Huyện Bạch Thạch nằm ở phía nam Kinh thành, phía bắc Lạc Châu, thuộc Kinh Kỳ quản hạt. Từ Kinh thành khởi hành phải mất hai ngày đường mới tới nơi. Thích Tầm không rõ là án gì mà lại khiến Thị lang Hình bộ đích thân đi, hơn nữa còn phải lập tức xuất thành trong đêm.
Nàng nhất thời căng thẳng, vội vàng đáp ứng. Phó Quyết lại dặn:
“Ngươi cùng ta đồng hành, trước hãy về nhà thu dọn hành trang, chuyến này e rằng còn lâu hơn khi ở Phù Dung Dịch.”
Thích Tầm gật đầu. Phó Quyết lại cáo biệt Tống Hoài Cẩn:
“Đã như vậy, ta liền đưa nàng đi.”
Tống Hoài Cẩn cung kính tiễn hắn ra cửa:
“Nha đâu này tuy mổ tử thi, phá án còn tạm, nhưng thường ngày có phần thô suất. Nếu có chỗ thất lễ, còn xin thế tử bao dung.”
Phó Quyết liếc sang Thích Tầm:
“Tống thiếu khanh yên tâm, ta nhất định sẽ đem Thích ngỗ tác toàn vẹn trả về cho ngài.”
Thích Tầm trước tiên đi lấy hòm dụng cụ khám nghiệm. Khi ra khỏi công đường, Tống Hoài Cẩn lại khẽ căn dặn:
“Tận tâm tận trách là được, ở trước mặt thế tử phải thận trọng một chút, cũng đừng để bản thân chịu thiệt.”
Đây rõ ràng là lời dành cho người nhà, khiến lòng Thích Tầm ấm áp, vội vàng đáp ứng. Chu Úy cũng bước tới, có chút không nỡ:
“Không phải cùng chúng ta xuất hành, ngươi nhớ bảo trọng, đừng xảy ra việc gì.”
Thích Tầm cong môi cười:
“Cứ yên tâm, mệnh ta cứng, không dễ gặp chuyện đâu.”
Nàng cáo biệt hai người, rồi xoay mình lên ngựa, men theo ánh tàn dương cuối cùng chạy thẳng về An Ninh phường. Trên đường đi, nàng vẫn còn nghĩ mãi không biết là án gì. Nhưng Phó Quyết chưa nói, nàng cũng không dám hỏi dồn, huống hồ sau chuyện biến cố trong khố phòng mấy ngày trước, trong lòng nàng đối với hắn ít nhiều vẫn giữ cảnh giác.
Xe ngựa của Phó Quyết cũng theo tới An Ninh phường. Xe dừng trước cửa, nàng vào trong thu dọn, nghĩ nếu chuyến này kéo dài nửa tháng thì phải chuẩn bị chu đáo. Thu xếp xong, trước khi đi còn cho “cỏ vương bát” thêm ít cá thịt băm.
Ra khỏi cửa thì trời đã chạng vạng. Lâm Vi cùng Sở Khiên thấy nàng ra nhanh, đều khen gọn gàng. Thích Tầm xoay mình lên ngựa, đoàn người liền hướng thẳng về phía nam thành.
Dọc đường đi qua phố chợ phồn hoa náo nhiệt, càng lúc càng xa rời sự huyên náo của Kinh thành. Tới cửa nam, liền thấy Lý Liêm dẫn mười nha sai chờ sẵn. Đoàn người từ trong cổng tối tăm phóng ngựa ra ngoài, chẳng bao lâu đã chìm hẳn vào màn đêm mịt mùng ngoài thành.
Thích Tầm đi giữa đội ngũ, ánh mắt không ngừng liếc về phía xe ngựa của Phó Quyết, trong lòng như mèo cào, song Phó Quyết không hề có ý nói về vụ án, nàng chỉ đành kìm nén nỗi nghi hoặc.
Đêm tối vốn khó đi, nhưng đoàn người của Phó Quyết đều từ quân doanh xuất thân, quen hành quân trong đêm. Lý Liêm cùng các nha sai cũng đều là nam nhân, chịu được nhọc nhằn. Chỉ có Thích Tầm là nữ tử. Lâm Vi đánh xe, thỉnh thoảng ngoảnh lại nhìn, liền thấy nàng vẫn ung dung trên lưng ngựa, không hề tụt lại.
