Khi bản án châu khố Dự Châu bị thâm hụt được đặt trên đầu bàn, cùng lúc đó tin mừng Dục Thanh dẫn quân hồi triều cũng đưa lên, Hoàng đế cầm hai quyển sổ xem đi xem lại, vừa vui vừa buồn. Vui là nhi tử mình yêu thương nhất đắc thắng trở về, buồn là Tống Tân Nho thân là lão thần thâm niên, muốn trừng trị sẽ rất nan giải. Nếu phạt quá nặng sẽ dấy lên sợ hãi trong tâm các cựu thần, nếu phạt quá nhẹ sợ khó bình lòng dân.
Lẽ ra tại vị Hoàng đế nhiều năm như vậy, tám chín vạn lượng bạc trong mắt ngài cũng không tính là tham ô quá lớn, tiếc rằng Việt Lâm Xuyên tra án cẩn thận như vậy, nào là ăn bao nhiêu hối lộ, phóng túng khoản vay, tiến cử người thân, ngay cả việc khi chịu quốc tang Thái hậu âm thầm nạp cơ thiếp cũng bị hắn lật hết lên. Làm trái quy định như vậy, đến Hoàng đế cũng không bao che được lão, đành phải đem những người liên quan tới Dự Châu Châu phủ và Biện Lương quận phủ chờ mất chức thì cho mất chức, chờ điều tra thì cho điều tra, còn đứng đầu là Tống Tân Nho và Tô Cẩn Khiêm, lời phê đỏ thắm – lập tức trảm.
Dục Thanh ngày đó hồi kinh, đem theo mấy tướng lĩnh có công vào cung yết kiến, Hoàng đế nghênh đón ngoài điện, phụ tử gặp nhau vô cùng vui vẻ. Cận vệ thống lĩnh Hàn Tử Kiêu nhìn tham tướng trẻ tuổi sau lưng Dục Thanh, thấy mi mục rất giống bạn cùng chơi lúc nhỏ, bất đắc dĩ Thánh thượng đằng trước, không dám bước lên hỏi.
Vào tới trong điện, Hoàng đế cẩn thận hỏi thăm Dục Thanh, hỏi khi hành quân có cực khổ không, hỏi khi tác chiến có bị thương không, lại hỏi phong thổ biên cương. Dục Thanh nhất nhất đáp lời, còn đem chuyện thú vị giữa Dụ Thanh và Thiện Lan Triết trước trước sau sau nói cho Hoàng đế, Hoàng đế nghe được cười to, liền hỏi Dụ Thanh là ai. Dục Thanh chỉ vào người đang đứng xa xa trong điện: “Đó là y.”
Hoàng đế nghe nói y mấy lần có công, đang định khích lệ, lại nghe Hàn Tử Kiêu sau lưng cúi đầu nói: “Đúng thật…”
Hoàng đế quay đầu hỏi: “Đúng thật là ai? Hàn ái khanh quen y sao?”
Hàn Tử Kiêu và Dụ Thanh ly tán nhiều năm, hôm nay gặp lại thấy tâm tình kích động vô cùng, tự mình thốt lên, không ngờ Hoàng đế nghe được. Hàn Tử Kiêu vội vàng đáp lại: “Hồi bẩm bệ hạ, nếu vi thần không lầm, vị Dụ tiểu tướng quân này là hàng xóm của vi thần khi còn nhỏ, năm ấy y theo phụ thân ra biên quan kinh thương, rồi chưa từng trở lại, vi thần tưởng rằng…”
Lúc này giọng nói vừa kinh hỉ vừa nghi hoặc của Dụ Thanh cũng xa xa truyền lại, “… Hàn đại ca?”
Hoàng đế cười bảo: “Từ biệt bao năm, trên điện gặp lại, y hệt như một truyền kỳ, quả nhân cũng thấy vui mừng. Truyền chỉ, ban thưởng chư vị tướng sĩ trong điện năm mươi lượng hoàng kim, Hàn ai khanh ngươi cũng nghỉ ngơi một ngày, đoàn kết với cố nhân đi.”
Mọi người trong điện cũng nhiễm cả hỉ khí của Dụ Thanh, mỗi người tươi cười rạng rỡ, khấu đầu tạ ơn. Hàn Tử Kiêu cũng cuống quít tạ ơn, từ bên người Hoàng đế đi tới, vội vã ra khỏi đại điện đuổi theo Dụ Thanh, hai người gặp mặt liền ôm lấy Dụ Thanh: “Những năm này đệ ở đâu vậy, sao một lá thư cũng không gửi!”
