Ngày Đầu Tiên

Chương 16

Hydra

Chúng tôi rời tàu chở khách vào cuối giờ sáng. Bộ dạng Walter và tôi hẳn phải thảm thương lắm thì vẻ mặt dì tôi mới như thế kia khi trông thấy hai đứa. Bà rời chiếc ghế gấp và khoảng sân hiên trước quầy hàng để chạy vội ra đón chúng tôi.

- Các cháu bị tai nạn hả?

- Sao dì lại hỏi thế Walter hỏi lại, cùng lúc chỉnh đốn đầu tóc cho gọn ghẽ.

- Các cháu đã nhìn nhau chưa?

- Cứ cho là chuyến đi hơi sóng gió hơn so với dự kiến, nhưng bọn cháu rất vui, Walter nói liên mồm với giọng hào hứng. Một tách cà phê sẽ làm cháu khỏe ra nhiều. Và hai viên aspirin để giải thoát chân cháu khỏi chứng chuột rút đau kinh khủng, dì không biết cháu trai của dì nặng thế nào đâu.

- Cân nặng của cháu trai dì thì có gì liên quan gì đến chân cháu hả Walter?

- Không liên quan gì ạ, cho đến khi cậu ta ngồi trên đầu gối cháu suốt một tiếng đồng hồ.

- Mà tại sao Adrian lại ngồi trên đầu gối cháu thế?

- Ôi chao, thì bởi thế đấy, chỉ có một chỗ ngồi duy nhất để du hành trong không gian! Tốt rồi, dì uống cùng bọn cháu bình cà phê nhỏ này nhé?

Dì tôi từ chối lời mời, dì còn phải tiếp khách hàng, dì vừa nói vừa đi khỏi. Walter và tôi nhìn nhau kinh ngạc, cửa hàng của dì đang vắng khách hơn bao giờ hết.

- Tôi phải thừa nhận là chúng ta ăn mặc khá cẩu thả, tôi nói với Walter.

Tôi vẫy tay gọi bồi bàn, lôi từ túi ra chiếc mặt dây chuyền rồi đặt lên mặt bàn.

- Giá như tôi hình dung được rằng vật này sẽ gây cho chúng ta ngần ấy rắc rối...

- Theo anh thì vật này được dùng vào việc gì? Walter hỏi tôi.

Tôi thành thực đáp rằng tôi không hề hay biết những điểm xuất hiện khi ta đưa nó lại gần một nguồn sáng mạnh có thể biểu thị cho điều gì?

- Mà không phải bất cứ điểm nào đâu nhé, Walter nói tiếp, chúng đều sáng lấp lánh!

Phải rồi, cái điểm này đều sáng lấp lánh, nhưng chỉ dựa vào đó mà rút ra kết luận thì sẽ là quá vội vàng, vẫn còn công việc khó khăn mà một nhà khoa học nghiêm túc không được phép quyết định. Hiện tượng chúng tôi được chứng kiến rất có thể chỉ là ngẫu nhiên.

- Trạng thái xốp mà mắt thường không nhận ra là rất nhỏ, đến mức cần phải có một ánh sáng cực mạnh mới có thể xuyên qua thứ chất liệu này. Có phần giống với một vách đập bị rò rỉ dưới tác động của áp lực nước quá lớn.

- Đừng nói với tôi là cô bạn nhà khảo cổ của anh không thể cho chúng ta biết về nguồn gốc hay niên đại của vật này đấy nhé? Anh phải công nhận điều đó dẫu sao cũng hơi kỳ quặc đi.

Tôi không nhớ Keira từng bị kích thích trí tò mò giống như chúng tôi lúc này bèn kể lại với Walter chuyện đó.

- Người phụ nữ này đã bỏ lại nhà anh một chiếc vòng cổ có tính năng kỳ lạ mà chúng ta đã biết, thật là trùng hợp ngẫu nhiên nhỉ! Người ta mưu toan tước đoạt chiếc mặt dây này khỏi tay chúng ta, chúng ta phải chạy trốn như hai kẻ vô tội bị các thế lực xấu xa truy đuổi mà anh vẫn chỉ xem đó là sự tình cờ thôi sao? Người ta gọi cái đó là tính nghiêm túc chính xác trong khoa học đấy nhỉ! Chí ít anh có thể nhìn cho rõ loạt ảnh tôi đã tài tình chụp được tại Héraklion và nói tôi biết liệu những hình ảnh này có khiến anh nghĩ tới cái gì khác ngoài ảnh chụp cận cảnh miếng pho mai Gruyère không?

Walter đặt chiếc máy ảnh kỹ thuật số lên mặt bàn nơi chúng tôi đang dùng bữa sáng. Tôi xem lần lượt từng bức ảnh, kích cỡ của chúng quá nhỏ để tôi có thể hình dung một cách rõ ràng. Với sự tập trung chú ý cao độ và ý chí kiên cường nhất đời, tôi cũng chỉ nhìn thấy những điẻm sáng; không gì cho phép tôi khẳng định đó là những ngôi sao, hoặc một chòm sao nào đó, hoặc thậm chí là một đám sao.

- Những bức ảnh này chẳng chứng tỏ với tôi điều gì cả, tôi rất tiếc.

- Vậy thì mặc xác kỳ nghỉ của tôi, chúng ta trở về Luân Đôn thôi! Walter kêu lên. Tôi muốn biết tường tận mọi chuyện. Về đến Học viện, chúng ta sẽ tải loạt ảnh này lên máy tính và anh sẽ có thể nghiên cứu chúng trong điều kiện thuận lợi hơn.

Tôi không hề muốn rời khỏi Hydra, nhưng Walter say sưa tìm kiếm lời giải đáp cho vấn đề này đến nỗi tôi không muốn làm hắn thất vọng. Hắn đã đầu tư chừng ấy công sức giúp tôi chuẩn bị tham dự buổi thuyết trình, tôi sẽ hóa ra kẻ bạc bẽo nếu để hắn lên đường một mình. Chỉ còn việc trở về nhà và thông báo với mẹ về chuyến xuất phát gấp gáp trước thời hạn của tôi.