Nửa đêm, Phó Quyết cũng vén rèm nhìn ra ngoài, thấy Thích Tầm ngồi ngay ngắn, thần sắc vẫn tỉnh táo, thỉnh thoảng còn trò chuyện với Lý Liêm vài câu. Dù có mệt nhọc, song nàng không hề than phiền.
Hắn buông rèm, dặn Lâm Vi tìm nơi nghỉ tạm.
Quan đạo từ Kinh thành đi huyện Bạch Thạch qua nhiều thôn trấn phồn hoa. Chưa tới sáng, Lâm Vi đã tìm được một khách đ**m nhỏ trong trấn cho cả đoàn dừng chân.
“Chúng ta ăn chút gì đi. Hôm nay còn phải đi thêm một ngày đường, e rằng tối mai mới tới được huyện Bạch Thạch.”
Lâm Vi hô một tiếng. Thích Tầm nghe xong, sắc mặt lập tức thả lỏng. Theo nàng nghĩ, Phó Quyết vốn quen trường chinh nơi chiến địa, chỉ sợ sẽ bắt mọi người đi suốt ngày đêm. Không ngờ nay lại được dừng chân nghỉ, thật là niềm vui bất ngờ.
Trong lòng mừng rỡ, nét mặt nàng cũng phơi bày vẻ hân hoan. Lâm Vi cùng mấy người khác vừa khiêng Phó Quyết xuống xe, quay đầu lại liền thấy bộ dạng của nàng, không khỏi lấy làm kỳ lạ:
“Thích ngỗ tác, sao ngươi lại tươi cười đến thế?”
Thích Tầm chỉ tay về phía khách đ**m:
“Đây chẳng phải… có thể nghỉ ngơi rồi hay sao?”
Lâm Vi cùng Sở Khiên liếc nhau, đều bật cười lắc đầu. Đợi vào trong khách đ**m, chưởng quầy đang gọi mấy tiểu nhị dậy lo cơm nước. Khách đ**m này rất nhỏ, trong sảnh chỉ có ba bàn vuông. Đám nha sai theo cùng ngồi kín hai bàn, chỉ còn lại một bàn cuối. Thích Tầm đang định chen qua ngồi, thì Lâm Vi gọi:
“Thích ngỗ tác, ngươi qua đây, ngồi bàn này đi.”
Nàng vừa muốn từ chối, Phó Quyết liền nói:
“Ngồi đi, ta cùng ngươi bàn về vụ án.”
Nghe xong, Thích Tầm liền nhanh nhẹn kéo ghế ngồi xuống.
Trong lúc chờ cơm canh bưng lên, Phó Quyết cất giọng:
“Án phát sinh tại thôn Thường Thủy, thuộc huyện Bạch Thạch. Từ giữa năm ngoái, trong thôn liên tiếp có các cô nương khi xuất giá thì bất ngờ chết yểu. Ban đầu dân trong thôn cho là ngẫu nhiên, nhưng từ giữa năm ngoái đến nay, đã có sáu người chết. Người thứ sáu xảy ra chuyện đúng ngày mồng mười tháng giêng. Sự việc được báo lên huyện nha, nhưng huyện lệnh phái người tra xét không có kết quả, còn phát hiện dân làng một mực che giấu.”
Nghe vậy, Thích Tầm bất giác lạnh sống lưng. Chết đều là thiếu nữ, lại chết ngay ngày đại hôn:
“Người trong làng còn giấu giếm ư?”
Phó Quyết gật đầu:
“Họ cho rằng tân nương gặp họa là điềm cực kỳ bất tường, chẳng dám truyền ra ngoài. Chẳng những thế, họ còn không cho quan phủ tra xét.”
Thích Tầm chau mày:
“Đều là con gái của chính họ, sao lại không cho quan phủ tra?”
“Ngôi làng này vô cùng khép kín, gần như tách biệt với thế gian. Quan phủ bình thường chỉ thu thuế, còn người trong làng lại đoàn kết, bài ngoại. Huyện lệnh khó lòng chế ước, bất đắc dĩ mới báo án lên Kinh Kỳ Nha.”
