Đã lâu lắm Tiểu Hồ mới hưởng thụ cảm giác quây quần gia đình. Chỉ cần đồ ăn, nụ cười và chuyện kể – với nàng, như thế là gia đình. Hồi ở cô nhi viện, Tiểu Hồ thích nhất giờ ăn vì nàng có thể len vào giữa những đứa trẻ khác, cười đùa đấu láo với chúng. Hơi ấm từ đám đồng lứa làm nàng bớt lạnh, bớt cô đơn, bớt nghĩ về hành lang cấm túc cùng bọn nhện, bớt khao khát thứ tình cảm mà cô nhi viện không bao giờ sở hữu. Khi đó nàng có anh chị em, có người thân. Bởi vậy định nghĩa “gia đình” của Tiểu Hồ đơn giản, không phức tạp như mọi người.
Nhưng thứ không khí gia đình này hết sức kỳ quặc. Nó là tổ hợp bốn người: một cô gái mất cha nuôi, một đứa trẻ không thừa nhận ông bố tội phạm, một gã trung niên nghiện thuốc và một lão già khú đế xỉn rượu thích lè nhè. Bốn con người xa lạ, không thân thích, liên kết nhau bằng những sợi dây lỏng lẻo. Họ tập trung ở căn hộ của Tiểu Hồ, ăn uống rồi kể chuyện phiếm. Mười phần câu chuyện, gã nghiện thuốc đóng góp ba, còn lại bảy phần là lão già tự biên tự diễn. Cô gái cùng đứa trẻ im lặng, bất đắc dĩ làm thính giả. Nhưng Tiểu Hồ tự nhủ như vậy cũng tốt. Nó tốt hơn một năm hết chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành rồi đám tang đại thánh sứ Tây Minh. Một năm đó, căn hộ của nàng yên ắng như ngôi nhà nhỏ cô đơn trên ngọn đồi xanh.
Rốt cục Cụ Cố Tổ thích ăn uống hơn đánh lộn, chẳng phải giữ ý lịch sự mà vì rượu. Lão già thừa nhận nơi rừng rú hoang sơ không thể chưng cất rượu ngon bằng thế giới văn minh hiện đại, nên được thể uống tới số. Bốn chai đã hết, khắp người xộc mùi cồn nhưng Cụ Cố Tổ vẫn thòm thèm khui chai thứ năm. Lão già vỗ vai Bất Vọng, khề khà:
- Bao lâu nhỉ? Hồi chúng ta đụng độ là năm bao nhiêu? Thông cảm, thằng lỏi con, ta không còn nhiều cảm nhận về thời gian nữa, chẹp chẹp! – Cụ Cố Tổ chép miệng – Thời gian với ta chỉ còn là khí thở, chui qua đường mũi, chui xuống dạ dày, đánh rắm một cái là hết! Bao nhiêu nhỉ? Bảy năm? Tám năm? Hay chín năm? Nhưng không thể nào mười năm được! Ôi thời gian, ta chịu thua! Nhưng chỉ nhớ lúc đó mày vẫn là thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt, chúng ta gặp nhau ở dòng sông nơi diễn ra Trận Sông Đỏ. Lý do ư? Phi Thiên các người rải bom trúng vào nơi ta thường lui tới, làm mấy đứa giúp việc toi hết! Đó là lần đầu tiên sau nhiều năm, ta rời khỏi rừng và xử lý bất cứ tên lính Phi Thiên mà ta bắt gặp. Cuối cùng ta gặp mày, chính ở nơi Trận Sông Đỏ từng diễn ra. Thằng lỏi, mày là thằng hèn đánh ông già! Mày đánh người cao tuổi! Nhìn này! Răng lợi của ta như thế này là do mày! DO MÀY!
