lại càng thân cận hơn với địch nhân của mình.
Đấy
trước giờ vẫn là chiến thuật của Tử Duyệt.
…
Thiếu
niên đứng giữa đám đông đang mải nghĩ ngợi lan man về chuyện cũ của mình, chợt
nghe ở xa có người mất kiên nhẫn thét bảo:
“Này!
Tiểu tử nhà ngươi đứng đấy làm gì? Đây là chỗ người ta làm ăn, mỗi một vị trí
đều phải trả tiền đấy. Này! Nói ngươi đấy! Thằng thọt!”
Chàng
đưa mắt nhìn, thấy một người to béo cổ thô mặt đỏ, nồng nặc mùi rượu đang bước
về phía mình, chàng bực tức nhìn chằm chằm vào hắn, nói: “Tên ta…”.
“Thèm
vào biết tên ngươi là gì! Ngươi trả tiền chưa? Ta là A Tam thu tiền, là lang
đầu ở đây. Nếu ngươi định bày sạp ở đây thì phải trả tiền, hiểu chưa?”
Thiếu
niên dáng vẻ bỡ ngỡ không hiểu: “Lang đầu?”.
“Chính
là người quản tô thuế của các cửa tiệm”, một người đang bán anh đào bên cạnh
nhỏ giọng giải thích.
“Kỳ lạ,
ngươi là người thôn nào? A Tam ta xuôi nam ngược bắc, khẩu âm này ta đúng thật
là chưa từng nghe qua. Quá kỳ lạ!”
Cái
khẩu âm quê mùa của chính tay A Tam này, thiếu niên cố lắm mới nghe được, không
ngờ thì ra lời của mình, đối phương nghe cũng không hiểu lắm, không khỏi ngẩn
ra tại chỗ, định nói tiếng Quan Thoại[4], lại cảm thấy quá nghiêm
chỉnh. Nói không ổn mà không nói cũng không được.
[4]
Tiếng Quan Thoại: Hay còn gọi là Bắc phương thoại, bao gồm nhiều phương ngữ
tiếng Trung sử dụng tại phần lớn khu vực phía bắc và tây nam Trung Quốc.
“Tam ca
còn bảo mình có kiến thức, đây rõ ràng là khẩu âm người Mông Cổ ở quan ngoại,
lần trước có một vị tới mua thuốc chuột, khẩu âm giống y hệt với vị tiểu ca
này, đây chính là người từ quan ngoại tới rồi.”
Cũng
may, đã có người đáp hộ, thiếu niên dứt khoát ngậm miệng lại.
Ở trong
chợ chính là có điểm tốt này, ta vĩnh viễn không cảm thấy cô độc. Người quan
tâm tới ta rất nhiều. Có lúc sự nhiệt tình của người khác thậm chí còn khiến ta
nghẹt thở.
A Tam
cười ha ha, cảm thấy câu trả lời cực kỳ vừa ý, liền đảo mắt tới con ngựa, nói
tiếp: “Con ngựa của lão đệ cũng thật là thần tuấn, nếu chịu bán giá hai chục
lạng, chỗ sạp này là của ngươi. Tiền thuê tháng đầu tiên cũng không cần giao
nữa”.
Thiếu
niên đáp: “Ngựa này tôi không bán”.
“Đúng
thế, đúng thế, Tam ca cũng chẳng phải không thấy chân người ta không được tốt,
thế mà còn đòi ngựa của người ta…”, ngấm ngầm, có người xì xèo một câu.
A Tam
hung dữ quét mắt qua, chỉ thấy bảy tám người co đầu rụt cổ quay người bỏ đi,
tìm không ra mục tiêu.
Thiếu
niên kéo mũ trên đầu xuống, cười nói: “Không biết quý tính Tam ca là gì? Tiền
sạp tôi tạm thời chưa có. Ngựa cũng không định bán. Có điều, tôi thấy cái răng
nanh này của Tam ca không tốt lắm, chắc nó đã hành Tam ca lâu ngày rồi. Hay là
tôi giúp Tam ca nhổ nó đi, rồi bôi thuốc, giảm sưng. Phí khám này tôi không thu
nữa, Tam ca để tôi dựng sạp ở đây ba ngày, thế nào?”.