Mẹ nhìn tôi chăm chú, nhận ra quần áo tôi xộc xệch bẩn thỉu, những vết cào trên cẳng tay, hai vai bà liền xuội xuống như thể thế giới này vừa sụp đổ.

Tôi giải thích cho mẹ biết nguyên do Walter và tôi phải trở về Luân Đôn, hứa với bà rằng chuyến đi này chỉ là tạm thời, và tôi sẽ trở lại đảo trước cuối tuần.

- Nếu mẹ hiểu không nhầm, bà bảo tôi, con muốn về Luân Đôn để sao chép sang máy tính cá nhân những bức ảnh con đã chụp cùng anh bạn này phải không? Sao con không nghĩ ra cách đơn giản hơn là đến cửa hàng của dì Elena? Dì ấy bản cả loại máy ảnh chụp một lần đấy, nếu ảnh chụp hỏng con chỉ việc vứt chúng vào thùng rác!

- Bọn con có lẽ đã phát hiện ra điều gì đó quan trọng liên quan đến Walter và con, và chúng con phải làm rõ chuyện này.

- Nếu các con cần chụp cả hai đứa vào ảnh để làm rõ mọi chuyện, con chỉ cần mở lời nhờ mẹ con thôi, mẹ sẽ nói cho con biết ngay tức khắc!

- Nhưng mẹ đang nói về chuyện gì thế ạ?

- Chả về chuyện gì cả, con cứ tiếp tục coi mẹ là lão lẩm cẩm đi!

- Con phải về văn phòng làm việc, ở đây con không có đủ phương tiện cần thiết và con cũng không tài nào hiểu nổi tại sao mẹ lại có vẻ phật ý như thế?

- Bởi vì mẹ muốn con đặt lòng tin nơi mẹ, con nghĩ là mẹ sẽ yêu con ít đi nếu thú thật với mẹ ư? Nhưng ngay cả khi con thú thật với mẹ là con đang yêu con lừa buộc ở cuối vườn kia, con vẫn cứ là con trai của mẹ kia mà, Adrian!

- Mẹ ơi, mẹ có chắc là mẹ ổn không?

- Mẹ thì chắc là ổn, nhưng còn con thì mẹ không chắc tí nào; hãy quay về Luân Đôn bởi vì chuyện đó quan trọng đến thế kia mà, có lẽ mẹ vẫn còn sống khi con quay về đây, ai mà biết được?

Khi mẹ diễn cho tôi xem một màn bi kịch Hy Lạp, nghĩa là có điều gì đó đang khiến bà rối trí thực sự. Nhưng tôi không muốn hình dung ra cái điều đang khiến bà xáo trộn, chừng nào ý nghĩ duy nhất thoáng qua đầu tôi lại lố bịch đến thế.

Chuẩn bị hành lý xong xuôi, tôi gặp Walter trên cảng. Mẹ tôi tha thiết muốn tiễn chúng tôi. Dì Elena ra bến cảng gặp bà, và họ vẫy tay rối rít để từ biệt khi con tàu tiến ra khơi. Rất lâu sau này tôi mới biết là mẹ còn hỏi dì Elena, liệu dì có nghĩ tôi sẽ ngồi trên đầu gối Walter suốt chuyến hành trình không. Tôi không hề hay biết rằng mình không thể quay lại Hydra trong một sớm một chiều.

Amsterdam

Jan Vackeers tra giờ trên đồng hồ đeo tay, Ivory vẫn chưa xuất hiện và ông bắt đầu thấy lo. Đối thủ chơi cờ cùng ông vốn không bao giờ sai hẹn và sự chậm trễ này không giống với ông ấy chút nào.Ông lại gần chiếc bàn gắn bánh xe, kiểm tra lại khay đồ ăn ông đã tự tay chuẩn bị từ trước. Ông đang nhấm nháp vài thứ quả khô trang trí đĩa phô mai thì có tiếng chuông cửa vang lên từ phòng ngoài của ngôi nhà sang trọng nơi ông đang ở, cuối cùng thì ván cờ cũng có thể bắt đầu. Vackeers ra mở cửa, quản gia mang tới cho ông một chiếc phong bì đặt trên khay bạc.

- Thưa ngài, lá thư này vừa được chuyển tới.

Vackeers lui vào nhà để đọc bức thư vừa nhận được. Trên nền giấy bristol là vài dòng dược thảo bằng bút lông:

Xin lỗi vì phải lỗi hẹn với anh, một việc cần kíp vào phút cuối buộc tôi phải rời Amsterdam, tôi sẽ sớm trở lại.

Thân ái,

Ivory.

TB: Chiếu tướng hay dồn vào thế bí thì ván cờ cũng chỉ bị hoãn lại mà thôi.

Vackeers đọc đi đọc lại lời tái bút đến ba lần, tự hỏi Ivory muốn nhắn nhủ gì qua cái câu ngắn ngủi này, một khi đã đến từ Ivory, dòng chữ đó không hề bâng quơ. Ông không biết bạn mình đi đâu, và giờ đã quá muộn để theo dõi Ivory. Về chuyện yêu cầu các đồng minh tiếp sức thì... Chính ông đã cố nài để người ta gạt Ivory sang một bên, làm thế nào để giải thích với họ rằng người này có lẽ đã giở quẻ trước?

Chiếu tướng hay dồn vào thế bí, Ivory đã viết như thế đấy. Vackeers mỉm cười rồi nhét lá thư vào túi áo.

Sân bay Schiphol, Amsterdam. Vào giờ muộn này chỉ còn vài chiếc máy bay chuẩn bị cất cánh để đảm bảo giao thông nối liền giữa các thủ đô lớn của châu Âu.