Dụ Thanh nhìn vị đại ca hồi nhỏ mình từng nể trọng, như nhìn thân nhân đã thất lạc nhiều năm, lòng xót xa, thoáng chốc rơi lệ, đem kinh lịch mấy năm nói qua với Hàn Tử Kiêu, đôi mắt Hàn Tử Kiêu cũng ươn ướt, bảo: “Đệ chịu khổ nhiều như vậy, thiệt thòi nhiều năm như vậy đệ làm sao nhẫn được… Dụ thúc phụ… thật không còn nữa…”
Những chuyện thương tâm bị gợi lên, Dụ Thanh khóc ràn rụa, nghe Hàn Tử Kiêu nói tiếp: “Hôm nay mây quang trăng sáng, đệ chớ thương tâm, sau này nhà của ta là nhà của đệ, hôm nay về nhà đi, để Vân Anh tẩu tử của đệ làm một bàn thức ăn ngon, ba người chúng ta đoàn tụ!”
Dụ Thanh nghe lời này của gã, mặt đầy nước mắt ngẩng lên: “Hàn đại ca cưới Vân Anh tỷ làm vợ?”
Hàn Tử Kiêu gật gật đầu, lại hơi đỏ mặt, Dụ Thanh thấy nam tử hào dũng như gã cũng có lúc như vậy, không khỏi cười khẽ.
Trong điện Hoàng đế và Dục Thanh vẫn đang dở câu chuyện, Dục Thanh nhất nhất xin công cho thuộc hạ trước mặt Hoàng đế, khi nói đến Dụ Thanh, liền đề cập tiến cử y tới Hộ bộ làm quan. Hoàng đế nói: “Gần đây bản án châu khố Dự Châu bị thâm hụt được điều tra tỉ mẩn, Hộ bộ sẽ thay đổi nhân sự, lúc đó đưa y bù vào cũng xem như phát huy hết tài năng của y.”
“Dự Châu? Nhi thần vừa về kinh, chưa nghe nói tới.”
“Dự Châu thừa Tống Tân Nho tham ô khố ngân, Thái thú Biện Lương Tô Cẩm Khiêm cảm kích không báo, đều phê trảm quyết hết rồi.”
Dục Thanh nghe đến tên Tô Cẩn Khiêm, lòng hơi kinh ngạc. Hắn biết Phương Đỗ Nhược giám thị sông nước Dự Châu, thế mới hỏi nhiều một câu, không ngờ có chuyện thật.
“Tô Cẩn Khiêm luôn liêm chính yêu dân, nhi thần cảm thấy, y có phải vô cớ bị vạ lây không?”
Hoàng đế nghe thế cười, “Danh tiếng Tô Cẩn Khiêm đã truyền tới tai con ta rồi sao? Chắc là Phương Đỗ Nhược nói con nghe phải không?”
Dục Thanh gật đầu đáp vâng.
“Thật ra y cũng đệ lên một tấu chương thật dài giải thích hộ Tô Cẩn Khiêm, xem ra giao tình hai người không tệ.”
Dục Thanh biết Hoàng đế cả đời ghét nhất thần tử kết đảng, cũng không đáp lời.
Hoàng Thượng sai người đưa cho Dục Thanh tấu chương của Phương Đỗ Nhược, Dục Thanh từ đầu tới cuối cẩn thận xem hết, nói: “Tô Cẩn Khiêm cai quản Biện Lương nhiều năm, tạo nhiều thành tích, rất được lòng dân, lần này mượn bạc của phú thương bằng tín dự và uy vọng, cũng không phải thủ đoạn bắt buộc, hơn nữa tất cả cũng vì cứu gấp tất cả nhân công, bản thân y không hề giữ lại nửa hào, dẫu có sai, tội cũng không chí tử. Huống chi dân chúng Biện Lương hôm nay đoàn kết dâng thư vì y xin tha mạng, phụ hoàng có thể nới rộng hạn định mấy ngày, đợi thư của dân chúng tới, rồi quyết định lại lần nữa được không?”
“Con nói tội y không chí tử? Châu khố thâm hụt, y mượn bạc của phú thương, trả nợ làm sao đây, tín dự uy vọng có thể biến thành bạc không? Dù Tống Tân Nho thật sự trả bạc cho y từ Châu phủ, thì bạc ấy nhất định cũng là bạc cướp đoạt từ quận huyện khác của Dự Châu, con chỉ nói y ân từ với nhân công dưới trướng mình, nhưng con không thấy y không quan tâm tới sống chết dân chúng quận khác sao?”