Nói xong, Phó Quyết im lặng. Thích Tầm nhìn sang Lý Liêm, rồi buột miệng hỏi điều nghi hoặc nhất:
“Đã báo lên Kinh Kỳ Nha, cớ sao thế tử lại phải thân chinh?”
Các nha sai đi theo Lý Liêm, Thích Tầm không nhận ra, thoạt nhìn hẳn là sai dịch của Hình bộ. Phó Quyết nghe vậy, đảo mắt nhìn quanh, sau đó vẫy tay gọi nàng lại gần. Thích Tầm trong lòng hiểu sự việc hẳn không đơn giản, liền nghiêng người tới.
Phó Quyết thấp giọng nói:
“Ngôi làng ấy được lập từ thuở bản triều khai quốc, dân trong làng đều là hậu duệ của tông thất tiền triều.”
Thích Tầm trừng lớn mắt. Tiền triều là Đại Sở, do Lý thị làm chủ. Phàm đã đổi triều, thì hoàng thất tất bị tận diệt. Chỉ có các công chúa, quận chúa hạ giá cho tông thân, mới có thể giữ được một mạch huyết thống, song kết cục thế nào đều do thiên tử đương triều quyết định.
Nếu cả một làng đều là hậu duệ tông thất, thì chẳng phải chứng tỏ Thái tổ khai quốc của Đại Chu vốn nhân từ sao? Nhưng chính vì liên lụy đến tiền triều, nên triều đình mới phái Phó Quyết tới tra xét.
Thích Tầm hiểu ra, cũng hạ giọng:
“Đại Chu lập quốc đã trăm năm, những người ấy hẳn phần nhiều đều đã qua đời rồi?”
Khoảng cách giữa hai người chỉ chừng hai nắm tay. Phó Quyết nghiêng đầu, liền thấy hàng mi cong dài của nàng in bóng mờ trên mí mắt, giọng nói lại nhẹ, khẽ, như chứa đựng chút bí mật. Hắn chợt nhớ tới cảnh nàng cùng Chu Úy thì thầm dạo nọ.
Hắn thu tâm lại, đáp:
“Năm ấy họ bị đuổi khỏi kinh thành, tụ cư trong thôn, lại đổi sang họ khác, coi như ẩn tàng danh tính. Khi đó còn có người canh giữ. Thấy hậu bối giữ lễ quy củ mới thả cho tự do. Bao năm nay, thôn ấy sống biệt lập, an phận thủ thường. Dân thường bên ngoài hoàn toàn không biết gốc tích của họ.”
Nếu phái người Kinh Kỳ Nha không hiểu nội tình đến điều tra, e rằng sẽ đào xới lại chuyện cũ. Dẫu nay cơ nghiệp Đại Chu đã vững, song hoàng gia xưa nay luôn coi trọng việc liên quan tiền triều, tuyệt không để nảy sinh biến cố.
Nghi vấn lớn nhất đã sáng tỏ, Thích Tầm liền dồn tâm tư vào vụ án. Những cô nương bị hại ngay khi thành thân, dân trong thôn lại đồng lòng che giấu, không cho quan phủ tra xét. Một ngôi làng tách biệt thế gian… Chuyện này quả nhiên kỳ quái, hẳn trong thôn cất giấu bí mật kinh người.
Chẳng mấy chốc, cơm canh được bưng lên. Mọi người mệt mỏi, không ai lên tiếng, chỉ lo ăn uống. Ăn xong, sắc trời ngoài cửa đã tờ mờ sáng. Phó Quyết hỏi:
“Ngươi còn chịu đựng nổi chứ?”
Nói không mệt tất là giả, nhưng Thích Tầm thẳng lưng:
“Chịu được. Thế tử cứ coi ta như nam nhân mà sai phái.”
Phó Quyết nghe thế, bất giác đảo mắt nhìn nàng một lượt. Nàng gần mười chín, vóc dáng đã trưởng thành, tuy hơi gầy nhưng tuyệt không có chỗ nào giống nam tử. Hắn dời ánh nhìn, nói:
“Vậy thì lên đường. Đợi đến huyện Bạch Thạch rồi hãy nghỉ.”