Ivory đưa thẻ lên máy bay cho cô tiếp viên hàng không rồi leo lên chiếc cầu thang nhỏ. Ông ngồi xuống hàng ghế đầu, cài dây an toàn rồi nhìn qua ô cửa kính. Một tiếng rưỡi đồng hồ nữa, ông sẽ xuống sân bay nhỏ của City. Một chiếc ô tô đợi sẵn ông ở lối ra, đưa ông tới phòng khách sạn đặt trước tại Dorchester, tất cả đã sắp đặt đâu vào đấy. Vackeers hẳn đã nhận được lời nhắn ông gửi đến, và ý nghĩ duy nhất này khiến ông mỉm cười.

Ivory nhắm mắt, đêm còn dài lắm và phải tranh thủ ngủ đi thôi.

Sân bay Athene

Walter tha thiết bằng mọi giá phải mang từ Hy Lạp về một món quà lưu niệm để tặng cho cô Jenkins. Hắn mua một chai rượu anis tại cửa hàng miễn thuế, rồi một chai nữa, phòng trường hợp chai thứ nhất bị vỡ, hắn nói, và chai thứ ba để làm quà. Lần gọi cuối cùng, tên hai chúng tôi vang lên trên loa phóng thanh, giọng nói không lấy gì làm nhã nhặn cho lắm và tôi hiểu ngay ánh mắt kết tội của các hành khách khi chúng tôi vào đến cabin. Sau cuộc chạy hộc tốc trong hành lang, chúng tôi đến vừa kịp lúc chịu lời quở trách của tiếp viên trưởng dành cho chúng tôi ở cửa lên máy bay rồi một vài lời trách cứ khi chúng tôi đi ngược xuống đuôi máy bay tới hai chỗ duy nhất còn trống ở hàng ghế cuối. Chênh lệch múi giờ giữa Hy Lạp và Anh cho phép tiết kiệm một tiếng đồng hồ, chúng tôi sẽ về tới Heathrow lúc nửa đêm. Walter ngấu nghiến suất ăn phục vụ trên máy bay, và cả suất ăn tôi tình nguyện nhường cho hắn. Sau khi đã thu dọn xong các khay đựng đồ ăn, cô tiếp viên hàng không bèn chỉnh đèn trong khoang cho bớt sáng. Tôi áp mặt vào ô cửa kính và tranh thủ ngắm nhìn cảnh vật. Quan sát bầu trời từ độ cao mười nghìn mét là khoảnh khắc tuyệt vời đối với một nhà thiên văn.

Sao Bắc đẩu lấp lánh ngay phía trước, tôi quan sát chòm Tiên Hậu và đoán được bên phải nó là chòm Tiên Vương. Tôi liền quay sang Walter đang tranh thủ đánh một giấc.

- Anh mang theo máy ảnh ở đây không?

- Nếu là để chụp vài bức ảnh lưu niệm trong máy bay thì không. Nếu xét những thứ tôi vừa đánh chén và khoảng cách giữa chúng ta với hàng ghế trước, trông tôi sẽ như một con cá voi đóng hộp.

- Không, Walter, không phải để chụp anh đâu.

- Trong trường hợp này, nếu anh có cách nào đó để lấy nó ra từ trong túi tôi thì nó sẽ là của anh, tôi không thể cử động được nữa rồi.

Phải thừa nhận chúng tôi đang bị lèn như cá hộp, rồi lấy được máy ảnh ra cũng chẳng phải việc dễ dàng. Ngay khi lấy được ra rồi, tôi liền xem lại loạt ảnh chụp tại Héraklion. Một ý nghĩ thoáng qua đầu tôi, hết sức điên rồ, rồi tôi lại bối rối khi nhìn qua ô cửa kính thêm lần nữa.

- Tôi nghĩ chúng ta đã làm đúng khi quay trở lại Luân Đôn, tôi nói với Walter rồi cất máy ảnh vào túi áo mình.

- Sao nhỉ, cứ chờ đến sáng mai khi ăn bữa sáng tại sân hiên của một quán ăn trong tiết trời mưa gió, rồi chúng ta sẽ thấy liệu anh còn giữ ý kiến đó không.

- Anh luôn được chào đón tại Hydra mà.

- Rốt cuộc anh có để yên cho tôi ngủ không đấy, anh tin là tôi không nhìn thấy anh cười bò ra mỗi lần đánh thức tôi dậy chắc?

Luân Đôn

Tôi tiễn Walter lên taxi, và khi về đến nhà, tôi vội đến ngồi trước máy tính. Sau khi tải hết ảnh lên máy, tôi chăm chú quan sát từ đầu đến cuối rồi quyết định làm phiền một anh bạn cũ đang sống cách Luân Đôn này hàng nghìn kilômét. Tôi gửi cho anh một bức thư điện tử, đính kèm những ảnh Walter chụp, và hỏi xem những hình ảnh đó gợi lên cho anh điều gì. Ngay lập tức tôi nhận được một lời nhắn từ anh, Erwan vui khi đọc thư tôi. Anh hứa sẽ nghiên cứu các hình ảnh tôi vừa gửi rồi trả lời tôi ngay khi có thể. Một chiếc kính thiên văn vô tuyến của Atacama lại bị hỏng và anh đang bận nhiều việc.

Ba ngày sau, tôi nhận được tin anh lúc nửa đêm. Lần này thì không phải qua thư mà là qua điện thoại, Erwan nói bằng một giọng phấn khích tôi chưa bao giờ nghe thấy ở anh.

- Cậu làm thế nào để tạo ra một điều kỳ diệu như thế? Anh kêu lên, thậm chí quên luôn phần chào hỏi mào đầu.

Vì tôi không biết trả lời anh ra sao, Erwan liền đặt ra cho tôi một câu hỏi khác, câu hỏi này khiến tôi kinh ngạc hơn nữa.