Ông già nhe bộ răng nham nhở cái vỡ cái lành. Bấy giờ Tiểu Hồ và Liệt Trúc mới biết bộ nhá của ông già xấu xí bởi lực tác động bên ngoài. Bất Vọng không đáp mà giấu nụ cười sau ly rượu. Cụ Cố Tổ lẩm bẩm chửi gã lại quay sang Tiểu Hồ và Liệt Trúc:
- Sau lần đó, thằng lỏi con này bước lên vị trí số một. – Lão chỉ vào Bất Vọng – Ta cứ nghĩ nắm bắt Ngũ Hành là tóm chặt cả thế giới, mọi sinh vật đều nằm trong tay mình và bé bằng con sâu cái kiến, bóp là chết! Nhưng gặp Bất Vọng, ta nhận ra chẳng thứ gì trên đời bắt nổi gió, nó tồn tại mà cũng không tồn tại. Ta không thể chiến đấu với một thứ như thế. Ta vui vẻ trao lại vị trí số một. Ngồi đó quá lâu, ta cũng chán. Nhưng mấy đứa nhóc biết gì không? Hôm nhận ghế số một, thằng lỏi không có quà cho ta. Không có quà! Và cũng không chào hỏi kính trọng luôn! Chẹp chẹp! Mày làm ta xấu hổ, thằng lỏi con... ực! – Lão già lại quay sang Bất Vọng – Hôm đấy Phương Tưởng, Con Sâu Ngủ và Lão Quý Tộc đều có mặt, thế mà mày không cho ta chút thể diện nào trước ba thằng nhãi con ấy. Chúng nó cười vào mặt ta!
Cụ Cố Tổ uống tới đâu nấc cụt tới đó, lời phàn nàn chữ được chữ mất như hàm răng của lão. Tiểu Hồ đoán rằng vì lý do nhỏ nhặt ấy mà ông già sống chết đòi đánh lộn. Bất Vọng phì cười:
- Thật vậy? Ai dám cười lão già bẩn tính thù dai như ông?
Cụ Cố Tổ nổi cơn sừng sộ nhưng bụng dưới biểu tình đòi xả lũ đập thủy điện. Người già thận yếu, ông ta cũng chẳng ngoại lệ, tay ôm bụng chân khom khom mà đi. Lão già rời phòng ăn đi sang phải. Bất Vọng gọi to:
- Nhà vệ sinh ở bên trái!
- Biết rồi, khổ lắm!
Ông già lầu bầu, lật đật vòng sang trái, rồi tiếng nước chảy xè xè từ nhà vệ sinh vọng ra. Cụ Cố Tổ không đóng cửa. Âm thanh rót xuống bàn ăn, tong tỏng tong tỏng như thể đường ống nước trên trần thủng toác, bọn Tiểu Hồ và Liệt Trúc hết ăn nổi. Điểm tích cực duy nhất là cơn phẫn nộ của Cụ Cố Tổ theo nước trôi tuột theo bồn cầu. Trông hai cô gái nhăn nhó, Bất Vọng cười khùng khục đoạn lớn giọng:
- Tuyệt Tưởng Thành sụp đổ là vì ông, bố già. Hôm bỏ phiếu, Hệ Tôn, Con Sâu Ngủ và Thằng Phì Lủ đồng ý chiến tranh; tôi và Đạn Đạo phản đối. Tất cả đều chờ đợi ông. Tôi đã nghĩ ông tôn trọng truyền thống lịch sử. Nhưng rốt cục ông bỏ phiếu trắng. Vì phiếu trắng của ông mà Lão Quý Tộc té nước theo mưa và nhảy vào phe chủ chiến.
Vẫn tình trạng mở đập tháo nước, Cụ Cố Tổ oang oang đáp lời từ nhà vệ sinh:
- Truyền thống lịch sử? Chẹp chẹp! Mày thử sống lâu như ta xem, thằng lỏi con, sống lâu như ta rồi mày sẽ biết cái gì là buồn chán. Khi đứng ở đỉnh cao thế giới và vượt ra khỏi khuôn khổ của loài người, mày sẽ cần một thứ gì đấy thú vị, một động lực để mày tiếp tục tồn tại. Ơn trời! Thế giới Tâm Mộng đủ lớn để ta khám phá thêm một thời gian dài nữa. Nhưng ai đi mãi được? Có lúc phải nghỉ chứ! Chẹp chẹp! Lúc nghỉ, mày cũng cần một thứ gì đó để tạm khuây khỏa. Vậy nên ta bỏ phiếu trắng. Sao nào? Phiếu trắng đâu có nghĩa ta đồng ý chiến tranh? Đừng lên mặt với ta, thằng lỏi con Bất Vọng! Ta từng gặp tổ tiên họ Hoang Vệ khi thằng nhóc Hoang Vệ Đấu Nhân còn chưa phải là con t*ng trùng nhé! Mày, tất cả lũ chúng bay đừng lên mặt với ta cái gì truyền thống, cái gì lịch sử! Ta còn đẻ ra mấy thứ truyền thống với lịch sử kia!