Cả đoàn chỉ nghỉ chưa đầy nửa canh giờ, lại lên ngựa. Đón ánh bình minh, họ tiến về huyện Bạch Thạch. Khi ấy đầu xuân, núi rừng bốn phía xanh um, đến giữa trưa, ánh dương rực rỡ, ai nấy đều tháo bỏ áo choàng. Thích Tầm ngồi ngay ngắn, dáng cưỡi ngựa chẳng kém nam nhân. Gặp đoạn đường hoa sơn rực rỡ, nàng lại thúc ngựa phi lên đầu đoàn.
Phó Quyết vén rèm nhìn ra, chỉ thấy bóng dáng áo xanh của nàng hòa lẫn với xuân sắc ngoài kia, phơi phới sức sống như vạn vật hồi sinh.
Đến chạng vạng, đoàn người mới gần đến huyện Bạch Thạch. Huyện lệnh Miêu Văn Thành dẫn nha dịch ra nghênh tiếp ở cửa thành.
Tuy chưa từng gặp Phó Quyết, nhưng từ trước đã được mật báo, biết thế tử Lâm Giang Hầu sẽ đích thân đến giám sát, nên ông cung kính hành lễ:
“Thế tử, nay trời đã muộn. Từ đây đến thôn Thường Thủy còn một ngày đường. Xin thế tử đêm nay nghỉ lại, để hạ quan tường thuật tình hình thôn xóm, sáng mai sẽ đi.”
Sau một đêm một ngày đường, mọi người đều đã mệt. Phó Quyết vén rèm gật đầu:
“Cứ theo lời Miêu đại nhân.”
Miêu Văn Thành nhân đó liếc vào trong, thấy dung mạo Phó Quyết, bất giác chấn động. Vị thế tử Lâm Giang Hầu danh chấn thiên hạ, không ngờ lại trẻ tuổi, tuấn mỹ đến vậy. Trong phút ngẩn ngơ, ánh mắt ông lại quét qua Thích Tầm đang cưỡi ngựa theo sau. Ông thầm nghĩ: Thế tử đi tra án, sao lại mang theo một nữ tử? Chỉ chốc sau liền hiểu, không dám nhiều lời, vội mời đoàn xe ngựa vào huyện, nghỉ tại dịch quán đã chuẩn bị.
Bạch Thạch huyện thuộc Kinh Kỳ, lại sát Lạc Châu, quan đạo đi xuyên thành, vốn là tuyến giao thương phía nam, nên cảnh tượng phồn hoa. Đoàn người tới dịch quán cạnh huyện nha, thấy nơi này kiến trúc rộng rãi, trang hoàng chẳng kém kinh thành.
Miêu Văn Thành vừa xuống ngựa đã ghé tai sai dịch dặn dò, sau đó đứng chờ trước xe Phó Quyết. Đến khi thấy hắn ngồi trên xe lăn được khiêng xuống, ông lập tức sững sờ, đến nỗi cằm suýt rơi xuống đất—
Thế tử Lâm Giang Hầu… hóa ra là một kẻ tàn phế?!
Thiên hạ đều biết thế tử Lâm Giang Hầu từng suất lĩnh mười vạn binh mã U Châu, đại phá Tây Lương. Song việc hắn bị thương nặng mà thành tàn phế thì lại hiếm người tường tận. Miêu Văn Thành cũng chẳng ngoại lệ, bởi thế mới kinh hãi đến thất thần.
Cảnh tượng ấy rơi hết vào mắt mọi người. Lâm Vi khẽ quát:
“Miêu đại nhân?”
Miêu Văn Thành giật mình tỉnh ngộ, vội vã khom người:
“Thế tử… thỉnh… thỉnh…”
Mồ hôi lạnh chảy ròng trên trán, may thay Phó Quyết chẳng để tâm.
Thích Tầm ôm bọc đồ theo sau, ánh mắt vô thức dừng lại nơi bóng lưng hắn ngồi xe lăn. Tính ra, đã hơn ba tháng kể từ khi hắn thụ thương. Hắn trở về kinh, hẳn đã được trị liệu chu toàn, vậy mà giờ vẫn phải dùng xe lăn, xem chừng thật sự đã thành tàn phế.