- Nếu cậu đang mơ đến giải Nobel thì năm nay cậu hoàn toàn đủ cơ hội rồi đấy! Tôi không hề biết cậu làm thế nào mà dựng nên mô hình này, nhưng đây đúng là một điều kỳ diệu! Nếu cậu gửi những bức ảnh này đến để khiến tôi kinh ngạc thì xin chúc mừng, cậu đã làm được rồi đấy!

- Anh đã nhìn thấy gì hả Erwan, nói cho tôi biết đi!

- Cậu biết quá rõ thứ tôi nhìn thấy còn gì, đừng giở trò nịnh hót, làm thế nực cười lắm. Giờ thì cậu sẽ nói cho tôi biết cậu làm thế nào để đạt đến thành tích bậc thầy đó hay cậu vẫn muốn khiến tôi cáu tiết nào? Cậu cho phép tôi chia sẻ những hình ảnh này với các bạn của chúng ta đang làm việc tại đây chứ?

- Chớ làm thế! Tôi van nài Erwan.

- Tôi hiểu, anh thở dài, tôi đã vinh dự được cậu tin tưởng cho xem kỳ quan đó trước khi ra thông cáo chính thức. Khi nào thì cậu mới công bố tin này? Tôi chắc chắn là với tác phẩm này trong tay, cậu sẽ lấy được thị thực để gặp lại chúng tôi, nhưng tôi cũng ngờ là từ giờ trở đi cậu phải cân nhắc nhiều trong việc lựa chọn; tất cả các nhóm nghiên cứu về thiên văn học đều sẽ muốn cậu gia nhập nhóm của họ.

- Erwan, tôi van anh, hãy tả cho tôi biết anh đã nhìn thấy gì nào!

- Cậu đã chán ngấy việc phải nhắc đi nhắc lại điều đó rồi nên muốn tôi nói cho nghe phải không? Tôi hiểu, anh bạn, nếu ở vào vị trí của cậu tôi cũng phấn khích y như thế. Nhưng có qua có lại, đầu tiên cậu phải giải thích cho tôi biết cậu đã làm như thế nào cái đã.

- Tôi đã làm gì thế nào cơ?

- Đừng chế giễu tôi, cũng đừng nói với tôi rằng cậu tình cờ đạt được kết quả này.

- Erwan, anh nói trước đã, xin anh đấy.

- Tôi đã mất ba ngày để đoán xem cậu định dẫn tôi đi đâu. Đừng bắt tôi nói ra cái điều mà tôi sẽ không nói, tôi đã hết sức nhanh chóng nhận ra các chòm Thiên Nga, Phi Mã và Tiên Vương ngay cả khi độ sáng biểu kiến không khớp, ngay cả khi các góc sai lệch và khoảng cách vô lý. Nếu cậu nghĩ có thể giăng bẫy tôi dễ dàng đến thế thì cậu nhầm rồi đấy. Tôi tự hỏi cậu đang chơi trò gì đây, tại sao lại kéo tất cả những chòm sao này lại gần nhau và theo những phương trình nào. Tôi tìm kiếm phương trình dẫn cậu đến chỗ định tọa độ địa lý của chúng như vậy, và chính nó đã khiến tôi phải suy ngẫm. Tôi hơi gian lận một chút, phải thú thậ tvới cậu như vậy, tôi đã dùng hệ thống máy tính của chúng ta và bắt chúng phải thực hiện những tính toán vô cùng phức tạp suốt hai ngày qua, nhưng khi kết quả được đưa ra, tôi không hề hối tiếc vì đã huy động đến những phương tiện này. Tôi đã nhìn chính xác, trừ có điều dĩ nhiên, tôi không thể đoán trước được thứ hiện ra ở trung tâm những hình ảnh lạ thường này.

- Và anh đã thấy gì hả Erwan?

- Tinh vân Bồ Nông.

- Và tại sao điều đó lại khiến anh phấn khích đến thế?

- Bởi vì nó trông hệt như chúng ta có thể quan sát thấy từ Trái đất cách đây bốn triệu năm!

Tim tôi đập thình thịch, tôi cảm thấy chân mình rời rã; bởi vì trong toàn bộ chuyện này, tất thảy đều vô nghĩa. Điều Erwan vừa tiết lộ với tôi đơn giản là phi lý. Chuyện một vật thể bí hiểm như thế có thể phóng chiếu ra một mảnh từ bầu trời đã là khó hiểu; chuyện bầu trời này lại hệt như ta có thể quan sát từ Trái đất cách đây gần nửa tỷ năm còn là điều bất khả kháng.

- Adrian, giờ cậu làm ơn nói cho tôi biết cậu đã làm thế nào để có được một mô hình hoàn hảo đến thế đi?

Tôi không biết trả lời anh bạn Erwan thế nào.

- Tôi biết, tôi từng là con vẹt nhắc theo anh từng từ một suốt nhiều tuần lễ, và hẳn nhiên phải nhớ tất cả những thứ anh đã dạy cho tôi, nhưng kể từ thất bại của chúng ta tại Luân Đôn, những tuần tiếp theo đủ nhiều biến động để tôi không hề cảm thấy tội lỗi nếu quên bẵng đi vài thứ.

- Đám bụi tinh vân là nơi khởi đầu của các ngôi sao, một đám mây khuếch tán, bao gồm khí và bụi, nằm trong vũ trụ giữa hai thiên hà, tôi đáp ngắn gọn với Walter, những ngôi sao hình thành từ đó.

Tâm trí tôi đã ở tận đâu đâu, những suy nghĩ của tôi đã cách xa Luân Đôn hàng nghìn kilômét, về điểm cực Đông châu Phi, nơi có cô gái đã bỏ quên chiếc mặt dây chuyền kỳ lạ này tại nhà tôi. Câu hỏi đang ám ảnh tôi không ngừng, có thực là cô ấy bỏ quên nó hay không. Khi tôi đặt câu hỏi này với Walter, hắn lắc đầu tỏ ý coi tôi là một kẻ ngây thơ khờ khạo.