Tuy đã
là hoàng hôn, nhưng sắc trời vẫn chưa tối lắm. Thiếu niên người cao, tóc dài
hơi xoăn, dưới vầng trán cao ngạo là đôi mắt lấp lánh như sao. Hắn vốn ngậm
miệng không nói, bộ dạng như đang khốn khổ suy tư, không khỏi khiến người ta có
cảm giác hắn đang buồn bực. Ai ngờ lúc hắn mở miệng cười một cái, thái độ mềm
mỏng, lại gọi thêm một tiếng “Tam ca” nhịp nhàng, khiến A Tam ngớ ra nhìn hắn,
không làm sao cứng rắn được nữa.
Câu này
hỏi đúng chỗ hiểm, A Tam không nén được hừm một tiếng, khẩu khí cuối cùng cũng
mềm lại: “Xin hỏi vị tiểu ca này kiếm ăn bằng nghề gì?”.
“Chút
chút nghề vặt, lang trung giang hồ.”
“Nhìn
một cái là thấy ngươi giống.”
Kể cả
tối ngày mong mỏi được lăn lộn giang hồ nhưng nghe thấy người khác nói thế,
trong lòng chàng vẫn cảm thấy có chút khó chịu.
“Ngươi
không muốn thuê một gian à? Tiền thuê một quý chỉ có sáu mươi lượng. Cửa tiệm
cũng có không ít: Tiệm lớn mỗi quý bốn mươi lăm lượng, tiệm vừa ba mươi sáu
lượng, tiệm nhỏ ba mươi lượng…”
“Tôi
tạm thời chưa có tiền”, thiếu niên rất thẳng thắn.
“Được
rồi, trông ngươi như thế cũng không giống là đi lừa gạt người khác. Ngươi thật
sự biết nhổ răng?... Ta muốn nói, ngươi thật sự nhổ nổi răng ta à?”, A Tam chăm
chú nhìn ngón tay dài thon nhợt nhạt của thiếu niên.
“Nhổ
được”, thiếu niên nhạt giọng nói, rồi từ trên lưng ngựa lấy xuống một bọc đồ
bằng vải lụa Hàng Châu tinh tế, rút ra một cái tráp dụng cụ mạ vàng, lấy ra một
chiếc kìm chế tạo cực kỳ tinh xảo.
Người
xung quanh nghển cổ nhìn vào, đánh giá kỹ càng túi đồ của thiếu niên, biết ngay
đây là dụng cụ giá thượng hạng, đều thốt lên: “Ái dà, món này là hàng quý giá,
tôi nghĩ không biết ngoài nhổ răng ra, nó còn có thể nhổ cái gì nữa?”.
Chàng
mượn người bên cạnh một cốc nước, rửa tay thật kỹ, nhét một ít bông vào miệng A
Tam, nhẹ giọng nói: “Huynh chớ có nhìn, được chưa?”.
A Tam
gật đầu, lo lắng tới mức mồ hôi túa ra đầy đầu.
Thiếu
niên kẹp chiếc răng nanh, cười nói: “Tôi còn phải đợi một chút nữa, đợi dược
tính phát huy công hiệu rồi mới nhổ được, nếu không huynh sẽ đau đấy”.
Nghe
câu này, A Tam thở phào một cái, chẳng ngờ cổ tay thiếu niên đột nhiên khẽ vặn,
đã nhẹ nhàng vô thanh vô tức nhổ tận gốc cái răng nanh.
Người
xung quanh đều nhìn tới trợn mắt.
A Tam
“úi” một tiếng, ôm lấy quai hàm một lúc rồi vỗ vỗ vai thiếu niên, nói: “Tay
nghề khá lắm! Ngươi cứ ở đây mở sạp đi, tiền thuê tháng này ta trả thay ngươi”.
“Vậy
phải đa tạ rồi. Tam ca quý tính là gì?”
“Ta tên
Diêu Nhân. Ngươi thì sao?”
“Thật
là khéo”, thiếu niên vuốt mái tóc dài bị gió thổi lệch sang một bên, trên khuôn
mặt trắng trẻo thanh tú thoáng hiện nét cười thần bí, nói: “Tôi cũng tên Diêu
Nhân”.
“Tốt!
Có duyên! Mấy ngày nữa ta mời ngươi đi uống rượu”, Diêu Nhân hưng phấn cao
giọng nói, chẳng mảy may ý thức được đại danh của mình đã bị thiếu niên này bất
động thanh sắc dùng trộm mất rồi… Thật ra cũng không nói là dùng trộm, trấn này
vốn họ Diêu là chủ yếu, tên gọi là “Diêu Nhân” cũng có bảy, tám vị, thêm một kẻ
này cũng chẳng phải là lạ.