Trong lòng nàng không khỏi dâng lên đôi phần cảm khái. Lâm Giang Hầu vì Đại Chu mà chết trận, nay Phó Quyết lại mang thương tật vì chiến sự. Chỉ bằng vào những điều ấy, nàng cũng chẳng thể sinh oán hận với Phó gia.
Miêu Văn Thành bởi vì vừa thất lễ, tim đập liên hồi, nói năng cũng lắp bắp. Sau khi phân phó nơi ở cho đám nha sai, ông ta chỉ vào một tiểu viện độc lập có ba gian thượng phòng, cung kính thưa:
“Thế tử cùng cô nương xin nghỉ tại nơi này.”
Nghe vậy, chân mày Phó Quyết khẽ nhướng. Miêu Văn Thành lại nói tiếp:
“Phía đông là noãn các và thư phòng, phía tây là tẩm thất. Đêm nay hạ quan còn chuẩn bị yến tiệc, muốn vì thế tử tiếp phong.”
Phó Quyết nhàn nhạt đáp:
“Tiệc rượu miễn đi. Đưa cơm tối đến phòng, thuận tiện nói rõ vụ án. Ngày mai giờ Mão khởi hành, không được trì hoãn.”
Miêu Văn Thành vội vàng đáp ứng, rồi lui xuống chuẩn bị.
Lâm Vi đẩy xe Phó Quyết vào trong thượng phòng. Thích Tầm hơi do dự, rồi cũng theo đến cửa. Trong đầu nàng vẫn văng vẳng lời Miêu Văn Thành – một bên noãn các, một bên tẩm thất. Ý tứ này… chẳng phải coi nàng là tỳ nữ, ngay cả phòng riêng cũng không chuẩn bị sao?
Nàng chau mày, xoay người đuổi theo:
“Miêu đại nhân, xin dừng bước—”
Miêu Văn Thành cung kính hỏi:
“Cô nương có điều chi phân phó? Hay thế tử có chỗ nào không vừa ý?”
Thích Tầm bất đắc dĩ:
“Không phải thế tử không hài lòng… mà là… đại nhân sắp xếp cho ta cùng một gian với thế tử sao?”
Miêu Văn Thành thoáng ngạc nhiên:
“Cho cô nương một gian riêng? Vì cớ gì? Cô nương không ở cùng thế tử ư?”
Thích Tầm suýt nghẹn:
“Đại nhân lầm rồi, ta không phải nha hoàn của thế tử.”
Nàng vừa định nói rõ thân phận, chỉ hòm khám nghiệm vẫn đặt trên xe ngựa của Phó Quyết. Không ngờ Miêu Văn Thành bật cười:
“Ta hiểu, ta hiểu. Thân phận cô nương dĩ nhiên không phải hạ nhân. Nhưng cô nương yên tâm, người trong dịch quán đều là kẻ đáng tin, tuyệt đối sẽ giữ kín, không để lộ ra ngoài.”
Thích Tầm càng nghe càng thấy không ổn. Nàng nhướng mày:
“Miêu đại nhân, ngài nhầm rồi. Ta là ngỗ tác của Đại Lý Tự, chứ chẳng phải… người nhà của thế tử.”
Nụ cười của Miêu Văn Thành lập tức cứng đờ:
“Ngỗ… ngỗ tác?”
Dù khó lòng tin, ông ta cũng hiểu chẳng có nữ tử nào đem chuyện này ra làm trò. Ánh mắt thoáng run, ông ta vội nói:
“Là ta sơ sót. Ta sẽ lập tức gọi người chuẩn bị thêm một gian.”
Thích Tầm vừa muốn đáp thì cửa sổ noãn các chợt mở. Phó Quyết ngồi bên trong, cất giọng:
“Thích Tầm, ngươi vào đây.”
Nàng khẽ đáp, hắn lại hướng ra ngoài, nói với Miêu Văn Thành:
“Miêu đại nhân, không cần chuẩn bị nữa. Nàng cứ nghỉ ở đây.”