Ngày hôm sau, trên đường đến Học viện, tôi có một cuộc gặp gỡ kỳ lạ. Tôi tìm quán cà phê tại một trong các tòa nhà mới đã tràn ngập đường phố thủ đô trong thời gian tôi lưu lại Chilê. Dù đó có là khu phố nào hay con phố nào, đồ trang trí vẫn luôn đồng nhất, các quầy bánh ngọt vẫn vậy, và phải tự trang bị một chứng chỉ ngôn ngữ lố lăng mới có thể gọi những tổ hợp cà phê và trà hết sức đa dạng và những tên gọi lạ lùng trong quán.

Một người đàn ông lại gần trong khi tôi đang ngồi tại quầy, đợi được phục vụ tách “Skinny Cap with wings” (cứ tạm dịch là Cappuccino để mang đi). Ông ta trả tiền thứ đồ uống tôi vừa gọi và hỏi tôi có thể dành cho ông ta ít phút không; ông ta muốn nói về chủ đề mà theo ông ta, tôi đang hết sức quan tâm. Ông ta dẫn tôi về phía phòng chính và chúng tôi ngồi vào hai chiếc ghế bành da, hai bản sao rẻ tiền nhưng khá tiện dụng. Người đàn ông nhìn tôi chằm chằm hồi lâu trước khi lên tiếng.

- Có phải cậu đang làm việc tại Học viện Khoa học?

- Vâng, đúng là thế, nhưng tôi đang hân hạnh tiếp chuyện ai thế này?

- Tôi thường nhìn thấy cậu ở đây mỗi sáng. Luân Đôn là một thủ đô lớn nhưng mỗi khu phố lại giống như một ngôi làng, đó chính là cái lưu giữ vẻ duyên dáng cho thành phố quá đỗi rộng lớn này.

Tôi không nhớ đã gặp người đang trò chuyện cùng, nhưng vì tính tôi vốn đãng trí nên tôi không thấy có lý gì lại nghi ngờ lời nói này.

- Sẽ là dối trá nếu nói với cậu rằng cuộc gặp gỡ giữa chúng ta hôm nay hoàn toàn tình cờ, ông ta nói tiếp. Tôi đã muốn bắt chuyện với cậu từ ít lâu nay.

- Chuyện này hình như đã được thực hiện rồi, tôi có thể giúp gì cho ông đây?

- Cậu có tin vào số phận không, Adrian?

Nghe một người hoàn toàn xa lạ gọi mình bằng tên thường gây ra một cảm giác lưỡng lự nào đó, cảm giác của tôi lúc này chính xác là như vậy.

- Cứ gọi tôi là Ivory bởi vì tôi đã mạo muội gọi cậu là Adrian. Có lẽ tôi đã lạm dụng cái đặc quyền dành cho tuổi tác của mình chăng.

- Ông muốn gì?

- Chúng ta có hai điểm chung... Cũng như cậu, tôi là một nhà khoa học. Lợi thế của cậu là còn trẻ và đã nhiều năm liền được sống với niềm đam mê. Còn tôi chỉ là một giáo sư già cả đang đọc lại những cuốn sách phủ đầy bụi để giết thời gian.

- Ông dạy môn gì vậy?

- Vật lý thiên văn, cũng khá gần gũi với chuyên môn của cậu, phải không?

Tôi gật đầu xác nhận.

- Công việc của cậu tại Chilê hẳn phải vô cùng thú vị, tôi rất lấy làm tiếc khi thấy cậu phải quay về đây. Tôi hình dung là công việc tại trạm Atacama hẳn phải khiến cậu nhớ quay nhớ quắt.

Tôi thấy người đàn ông này biết hơi quá nhiều về mình, và vẻ bề ngoài bình thản của ông ta cũng không thể khiến tôi bớt e ngại.

- Đừng đa nghi thế. Nếu tôi biết về cậu đôi chút thì đó là vì, bằng cách nào đó, tôi đã có mặt khi cậu thuyết trình dự án riêng trước các thành viên ban giám khảo của Quỹ Walsh.

- Bằng cách nào đó ư?

- Cứ cho là thay vì là thành viên ban giám khảo, tôi lại là thành viên ban tuyển chọn. Tôi đã đọc hồ sơ của cậu rất kỹ. Nếu tôi được quyền quyết định thì cậu đã thắng giải thưởng đó rồi. Theo tôi, công trình của cậu xứng đáng được khích lệ nhất.

Tôi cảm ơn về lời khen và hỏi xem tôi có thể giúp gì được cho ông ta chăng.

- Người giúp được tôi không phải là cậu, Adrian ạ, cậu thấy đấy, mà ngược lại. Người phụ nữ trẻ cùng cậu rời khỏi buổi thi ngày hôm đó, cô gái đã giành giải thưởng....

Lần này, tôi thực sự cảm thấy khó chịu và hơi mất bình tĩnh.

- Ông có quen Keira?

- Phải rồi, dĩ nhiên, người lạ đang tiếp chuyện tôi vừa đáp vừa nhấp môi tách cà phê. Tại sao hai người không liên lạc với nhau nữa?

- Tôi nghĩ chuyện này hoàn toàn riêng tư, tôi vặc lại, không tìm cách giấu giếm lâu hơn nữa rằng cuộc nói chuyện với ông ta không hề khiến tôi thích thú.

- Tôi không muốn tọc mạch chuyện người khác và mong cậu thứ lỗi, nếu câu hỏi của tôi xét về mặt nào đó đã xúc phạm cậu, người đang trò chuyện với tôi nói tiếp.

- Thưa ông, ông vừa nói chúng ta có hai điểm chung, vậy điểm chung thứ hai là gì?

Người đàn ông lôi từ trong túi ra một tấm ảnh rồi di nó trên mặt bàn. Đó là một tấm ảnh cũ kỹ chụp bằng máy chụp tự động, nước ảnh phai màu chứng tỏ bức hình không phải mới được chụp ngày hôm qua.