- Nhớ rửa tay, bố già! – Bất Vọng nhắc nhở.
- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! – Lão già làu nhàu.
Lại một tràng nước chảy rồ rồ dội đến. Có tiếng súc miệng ọc ọc, có tiếng chép miệng tem tép rồi hong tay vù vù. Dường như Cụ Cố Tổ thích máy hong khô tay, cứ đứng suốt, máy kêu rò rò làm mọi người phát mệt. Lão già trở ra, mồm lè nhè đầy hơi rượu:
- Nhưng đó không hẳn là lý do chính. Tổ tiên họ Hoang Vệ hào phóng, đặc biệt rất kính – trọng – người – già! – Cụ Cố Tổ gằn từng chữ rồi găm chúng vào Bất Vọng – Vậy mày biết tại sao ta bỏ phiếu trắng và bỏ mặc Tuyệt Tưởng Thành không, Bất Vọng? Vì chẳng cái gì tồn tại mãi kể cả sự bất tử. Tuyệt Tưởng Thành đã tồn tại quá lâu. Ta đi khắp phía đông, lên miền bắc, thăm thú phương tây rồi du ngoạn phía nam. Ta đã thấy nhiều đế quốc, nhiều đất nước. Chẳng thứ nào trường tồn bằng Tuyệt Tưởng Thành, nó thịnh vượng và bền vững một cách đáng ngạc nhiên, thậm chí vô lý! Nhưng Liệt Giả đã xuất hiện, gã là sứ giả từ bầu trời. Trời cử gã đến để kết thúc Tuyệt Tưởng Thành. Ta cóc sợ đứa nào trong Bảy Người Mạnh Nhất, kể cả mày, Bất Vọng! Ta cũng cóc sợ thằng ranh con Liệt Giả! Nhưng ta sợ trời. Trời lớn hơn tất cả! Ta chẳng thể cản Liệt Giả vì gã muốn tiêu diệt Tuyệt Tưởng Thành, vì trời yêu cầu gã tiêu diệt Tuyệt Tưởng Thành. Tại sao ta phải ngăn cản Liệt Giả khi trời đã sắp đặt mọi sự?! Ta bỏ phiếu trắng là tình nghĩa với đám người Hoang Vệ lắm! Đòi hỏi gì nữa?
Bất Vọng xoay xoay chén rượu bằng ngón cái và ngón giữa, nghĩ ngợi một lúc, lắc đầu cười:
- Chẳng có trời cũng chẳng có Vạn Thế, bố già. Chỉ có chúng ta, vì chúng ta và do chúng ta. Chỉ có bàn tay con người thôi.
Lão già cười vang, chép miệng chèm chẹp rồi vỗ vai Bất Vọng:
- Vì mày sống chưa đủ lâu, lỏi con! Chẹp chẹp chẹp! Đúng là chẳng có Vạn Thế, nhưng có trời thật đấy! Một ngày kia Vạn Thế sẽ đổ, có thể lúc ấy ta chẳng còn sống mà chứng kiến cảnh tượng ngoạn mục đó, chỉ chắc chắn nó sẽ đổ. Cái vòng sắt kiên cố mà Vạn Thế tạo ra cho thế giới này đang nứt vỡ, từng chút một, từng chút một. Khi cái vòng vỡ hẳn, tới lượt Vạn Thế sụp đổ. Nhưng trời thì không đâu, Bất Vọng! Rồi mày sẽ thấy! Nếu mày sống đủ lâu, mày sẽ thấy! Rượu... rượu đâu? Sao ly của ta không có rượu? Hai con nhãi không rót rượu cho người già à? Hỏng! Hỏng hết! Đáng lẽ chúng bay phải ăn dưới bếp và không được ngồi chung bàn với đàn ông. Mà thôi, khỏi cần rót, đưa chai rượu đây!