Thích Tầm hít mạnh một hơi. Miêu Văn Thành liếc nàng, lại liếc Phó Quyết, mỉm cười gật đầu, còn ném cho nàng ánh mắt ám muội, rồi vội vã bỏ đi.
Thích Tầm bước vào noãn các:
“Thế tử, thuộc hạ nghỉ ở đây quả thật có phần bất tiện.”
Phó Quyết bình thản nhìn nàng:
“Chỉ một đêm mà thôi. Mai còn phải khởi hành sớm. Có gì bất tiện đâu?”
Nàng vốn muốn biện giải, nhưng nghĩ lại — Phó Quyết đường đường là thế tử, nếu nàng cứ nhấn mạnh, chẳng phải càng khiến người ta thêm hiểu lầm?
Phó Quyết thấy nàng còn do dự, liền thở dài:
“Ta đã hứa với Tống thiếu khanh, sẽ đưa ngươi toàn vẹn trở về. Những ngày này, ngươi cứ ở gần ta, để khỏi sinh chuyện.”
Thích Tầm thoáng sững. Không ngờ hắn lại có nỗi lo ấy. Khi nàng còn phân vân, hắn lại nói tiếp:
“Đêm nay ngươi nghỉ ở noãn các. Lâm Vi bọn họ sẽ không ở đây.”
Nếu vậy thì cũng chẳng có gì bất tiện. Thích Tầm mới gật đầu chấp thuận.
Chẳng mấy chốc cơm tối được đưa tới. Nàng chỉ đành cùng Phó Quyết đồng bàn. Hắn không muốn lãng phí thời gian, vừa ăn vừa để Miêu Văn Thành ở bên tường trình vụ án.
Miêu Văn Thành thưa:
“Những vụ trước quan phủ không hề hay biết. Mãi đến vụ gần đây, mẫu thân của cô nương kia mới vào báo quan. Khi ấy hạ quan lập tức sai đầu bổ đi dò xét, mới hay đây đã là cô nương thứ sáu tử vong. Những người trước, có kẻ trong kiệu hoa thì trúng độc, có kẻ đêm trước đại hôn thì ngã chết, cũng có kẻ đột nhiên phát bệnh rồi qua đời…”
“Nguyên do mỗi người mỗi khác, thoạt nhìn hoặc là tự tận, hoặc là bệnh tử, hoặc là bất trắc. Còn vụ thứ sáu, đúng vào ngày thành thân, cô nương ấy treo cổ tự vẫn. Nhưng mẫu thân nàng nhất mực nói con mình tuyệt chẳng thể tự tận, cố cầu lý chính trong thôn tra xét. Thế nhưng dân trong thôn chẳng đoái hoài, chỉ cho rằng việc này cực kỳ bất tường, liền vội thúc giục an táng.”
“Người mẫu kia uất ức trong lòng, mới đơn thân báo quan. Nha môn phái người đến thôn tra xét, dân trong thôn hết sức bài ngoại. Khi ấy thi thể đã chôn cất nhiều ngày, chúng ta chẳng thể xem xét. Muốn dò hỏi tình trạng tử vong của các cô nương, cũng chỉ có hai ba thanh niên chịu hé miệng, song đều nói là ngẫu nhiên mà thôi.”
Miêu Văn Thành thở dài:
“Thôn dã hẻo lánh, dân phong cứng nhắc, không hiểu luật pháp, cũng chẳng chịu quản thúc. Hạ quan e rằng nếu để mặc, trong thôn ắt còn có người phải chết, nên mới lập tức tấu báo lên Kinh Kỳ Nha.”
Phó Quyết buông đũa:
“Chỉ tra được bấy nhiêu? Nay trong thôn có bao nhiêu nhân khẩu?”
“Có hơn trăm, độ hơn ba mươi hộ. Lý chính là một lão nhân được tôn kính, song cũng cực chẳng hợp tác. Người của chúng ta ngại sinh xung đột với dân làng, không dám cưỡng ép, nên nhân chứng vật chứng thu thập được vô cùng ít ỏi.”
“Cô nương thứ sáu tên là gì? Mẫu thân nàng là ai?”