- Tôi sẵn sàng đánh cược rằng bức ảnh này không hề xa lạ gì với cậu, người đàn ông nói.

Tôi nhìn kỹ bức ảnh chụp một vật có hình dạng gần giống hình chữ nhật.

- Cậu có biết điều đáng tò mò nhất về đối tượng của bức ảnh là gì không? Đó là chúng ta không thể xác định được niên đại của nó. Những phương pháp tinh vi nhất cũng không thể làm được gì, không thể xác định được tuổi của đồ vật này. Tôi đã tự đặt ra cho mình câu hỏi này suốt ba mươi năm qua và luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ phải rời xa thế giới này trong khi chưa biết được câu trả lời. Thật ngu ngốc, nhưng chuyện này dù sao cũng khiến tôi xáo trộn. Tôi đã phải tự thuyết phục mình thêm nhiều lần nữa, tự nhủ rằng khi nào chết đi, chuyện này sẽ chẳng còn quan trọng chút nào nữa nhưng vô ích, không tài nào quên đi được, tôi vẫn trăn trở từ sáng đến tối rồi lại từ tối đến sáng.

- Và điều gì đó mách bảo ông rằng tôi có thể giúp được trong chuyện này?

- Cậu nghe không kỹ rồi, Adrian, tôi đã nói với cậu rằng chính tôi mới là người giúp cậu chứ không phải ngược lại. Quan trọng là cậu tập trung vào chuyện tôi đang nói đây. Điều bí ẩn này sớm muộn cũng xâm chiếm toàn bộ suy nghĩ của cậu thôi; khi cậu quyết định sẽ thực sự quan tâm đến nó, suy nghĩ riêng sẽ mở ra trước cậu những cánh cửa dẫn tới một chuyến hành trình khác thường, một cuộc du hành sẽ dẫn cậu đi xa hơn những gì cậu có thể hình dung. Tôi ngờ rằng ngay lúc này cậu đang nhìn tôi không khác gì nhìn một lão già điên loạn, nhưng rồi phán xét của cậu sẽ thay đổi. Hiếm có ai đủ điên để bắt tay vào thực hiện những giấc mơ của bản thân, xã hội thường buộc họ phải trả giá cho một hành vi kỳ quặc đến mức ấy. Xã hội luôn sợ hãi và ganh ghét, Adrian ạ, nhưng liệu lý do này có đủ để ta từ bỏ? Lật đổ những điều đã được thằ nhận, xáo lộn những điều tin chắc không phải là một lẽ sống thực sự hay sao? Đó không phải là tinh hoa tinh thần khoa học hay sao?

- Ông đã gánh chịu những rủi ro như cái giá mà xã hội bắt ông phải trả ư, ông Ivory?

- Xin cậu, đừng gọi tôi là ông. Hãy để tôi được chia sẻ cùng cậu một thông tin sẽ khiến cậu thích thú, tôi chắc chắn như vậy. Đồ vật trong bức ảnh này, nó sở hữu một đặc tính khác, cũng độc đáo không khác gì đặc tính đầu tiên, mặt khác, đó cũng là điều khiến cậu thấy thú vị nhất. Khi người ta đặt nó dưới một nguồn sáng mạnh, nó sẽ hắt ra một xê ri những điểm kỳ lạ. Điều này có nhắc cậu nhớ đến thứ gì đó không?

Nét mặt tôi chắc hẳn đã để lộ cảm xúc thật, người đàn ông nhìn tôi và mỉm cười.

- Cậu thấy đấy, tôi đã không nói dối cậu, rõ ràng chính tôi mới là người giúp được cậu.

- Ông tìm thấy vật này ở đâu?

- Đó là cả một câu chuyện dài. Điều quan trọng là cậu biết đến sự tồn tại của nó, sau này chuyện đó sẽ có ích cho cậu.

- Bằng cách nào?

- Bằng cách tránh cho cậu việc mất quá nhiều thời gian băn khoăn tự hỏi liệu thứ cậu sở hữu phải chăng chỉ là một biến cố của tự nhiên. Chuyện này cũng bảo vệ cậu khỏi sự mù quáng thiếu suy xét con người thường mắc phải khi sợ phải đối diện với sự thực. Einstein từng nói rằng có hai thứ là vô hạn, Vũ trụ và sự ngu dốt của loài người, và khi nói như thế, ông hoàn toàn chắc chắn vế thứ hai.

- Ông đã biết được gì về mẫu vật sẵn có? Tôi hỏi.

- Tôi không sẵn có mẫu vật đó, tôi bằng lòng với việc nghiên cứu nó và tôi biết rất ít về nó, chao ôi. Vả lại, tôi cũng không muốn kể với cậu những kết quả thu được. Không phải vì không tin tưởng cậu, nếu không tin cậu thì tại sao tôi lại có mặt ở đây, đúng không? Nhưng chỉ sự tình cờ thôi thì chưa đủ. Trong trường hợp khả quan nhất, nó chỉ dùng để khơi dậy trí tò mò trong tinh thần khoa học. Chỉ có sự tài tình, phương pháp và liều lĩnh mới dẫn đến khám phá; tôi không muốn định hướng những nghiên cứu tới đây của cậu. Tôi muốn để cậu tự do lựac họn tiên nghiệm.

- Nghiên cứu nào? tôi hỏi, những giả thiết người đàn ông này đưa ra thực sự khiến tôi phát bực.

- Cho phép tôi hỏi cậu câu cuối cùng chứ, Adrian? Tương lai dành cho cậu trong cái Học viện Khoa học lừng danh này? Một ghế giảng viên chăng? Một lớp toàn những học viên xuất sắc, mỗi người đều tin chắc vào trí tuệ thông minh vượt bậc của bản thân chăng? Một mối quan hệ nồng nàn thắm thiết với cô sinh viên xinh nhất giảng đường chăng? Tôi đã trải qua tất cả những thứ đó, và tôi không nhớ nổi gương mặt nào cả. Nhưng tôi cứ nói, nói mãi mà không để cậu trả lời câu hỏi của tôi. Vậy thì là cái tương lai này chăng?