“Tống Tân Nho độc chiếm khố ngân, Tô Cẩn Khiêm cũng không cảm kích, trên tấu chương này nói Tống Tân Nho bảo y rằng vận chuyển không linh hoạt, khai xuân nhất định có thể bù lại, nếu không có lời hứa này, Tô Cẩn Khiêm có gan lớn bằng trời cũng không dám đi vay bốn vạn tám ngàn lượng.”
“Y không cảm kích?” Hoàng đế nhìn lục nhi tử của mình mà cười, “Y không cảm kích, vì sao ban đầu thay Tống Tân Nho nhận tội? Nếu Tống Tân Nho vốn dĩ vô tội, y nhận cái gì?”
Dục Thanh không lời để đáp, Hoàng đế nói tiếp: “Nếu luận hành quân chiến tranh, tất cả ca ca đệ đệ không ai theo kịp con được, nếu luận chính vụ, con cần học Tam ca của con nhiều đấy. Ta đưa tấu chương của Phương Đỗ Nhược cho Dục Sơ đọc, con biết nó nói gì không?”
“Nhi thần không biết.”
“Nó nói giết Tống Tân Nho hay không chỉ là chuyện nhỏ, nhưng Tô Cẩn Khiêm thì không thể không giết.”
Dục Thanh khó hiểu, chỉ mở to đôi mắt trong ngần nhìn Hoàng đế.
“Tô Cẩn Khiêm là người tốt, quan tốt, quả nhân tất nhiên biết. Nhưng người tốt như vậy sao lại bao che cho người xấu như Tống Tân Nho, con có nghĩ tới không?”
“Tống Tân Nho có ơn với y?”
Hoàng đế giễu cợt cười, “Năm đó Tô Cẩn Khiêm học cao trung tiến sĩ, Tống Tân Nho là chủ khảo của y, cái nghĩa chủ tọa môn sinh này là ân tình lớn nhất thiên hạ. Thiên tử mở khoa tuyển sĩ, là vì mưu cầu hiền tài trị quốc, bây giờ lại thành thủ đoạn móc nối giữa quan viên sĩ tử. Chủ khảo đều biến thiên ân thành ân huệ của chính mình, biến quốc sĩ thành bề tôi của mình, tiến sĩ đăng khoa chỉ biết tạ ơn chủ tọa kết đồng minh, không biết vì nước dốc sức vì quân tận trung. Triều ta kinh lịch mấy đời, khoa cử kết đảng ngày càng nghiêm trọng, cứ như vậy mãi thì những công khanh sĩ tử kia sẽ chẳng bao giờ biết được quốc gia này là quốc gia của ai, thiên hạ này là thiên hạ của ai!”
Dục Thanh bình thường chỉ biết dẫn quân tập võ, hoặc là sắp xếp kĩ càng quan hệ với các huynh đệ hoàng gia, lợi hại thiệt hơn trên triều đường hắn chưa bao giờ nghĩ thấu triệt như vậy, lúc này chỉ buông mắt không nói.
“Những đạo lý này Tam ca con rất hiểu, nó nói với quả nhân, Tô Cẩn Khiêm khuyến giàu giúp nghèo, dù sau này không có tiền mà trả, cũng tính là có thể tha, nhưng chỉ biết có ân sư không biết có thiên tử mới là đại tội đáng trảm. Minh chỉ giết y rồi, lấy một răn trăm, bè đảng khoa cử tất sẽ có điều thu liễm, nếu giữ y không chết, người trong thiên hạ sẽ coi y thành tấm gương tri ân báo đáp.”
Dục Thanh hiểu thiên lý quá đáng với nhân tình, Dục Sơ chủ trương từng chữ từng chữ nhằm trúng chỗ yếu hại, dù cách làm của Tô Cẩn Khiên có như thế nào cũng đều chỉ trích, động cơ này đã chú định y không thể bảo toàn sinh mệnh. Nghĩ đến đây, Dục Thanh nói với Hoàng đế: “Lần này nhi tử đắc thắng trở về, tất cả phong tước đều không nhận, chỉ xin phụ hoàng để Tô Cẩn Khiêm được toàn thây, cũng xem như phụ hoàng vì thành tích nhiều năm của y làm gương cho thiên hạ.”
Hoàng đế do dự chốc lát, đáp: “Con nói cũng có đạo lý, quả nhân cũng sợ tùy tiện trảm y, khó bình được dân ý Biện Lương. Chỉ là chu phê đã phát đi được hai ngày rồi, lúc này sửa lại, sợ không kịp nữa.”
Dục Thanh đứng dậy nói: “Khẩn xin phụ hoàng lập tức hạ chỉ, ngựa của nhi thần là chiến mã ngàn dặm, nhi thần đích thân truyền chỉ, nhất định đuổi kịp!”