“Gọi là Lệ Vân. Mẫu thân họ Trương, tên Thu Liên. Khi ấy chính bà ta dẫn người của hạ quan vào thôn, song đến buổi chiều cùng ngày lại đổi giọng, nói không cho chúng ta tra nữa, khăng khăng con gái chết là do ngẫu nhiên.”
Phó Quyết cùng Thích Tầm nhìn nhau. Dùng bữa xong, khi bát đũa đã được dọn đi, hắn lại hỏi:
“Có sổ hộ tịch của dân làng chăng?”
Miêu Văn Thành gật đầu:
“Có, là sổ tra khi khảo tra hộ tịch năm năm trước. Hạ quan lập tức đi lấy.”
Đợi ông ta lui đi, Phó Quyết quay sang hỏi Thích Tầm:
“Ngươi thấy thế nào?”
Thích Tầm đáp:
“Những cô nương ấy tuyệt không thể vô cớ mà chết. Ắt có nguyên do. Cha nương họ chẳng những không muốn điều tra, còn tỏ vẻ như biết rõ ngọn nguồn. Xem ra, trong thôn hẳn giấu giếm một bí mật không thể phơi bày.”
Lâm Vi cũng nghe đã lâu, lúc này lên tiếng:
“Ngày xuất giá mà nữ nhi chết, chẳng ai tra cứu, còn lập tức hạ táng. Thuộc hạ chợt nhớ đến một việc… Ở vài thôn xóm hẻo lánh, nếu trong nhà có con trai chưa kịp thành thân đã chết, bấy giờ gia đình thường bỏ bạc mua một cô nương đã chết khác, ghép làm minh hôn. Liệu có khả năng này chăng?”
Ánh mắt Phó Quyết và Thích Tầm cùng thoáng sáng. Phó Quyết trầm giọng:
“Ta cũng từng nghe lời đồn như thế.”
Thích Tầm gật đầu:
“Nếu quả vậy, thì cha nương họ chẳng muốn tra cứu, lại vội vã hạ táng, cũng là hợp lẽ. Chỉ là ta chỉ từng nghe chuyện dùng người chết phối minh hôn, chưa từng thấy có kẻ giết sống người mà làm vậy.”
Phó Quyết lạnh giọng:
“Thôn này cách biệt thế gian, chưa biết chừng đã sinh ra chuyện trái với luân thường.”
Thích Tầm cũng gật đầu đồng tình. Lát sau, Miêu Văn Thành trở lại, dâng quyển hộ tịch. Phó Quyết giở qua, trầm ngâm:
“Trong thôn hầu như không có ngoại tộc.”
Miêu Văn Thành gật mạnh:
“Đúng vậy. Người trong thôn đa phần họ Lệ và họ Bạch. Các họ khác phần lớn đều là sau này dời tới.”
Quả hợp với lời Phó Quyết đã đoán. Năm xưa vốn là tông thất tiền triều, lại từng bị canh giữ, tất nhiên ngoại tộc ít ỏi. Đến nay đã gần trăm năm, họ vẫn khư khư giữ lệ cũ, ít chịu thông hôn bên ngoài, hiển nhiên tính bài ngoại vô cùng.
Phó Quyết xem xong, đưa sổ cho Thích Tầm. Nàng lật giở, chỉ thấy vụ án này quả thật nan giải. Trong các án nàng từng qua tay, hễ dính tới thôn làng, dân chúng thường cố chấp, chẳng hiểu pháp luật, càng không biết kính sợ. Khi quan phủ tới tra, phần nhiều ương ngạnh quấy rối, là trở ngại lớn nhất.
Phó Quyết thu hồi hộ tịch:
“Quyển này để ta mang theo. Ngày mai phái đầu bổ dẫn đường, còn lại khỏi bận tâm.”
Miêu Văn Thành nghe thế, mặt mày cảm kích:
“Là, hạ quan đã chuẩn bị đâu vào đấy. May nhờ thế tử đích thân tới. Nếu có thể chỉnh đốn thôn Thường Thủy lần này, sau này hạ quan cũng dễ bề chế ước.”
Phó Quyết lười nghe lời nịnh nọt, phất tay cho lui. Ngẩng mắt nhìn ngoài trời, hắn bảo Thích Tầm:
“Ngươi cũng nên nghỉ sớm. Mai đường xa, tất sẽ vất vả.”