Nhận chai rượu từ tay Tiểu Hồ, lão già ngửa cổ tu ừng ực. Bọn Tiểu Hồ và Liệt Trúc lè lưỡi vì rượu nặng, uống một ngụm là khé cổ. Tu xong, Cụ Cố Tổ thở khà khoan khoái, giữ cái chai như ôm vật báu, nhất quyết không rót cho Bất Vọng. Lão lý luận rằng Bất Vọng mang tới đây mời nghĩa là chai rượu thuộc về lão, cho người khác uống hay không là quyền của lão. Cực chẳng đã, Bất Vọng đành khui bia. Cụ Cố Tổ hỉ hả, hai mắt nhắm tịt say sưa mơ màng, mồm miệng tem tép không ngừng:
- Đáng lẽ ta phải đánh mày một trận cho chừa cái thói vô lễ với người già, nhưng có chai rượu, ta tạm tha. Chẹp chẹp! Dù sao con người cũng thú vị. Khi xưa ta với mày đánh nhau chí chết, giờ lại ngồi cùng bàn. Chỉ con người mới vậy, lũ thú hoang không như thế. Ta chẳng ưa con người. Chúng xây nên những thành phố đầy sắt thép, những tòa tháp cao ngất như muốn chọc thủng bầu trời, bao bọc thế giới Tâm Mộng bằng chiến tranh và kim loại. Ta không thích những gì loài người tạo ra, mà ta thích chúng, chính bản thân chúng. Sau nhiều năm, cuối cùng ta vẫn thích làm người hơn là một thứ sinh thể nằm ngoài quy luật. Chẹp chẹp! Ực... gần đây ta gieo quẻ bói... xem chừng thế giới sắp xảy ra chuyện, chuyện trọng đại, ta muốn coi con người chúng bay vật lộn thế nào... giải trí ra trò... hà hà... ực!
Sau tiếng nấc, Cụ Cố Tổ gục mặt xuống bàn, chai rượu trong tay đổ nghiêng tưới sàn nhà thành một bãi nồng nặc. Lão già đã xỉn ngoắc cần câu, dẫu trời sập cũng không tỉnh. Tiểu Hồ thở phào. Thứ không khí gia đình quái dị này cuối cùng cũng kết thúc một cách yên bình, không nôn ọe, không đánh lộn. Bất Vọng vác lão già đặt lên ghế sô-pha. Cụ Cố Tổ cựa mình, hai tay khư khư chai rượu làm gối ôm. Với Cụ Cố Tổ, mọi nơi đều là nhà và ông ta có thể ngả ngốn mọi lúc. Thậm chí ông già chẳng quan tâm rằng Bất Vọng có thể tiễn ông ta về Tụ Hồn Hải bất cứ lúc nào. Thù hằn giữa Cụ Cố Tổ và Bất Vọng là thật, rượu bia chỉ có thể giải quyết trong chốc lát chứ không phải cả đời. Nhưng ông già chẳng quan tâm. Có lẽ ông ta thật sự là kẻ bẩn tính thù dai nhưng ít nhất không phải là lúc ngủ.
- Lão già nói dối dở tệ. – Bất Vọng nói với Tiểu Hồ – Lão sống quá lâu nên thể diện hay danh dự đã thành vô nghĩa. Lão đòi đánh ta vì chuyện khác.
- Những người giúp việc của ông ta? Có phải vì chuyện ấy? – Tiểu Hồ hỏi.
Bất Vọng gật đầu. Gã nhìn ông già ngủ say như chết trên sô-pha, ngửa cổ nốc một hơi hết cốc rượu rồi tiếp lời:
- Cẩn thận với lão già, Tiểu Hồ. Ta không biết cô dự tính cái gì với Cụ Cố Tổ nhưng lão ta là kẻ nguy hiểm. Lão không tàn ác nhưng thất thường, dễ vui, dễ giận. Đám già luôn khó tính! Không ai trong Bảy Người Mạnh Nhất dám gây sự với lão. Kể cả Liệt Giả cũng ngán lão. Ngày trước ở Tuyệt Tưởng Thành, nếu lão cùng phe, có thể chúng ta đã thắng; còn nếu lão đầu quân cho Liệt Giả, chúng ta sẽ bại trận nhanh gấp đôi. Ngoài đại thánh sứ Tây Minh, lão chẳng nể nang bất cứ ai.
- Cảm ơn ngài, tôi sẽ lưu ý. – Tiểu Hồ cúi đầu.