“Đa tạ,
tôi không uống rượu”, thiếu niên lựa lời cảm tạ, hiểu rõ những kiêng kỵ đường
ăn uống của mình sớm muộn gì cũng gây ra phiền phức, không khỏi cảm thấy xấu hổ
một trận. Đáng tiếc câu này còn chưa kịp lọt vào tai Diêu Nhân, hắn đã sải bước
đi mất rồi.
Trông
bóng lưng Diêu Nhân, thiếu niên quay đầu lại, trên người chẳng có đồng nào, đói
khát không chịu nổi, nhưng vẫn đứng ngớ ra như một con ngan ngốc nghếch giữa
các sạp hàng. Hồi lâu, lão hán bán anh đào bên cạnh cuối cùng lên tiếng hỏi:
“Diêu Nhân, ngươi thật sự định tới đây mở sạp hả?”.
Thiếu
niên hơi sững ra, nhất thời chưa nhớ được đấy là tên của mình, gật đầu mạnh một
cái, đáp: “Đúng thế, lão bá”.
“Thế
thì sao ngươi không rao to lên? Cho dù ngươi biết nhổ răng nhưng cũng phải cố
sức rao lên thì mới có người để ý tới ngươi. Huống chi đây là ngày đầu tiên
ngươi tới đây, chẳng quen biết ai, cũng chẳng ai biết ngươi tới làm gì. Không
rao lên sao được?”
“Cháu
đói quá, không có sức rao”, chàng thật thà đáp.
“Đây là
nửa bát anh đào, là ta bán thừa lại, ngươi ăn trước đi.”
“Thật
xin lỗi, cháu… không ăn được anh đào.”
“Cho dù
có đói chết, ngươi cũng không ăn à?”, cảm thấy thiếu niên thật không biết cân
nhắc, lão hán lập tức thấy không vui.
Thiếu
niên ngượng ngùng cười, không đáp.
“Tùy
ngươi thôi, xem hôm nay ngươi có kiếm được đồng nào không. Giờ là cuối ngày
rồi, chợ phiên này đã bắt đầu giải tán”, lão hán đứng dậy, thu dọn thùng gánh.
Thiếu
niên nhướng mày, còn đang nghĩ xem mình nên dừng chân ở chỗ nào thì nghe thấy
người trung niên bán hạt dẻ đường mặt vuông mũi dài vỗ vào tay mình, thô giọng
hỏi:
“Ngươi
muốn ăn lạc không? Chỗ ta còn nửa túi, là do vợ ta muối… Trông ngươi mặt mũi
trắng trẻo, cũng không giống người từng nếm khổ, sao tự nhiên lại rơi vào nơi
này? Cha mẹ ngươi chết hết rồi ah?”, mặc kệ chàng có muốn hay không, người kia
cứ dúi bọc giấy tới.
“Oa!
Lạc muối? Đây là món tỷ tỷ cháu thích ăn nhất, lúc tỷ ấy buồn bực giận dỗi, lần
nào cũng ăn đầy một bát. Ngửi mùi thật thơm! Ướp với hồi và thảo quả đúng
không? Mẫu thân cháu đặc biệt thích hồi. Đa tạ đại thúc!”, thiếu niên tràn đầy
cảm kích nói một thôi một hồi, ngừng một lát, lại bẽn lẽn lắc đầu: “Không được,
cháu không ăn được lạc. Rất xin lỗi, đa tạ đại thúc”.
“Đến
lạc cũng không ăn, ngươi có bệnh à?”
“Việc
này… khụ khụ… cháu… tóm lại…”
“Chỗ ta
còn một cái bánh nướng, bánh nướng thì ngươi ăn được chứ?”
“Xin
hỏi bên trên có cho hành với vừng không?”
“Nói
thừa, không có hai thứ ấy thì còn nướng bánh thế nào nữa?”
“Thật
xin lỗi…”
“Lão
đệ, cái bệnh phiền phức này của ngươi từ đâu ra vậy? Có từ trong bụng mẹ à?”
“Hẳn là
các vị đại thúc cũng nhìn ra, trời sinh tôi nhiều khiếm khuyết.”
“À!”,
đám tiểu thương bu đầu vào bàn bạc một trận, họ đều dùng ánh mắt ngạc nhiên
nhìn chàng, thảo luận một hồi, cuối cùng nói: “Tiểu tử, ngươi hẳn phải ăn được
màn thầu chứ?”.
“… Tôi
không có tiền.”