Nói xong chẳng đợi nàng kịp đáp, hắn đã sai Lâm Vi đẩy xe về tẩm thất.
Thích Tầm chỉ tiễn được vài bước, rồi khép cửa, nhìn quanh noãn các trống trải, thấy cũng hợp lẽ. Nàng mau chóng thu xếp, tẩy rửa, rồi nằm xuống. Lâm Vi và Sở Khiên lúc sắp rời đi, ghé qua nghe ngóng, thấy trong phòng đã tắt đèn, yên ắng không một tiếng.
Hai người trở về, bẩm với Phó Quyết:
“Chắc đã ngủ say. Chủ tử không cần lo. Thuộc hạ thấy cô nương kia tuy mệt, nhưng ăn ngủ tốt, thân thể dẻo dai.”
Phó Quyết khẽ cong khóe môi:
“Các ngươi cũng nghỉ đi.”
Đêm ấy, Thích Tầm ngủ chẳng yên ổn. Trong mộng, nàng lại bị truy đuổi khắp nơi, mắt nhìn đâu cũng tối đen. Nàng hoảng loạn bỏ chạy, mà tiếng chân phía sau càng lúc càng gần. Cuối cùng, nàng tìm được một góc ẩn thân, nhưng tiếng bước dồn dập vẫn mau chóng áp sát.
Nàng bừng tỉnh, mở choàng mắt nhìn trần nhà đen kịt, thở gấp dồn dập. Một hồi lâu mới nhận ra mình đang ở dịch quán. Ngoảnh ra ngoài, chỉ thấy trời mù mịt, đã gần giờ Mão.
Lau mồ hôi lạnh trên trán, nàng định thần rồi thu dọn hành lý. Lúc ấy, trong viện có tiếng người, chính là Lâm Vi cùng Sở Khiên tới. Nàng ra chào, rồi đợi họ hầu hạ Phó Quyết rời giường. Miêu Văn Thành đã sớm truyền người chuẩn bị bữa sáng. Ăn xong, cả đoàn liền lên đường đến thôn Thường Thủy.
Thôn Thường Thủy nằm nơi sơn cốc tây nam Bạch Thạch huyện. Theo quan đạo đi về phía nam, nửa ngày thì rẽ vào núi. Con đường nhỏ khúc khuỷu ấy là lối duy nhất nhập thôn. Bổ đầu huyện nha Lâm Chí Thành phụ trách dẫn đường.
Sau một đêm nghỉ ngơi, mọi người đều khôi phục khí lực, cưỡi ngựa nhanh như bay. Nhưng càng gần thôn, sơn đạo càng hiểm trở. Đến hoàng hôn, họ mới tới cửa ải trước thôn.
Cửa ải nằm giữa hai vách núi dựng đứng, chỉ vừa đủ cho một cỗ xe ngựa đi qua. Vượt ải rồi leo thêm đoạn sơn lương, là có thể thấy thôn Thường Thủy.
Nhưng ngay lúc họ nghỉ chân trên sơn lương, bỗng một tràng nhạc tang não nề từ dưới thung lũng vọng tới. Âm thanh bi thương, hòa cùng bóng chiều ảm đạm, khiến lòng người bất giác nặng trĩu.
Lâm Vi cúi mắt nhìn xuống, chỉ thấy rừng cây rậm rạp, xanh biếc trùng điệp. Giữa tán cây mơ hồ thấp thoáng vài hộ dân cư. Trời vốn đã mờ tối, lại thêm rừng rậm càng làm nơi đây u ám. Hắn chau mày:
“Nhạc tang? Là nhà ai đang lo tang sự? Chẳng lẽ… lại có người chết?”
Đang yên lành, sao lại có nhạc tang? Mọi người đều căng mắt lắng nghe.
Chưa kịp định thần, trong thung lũng mờ tối lại đột ngột vang lên một điệu kèn trống rộn rã vui mừng!
Phó Quyết và Thích Tầm đồng loạt nhíu mày. Hơn mười người trên sơn lương sắc mặt cũng đều biến đổi.
—Bởi khúc nhạc ấy, lại chính là hỉ nhạc!