- Giảng dậy chỉ là một chặng trong đời tôi, sớm muộn gì tôi cũng sẽ quay lại Atacama.

Tôi còn nhớ đã nói điều này như một thằng nhóc vừa hãnh diện vì đã thuộc bài như cháo chảy vừa giận điên người vì phải đối chất với cái dốt nát của riêng mình.

- Tôi đã phạm phải sai lầm xuẩn ngốc trong đời mình, Adrian ạ. Tôi chưa thừa nhận sai lầm đó, vậy mà chỉ cần nghĩ đến việc thổ lộ với cậu đã khiến tôi thoải mái vô cùng. Tôi cứ ngỡ có thể làm chuyện đó một mình. Tự phụ vô cùng và cũng phí phạm thời gian vô cùng!

- Chuyện đó thì có liên quan gì đến tôi? Mà ông là ai mới được chứ?

- Tôi là hình ảnh phản chiếu của con người mà cậu có thể trở thành. Và nếu có thể tránh được cho cậu chuyện đó, tôi sẽ có cảm giác là giúp được cậu và tôi sẽ nhớ gương mặt cậu. Cậu chính là tôi cách đây nhiều năm. Điều này thật lạ, cậu biết đấy, khi soi thấy mình trong chiếc gương quá khứ. Trước khi tạm biệt, tôi muốn cho cậu biết một thông tin khác, có lẽ còn thú vị hơn cả bức ảnh mà tôi đã cho cậu xem. Keira hiện đang làm việc trên một di chỉ khảo cổ cách hồ Turkana một trăm hai mươi kilômét về hướng Đông Bắc. Cậu đang thắc mắc tại sao tôi lại cho cậu biết điều này đúng không? Bởi vì tới đây, khi cậu quyết định tới Êtiôpia để tìm cô ấy, cậu sẽ mất nhiều thời gian để có được thông tin này. Thời gian rất quý giá, Adrian ạ, vô cùng quý giá. Hân hạnh được làm quen với cậu.

Tôi ngạc nhiên vì cái bắt tay của ông ta, thẳng thắn và trìu mến, gần như dịu dàng. Ông ta quay về phía cửa ra vào rồi lại đi về phía tôi vài bước.

- Tôi có một việc nhỏ muốn nhờ cậu, ông ta nói, khi nào gặp Keira, cậu chớ nhắc đến cuộc gặp giữa hai chúng ta, chuyện này không có lợi cho cậu đâu. Keira là người tôi rất quý mến, nhưng không phải lúc nào cô ấy cũng dễ tính. Nếu trẻ lại bốn mươi tuổi, tôi đã ngồi lên máy bay thế vào chỗ của cậu rồi.

Cuộc trò chuyện này khiến tôi bối rối và không chỉ có thế. Tôi vẫn còn cảm thấy tiếc vì không biết đặt ra những câu hỏi cần thiết, và lẽ ra tôi nên ghi lại để nhớ chừng nào chúng còn nhiều đến thế.

Walter đi ngang qua trước ô cửa kính của quán cà phê, hắn vẫy tay chào tôi, đẩy cửa quán bước vào và đi tới bàn tôi.

- Mặt anh trông thảm quá! Hắn vừa nói vừa ngồi xuống chiếc ghế bành mà lão già lạ mặt Ivory vừa bỏ lại. Đêm qua tôi đã suy nghĩ nhiều, hắn tiếp, vừa hay gặp anh ở đây, chúng ta nhất định phải nói chuyện.

- Tôi nghe anh đây.

- Anh đang tìm lấy một cái cớ để gặp lại cô bạn gái của anh chứ gì? Có đấy, có đấy, đừng cãi, anh đang tìm cớ để gặp lại cô ấy! Tôi nghĩ sẽ không ngốc chút nào nếu hỏi cô ấy nguyên do thực sự khiến cô ấy bỏ quên chiếc mặt dây chuyền trên bàn đầu giường anh. Đổ hết cho sự tình cờ cũng được, nhưng đến mức này thì quá lắm!

* * *

Có những ngày được tạo nên từ những cuộc trò chuyện ngắn ngủi rốt cuộc sẽ đẩy bạn tới chỗ đưa ra một vài quyết định.

- Dĩ nhiên, tôi muốn đi cùng anh tới Êtiôpia, Walter nói tiếp, nhưng tôi sẽ không đi đâu!

- Nhưng tôi có nói là mình sẽ đi Êtiôpia hả?

- Không, nhưng dẫu sao anh vẫn sẽ tới đó.

- Tôi sẽ không đi mà không có anh.

- Không thể thế được, Hydra đã ngốn sạch chỗ tiền tiết kiệm còn lại của tôi rồi.

- Nếu chỉ vì điều này, tôi sẽ mua vé tặng anh.

- Vả lại đó cũng không phải vấn đề. Rất cảm ơn về sự hào phóng của anh, nhưng đừng đặt tôi vào tình huống khó xử như thế chứ.

- Đây không phải là hào phóng, tôi phải nhắc anh nhớ chuyện gì sẽ xảy ra với tôi tại Héraklion nếu không có anh chăng?

- Đừng nói anh muốn thuê tôi làm vệ sĩ nhé, tôi sẽ rất buồn đấy. Tôi đâu chỉ là một đống cơ bắp, tôi có bằng chuyên viên kiểm toán và quản lý nhân sự đấy chứ!

- Walter, đừng bắt tôi phải van xin anh nhé!

- Đó là một ý tưởng quá đỗi tệ hại, và có nhiều lý do để tôi từ chối.

- Hãy cho tôi một biết lý do duy nhất và tôi sẽ để anh được yên thân.