Ba
người móc trong người ra một đồng tiền, đưa vào tay kẻ khác, tới sạp bên cạnh
mua chiếc màn thầu rồi đưa cho Tử Hân:
“Cầm
lấy đi, một cái màn thầu này ba văn tiền, xem như các đại thúc mời ngươi. Tuổi
còn nhỏ thế, cái này không ăn, cái kia cũng không ăn, làm sao mà lớn được?”
Cái màn
thầu trắng phau phau, nóng hôi hổi, cầm vào còn hơi bỏng tay, vỏ bánh mỏng căng
phồng như muốn nứt, không nhăn nheo chút nào. Thiếu niên trong lòng nóng lên,
run giọng nói: “Đa tạ các vị đại thúc!”, nói xong cúi gằm đầu xuống, bửa từng
miếng từng miếng nhỏ đưa vào miệng nhai nuốt từ tốn nhỏ nhẹ.
“Chậc
chậc, ngươi ăn màn thầu như thế à?... Thật là quá tao nhã rồi! Đây là lần đầu
tiên ta thấy có người ăn màn thầu như thế, về nhà ta cũng phải dạy con gái nhà
ta mới được. Xin hỏi bánh nướng cuốn hành tây phải ăn thế nào?”
“Cháu
chưa từng ăn”, thiếu niên khách khí đáp.
“Nếu
ngươi ăn món ấy, chắc sẽ không giống như thổi loa chứ, đúng không?”
“Cháu
nghĩ chắc không.”
Đám
tiểu thương cười phá lên.
Chiếu
màn thầu kia to gần bằng cái gối, mọi người tan hết rồi, chàng vẫn chưa ăn
xong. Dần dần, ánh đèn trên con phố dài le lói, người qua lại thưa thớt hơn.
Chàng đơn độc đứng đo một lúc, trời bỗng đổ mưa to.
Giờ
chàng mới nghĩ tới, bản thân không có một xu dính túi, tất nhiên đến một chỗ
dừng chân cũng không. Hốt hoảng kéo một người qua đường lại hỏi thăm mới biết
trên sườn núi đông trấn có một ngôi miếu hoang, trước là nơi đám ăn mày thường
ngủ.
“Chỗ đó
có thể tạm tránh gió tránh mưa, chỉ là không được sạch sẽ cho lắm. Tiểu ca, nếu
có chỗ nào khác thì chớ nên tới đó. Nghe nói… có quỷ.”
…
Ngôi
miếu đó quả nhiên rất tàn tạ.
Trên
cửa sổ giấy ngang ngang dọc dọc đều là nhớt của ốc sên. Cửa lớn khép hờ, vẹo
sang một bên. Trước cửa cỏ rậm lấp lối, mấy tảng đá vỡ lác đác khắp nơi, một
cây cổ thụ bị cây leo bám chặt tới mức cành cây vặn vẹo uốn khúc, chìa nanh giơ
vuốt. Sau lưng sơn miếu là một khoảng chân núi càng hoang vu hơn, nhấp nhô liên
miên, xa không thấy tận cùng. Sương mù trắng xóa lại như sóng biển trào dâng
mãnh liệt từ trên đỉnh tràn xuống, từ nóc sơn miếu tán ra tứ phương, ở giữa
hình thành một vòng xoáy rất lớn. Phía xa sấm giật ầm ầm, chớp rạch ngang trời,
vòng xoáy kia từ từ cuộn tròn, dưới ánh điện chớp, bốc lên một luồng ánh đỏ
đáng ngờ.
Tiếng
mưa, tiếng sấm chớp vang vọng lại tăng thêm sự yên tĩnh kỳ dị của tòa sơn miếu.
Chàng đi tới cửa, thấy nước mưa men theo hiên trước nhỏ xuống, rơi trên lớp
ngói lưu li vỡ nát. Bên trái cửa có một vại nước sứt miệng, tiếng nước nhỏ vào
đó vọng ra thứ âm thanh lạ lùng, lúc thưa lúc mau, tựa như ẩn hàm một dạng tiết
tấu dụ lòng người. Chàng lắng nghe hồi lâu, tâm tư bay bổng tận nơi nào.
Cho đến
khi hoàn hồn lại, chàng mới phát hiện bên trong cửa sổ có ánh lửa le lói.
Trong
miếu có người.
Chàng
dắt ngựa, đẩy cửa tiến vào.
Lần đầu
tiên Tử Hân gặp Trúc Ân chính tại nơi này.