Hoàng đế nghe vậy nhíu mày, “Con đi chinh chiến mấy tháng vừa mới hồi kinh, lao gân động cốt như vậy làm gì?”
Dục Thanh quỳ gối nói: “Khẩn xin phụ hoàng hạ chỉ!”
Hoàng đế dù thấy quyết định của Dục Thanh rất hoang đường, nhưng cũng cưng chiều hắn, hơn nữa hắn vừa lập công lớn, lúc này không muốn phật ý hắn, chỉ gật đầu đáp ứng.
Ngày hành hình sắc trời thật u ám, đến chí Ngọ mà mây vẫn mịt mù không tan. Phương Đỗ Nhược lệnh cho Tiểu Canh chuẩn bị một bình Trần nhưỡng, mấy đĩa thức ăn ngon, mang đến thăm Tô Cẩn Khiêm bị giam giữ trong nhà lao. Vào lao, chí hữu gặp lại, song song rơi lệ, Tiểu Canh ngồi cạnh cũng khóc rất nhiều, nức nở nói: “Chủ tử nhà tôi không uống được rượu, tôi thay chủ tử kính Tô đại nhân vài chén.”
Tô Cẩn Khiêm nén nước mắt, nâng chén nói: “Tô mỗ một giới tội nhân, Canh tiểu ca chớ gọi đại nhân nữa. Tâm ý này của Phương đại nhân và Canh tiểu ca, Tỗ mỗ không có gì để báo, nhưng kiếp sau nhất định trả lại.”
Tiểu Canh che miệng khóc, qua quýt uống mấy chén, lại khuyên Tô Cẩn Khiêm dùng bữa. Phương Đỗ Nhược ở bên cạnh không ngừng được nước mắt, Tiểu Canh nói: “Chủ tử đừng khóc nữa, chủ tử khóc như vậy, Tô đại nhân đi sẽ không vui đâu.”
Phương Đỗ Nhược gượng cười đáp: “Là ta không hiểu lý lẽ. Tô huynh một đời làm người thiện lương thuần chính, sau khi đi nhất định sẽ đến Niết bàn cực lạc, Đỗ Nhược sẽ quay về kinh mời cao tăng Bạch Mã tự vãng sinh siêu độ cho Tô huynh.”
Tô Cẩn Khiêm cười nói: “Phương đại nhân đúng là người tu Phật, Tô mỗ cũng không tin sinh tử nhân quả, chỉ xin Phương đại nhân sau này Thanh minh ngày giỗ, có thể thổi một khúc hỏi thăm Tô mỗ, Tô mỗ dưới suối vàng có biết cũng yên lòng nhắm mắt.”
Phương Đỗ Nhược thấy đau lòng khó nén, chỉ kiên cường nuốt lệ, gật đầu đáp ứng.
Giờ Ngọ hai khắc, quan giám trảm vào trong lao dẫn người đi, Tô Cẩn Khiêm trên xe tù xiềng xích khắp người, một đường đi qua châu phủ chủ nhai, dân chúng trong thành đều biết thanh danh làm quan của y, gương mặt tất cả đều ưu sầu, cũng có bách tính từ Biện Lương tới, mọi người đều quỳ gối ở cả hai mặt của xe tù, dọc đường tiếng khóc không dứt. Xung quanh pháp trường dân chúng Biện Lương đã vây kín từ lâu, thấy Tô Cẩn Khiêm xuống xe đi tới bên đao trảm mà quỳ xuống, đều khóc lóc thất thanh, tiếng thán oan ức xót thương động trời. Quan giám trảm thấy dân tình kích động, e sợ trì hoãn sẽ sinh sự, mắt thấy giờ Thìn đã đến, không muốn chờ thêm nữa, rút lệnh bài ném trên đất quát: “Hành hình!”
Dân chúng khóc càng tang thương, đều chen lấn đến giữa pháp trường. Đao phủ không dám trì hoãn, giơ tay chém xuống, thoáng chốc máu tươi phun trào. Phương Đỗ Nhược không đành lòng nhìn, chỉ nhắm mắt rơi lệ, dường như vò nát cả khăn tay. Chợt nghe dân chúng vây xem kinh hô, mở mắt nhìn lên, ngân y thiếu niên cưỡi bạch mã phóng qua đoàn người, móng tóe máu tươi, nhìn thủ cấp trên mặt đất, đương trường ngẩn người.
Ngay lập tức không ngừng roi ngựa cuồn cuộn, cuối cùng chầm chậm từng bước. Dục Thanh lướt qua pháp trường đọng ứ máu tươi nhìn sắc mặt Phương Đỗ Nhược tái nhợt, môi run run, cúi đầu gọi tên y.