- Được, hãy hình dung tấm bưu thiếp sau. Phong cảnh: thung lũng Omo. Giờ: sáng sớm hay giữa trưa, anh thích thế nào cũng được. Căn cứ vào những gì anh đã kể với tôi thì phong cảnh ở đó đẹp huy hoàng. Phối cảnh chỉ có ngần này: một bãi khai quật khảo cổ. Các nhân vật chính: Adrian và nhà khảo cổ phụ trách bãi khai quật. Giờ thì nghe cho rõ màn diễn đây; rồi anh sẽ thấy, sẽ rất thú vị. Adrian của chúng ta tới trên một chiếc xe jeep, hơi nhem nhuốc một chút nhưng vẫn hoạt bát và điển trai. Nhà khảo cổ nghe thấy tiếng ô tô, cô đặt chiếc bay và chiếc búa nhỏ xuống, gỡ kính ra...

- Tôi không nghĩ là cô ấy đeo kính!

- ... Thì không gỡ kính ra, nhưng bù lại, cô ấy đứng dậy để rồi phát hiện ra rằng vị khách bất ngờ không phải ai khác mà chính là người đàn ông cô ấy đã rời bỏ ngày còn ở Luân Đôn, rời bỏ mà không hề hối tiếc. Cảm xúc hiển hiện trên gương mặt cô ấy.

- Tôi đã nhìn ra cái cảnh ấy rồi, anh muốn dẫn tới đâu?

- Anh im đi và để tôi nói nốt! Nhà khảo cổ và người khách thăm tiến về phía nhau, ai nấy đều không biết phải nói gì. Và đúng lúc đó, loảng xoảng, không ai để ý đến chuyện đang diễn ra tại hậu cảnh. Gần chiếc xe jeep, anh chàng Walter tốt bụng, trong trang phục quần soóc vải flanen và mũ lưỡi trai kẻ carô, đã chán ngấy khi phải phơi mình dưới ánh nắng chói chang trong khi hai kẻ ngốc kia đang ôm nhau như quay chậm, thử hỏi ai còn muốn nghe anh chàng là rốt cuộc cần phải làm gì với đống hành lý đây. Anh không thấy là chuyện này sẽ phá hỏng hoàn toàn màn diễn sao? Và bây giờ, anh đã kiên quyết lên đường một mình chưa hay để tôi vẽ ra cho anh một bức tranh khác?

* * *

Rốt cuộc Walter đã thuyết phục được tôi thực hiện chuyến đi này, ngay cả khi tôi tin rằng mình đã có quyết định từ trước.

Chỉ vừa kịp lấy thị thực và đặt phòng khách sạn, tôi lên máy bay tại sân bay Heathrow để mười tiếng sau hạ cánh xuống sân bay Addis-Abeba.

Cùng ngày hôm đó, một người tên Ivory, người không hoàn toàn xa lạ với chuyến đi này, lên đường tới Paris.

Gửi các thành viên của hội đồng,

Hôm nay đối tượng của chúng ta đã bay tới Addis-Abeba. Không cần phải xác định rõ giả định của chuyện này. Nếu không liên kết với anh bạn người Trung Quốc vẫn đang hết sức quan tâm tới Êtiôpia, chúng ta sẽ khó mà tiếp tục việc giám sát. Tôi đề nghị chúng ta họp lại ngay ngày mai.

Thân ái,

Amsterdam.

Jan Vackeers đẩy bàn phím máy tính ra xa rồi lại cúi xuống nghiên cứu bộ hồ sơ do một trong những cộng tác viên vừa gửi tới. Ông nhìn đến lần thứ không biết bao nhiêu bức ảnh chụp qua cửa kính của một quán cà phê tại Luân Đôn. Bức ảnh chụp Ivory đang dùng bữa sáng cùng với Adrian.

Vackeers bật máy lửa, cho bức ảnh vào trong cái gạt tàn rồi châm lửa. Khi bức ảnh đã cháy hết, ông gấp hồ sơ lại và lẩm nhẩm:

- Tôi không biết phải tiếp tục kín tiếng với các đồng nghiệp của chúng ta bao lâu nữa về các ván cờ mà anh đang chơi một mình. Cầu Chúa che chở cho chúng ta!

Ivory kiên nhẫn xếp hàng chờ taxi để rời khỏi sân bay Orly.

Khi đến lượt, ông ngồi vào đằng sau xe rồi đưa cho tài xế một mẩu giấy. Trên đó ghi địa chỉ của một xưởng in nằm cách đại lộ Sébastopol không xa. Đường thông thoáng, nửa tiếng nữa ông sẽ có mặt tại đó.

Trong văn phòng riêng tại Rome, Lorenzo đã đọc xong bức thư của Vackeers, ông nhấc điện thoại lên và yêu cầu thư ký vào gặp.

- Chúng ta vẫn còn các mối quen có thể liên lạc tại Êtiôpia chứ?

- Vâng, thưa ông, hai người ngay tại chỗ. Đúng lúc tôi vừa cập nhật lại hồ sơ châu Phi để chuẩn bị cho cuộc họp ông sắp tham dự tại văn phòng Ngoại trưởng tuần tới.

Lorenzo chìa cho cô thư ký một bức ảnh và bảng giờ cất cánh hạ cánh của máy bay được ghi thoáy lên một tờ giấy.

- Hãy liên lạc với họ. Bảo họ thông tin cho tôi những lần di chuyển, những cuộc gặp gỡ và chuyện trò của người đàn ông này, sáng nay anh ta sẽ tới Addis-Abeba trên một chuyến bay xuất phát từ Luân Đôn. Đây là một đối tượng người Anh, cần phải tuyệt đối thận trọng. Nói với người của chúng ta thà dừng việc theo dõi còn hơn để bị phát hiện. Đừng báo cáo về cuộc điều tra này trong bất kỳ hồ sơ nào, ngay lúc này, tôi mong nó được giữ kín hết mức.

Cô thư ký thu lại những tài liệu mà Lorenzo vừa đưa cho rồi lui ra.
Bình Luận (0)
Comment