- Giờ thì lo Liệt Trúc giùm ta. – Bất Vọng rút điếu thuốc châm lửa – Ta sẽ trông nom con bé, nhưng ta rất dở khoản an ủi. Tin ta đi, Tiểu Hồ, nếu để ta an ủi, con bé sẽ căm thù ta lẫn cô cả đời.
Cô gái cười gượng. Nàng phải đi dù về nhà chưa được bao lâu. Chắc chắn Liệt Trúc sẽ giận và bằng cách nào đó, con bé lại hút thuốc hoặc gây rối ở trường học. Không tự dưng Liệt Trúc nán lại bàn ăn suốt buổi dù không biết uống rượu và cũng chẳng ưa Cụ Cố Tổ. Giống nàng, con bé căm thù lũ nhện.
...
Sau ba ngày bay phi thuyền, Tiểu Hồ cùng Cụ Cố Tổ đặt chân tới thủ đô Bắc Thần quốc. Nhưng hai người không nán lại lâu. Họ ăn bữa trưa, nghỉ hai tiếng rồi mua vé tàu đi Tây Vực Châu – vùng mỏ khoáng sản ở phía tây Bắc Thần. Theo lời Cụ Cố Tổ, đền thờ Mộc Thần nguyên thủy nằm tại đây.
Nhắc vùng mỏ, Tiểu Hồ lại nhớ giáo sư Thẩm Tháo và quãng thời gian làm việc chung ở thư viện thủ đô Thiên Kỷ thành thuộc Xích Quỷ quốc[1]. Lúc nghỉ ngơi, ông giáo sư quá cố thường kể cho Tiểu Hồ nghe về cuộc sống nơi khai thác khoáng sản. Nó ồn ào, tiếng máy móc kim khí rền vang suốt ngày, khói bụi ô nhiễm là là bay trên mặt đất cằn cỗi hằn đầy dấu bánh xe cơ giới. Những nhà máy tụ tập thành đàn, ngày này qua ngày khác nhai nuốt nghiến nát đá sỏi chắt lọc kim loại quý, đôi khi tìm thấy cả quang tố. Cả một vùng đất rộng lớn không cây cỏ, không thú hoang, không cả cánh chim bay buổi sớm. Chỉ có người sống cùng kim loại. Người Bắc Thần phải đặt nhà máy lọc không khí, làm sở thú để vùng mỏ bớt ngộp và con người bớt ngột ngạt.
“Nhưng cũng chẳng được tích sự gì!” – Lời của Thẩm Tháo vang lên trong tâm trí Tiểu Hồ – “Nghĩ mà xem, cô gái, liệu cô chấp nhận một nơi không có màu xanh cây cỏ, rồi tiếng thú vật bị giam hãm trong lồng? Thế mà tôi đã sống ở đó cả thập niên! Dần dà tôi quên luôn màu xanh, quên cả hình dạng của cây cối. Tin tôi đi, cô gái, nếu tới đó, cô sẽ quay về ngay thôi!”
Bởi vậy, chuyện đền thờ Mộc Thần nguyên thủy nằm tại Tây Vực Châu làm Tiểu Hồ bán tín bán nghi. Nàng biết rõ các đền thờ Mộc Thần nổi tiếng, thậm chí ghé qua không ít. Nguyên tố Mộc đại diện sự sinh sôi, hình thái tượng trưng tiêu biểu nhất là cây cỏ. Điều dễ nhận thấy là cỏ cây xung quanh nơi đền thờ Mộc Thần ngự trị đều mơn mởn tươi tốt. Đền càng thiêng, cây cối càng um tùm. Tiểu Hồ vẫn nghe người Đông Thổ thường xuyên đến đền thờ Mộc Thần cầu khẩn sinh con đẻ cái thuận lợi. Nếu nghe rằng có một đền thờ Mộc Thần nguyên thủy ở Tây Vực Châu, hẳn rằng tất thảy người phương đông sẽ cười ầm ĩ và cho đấy là chuyện ngu ngốc.
Nhưng Tiểu Hồ đang dấn thân theo sự ngu ngốc đó. Còn người tiêm nhiễm nó vào đầu nàng đang chắp tay trên bụng ngáy pho pho, giữa hai tay là bình rượu gỗ. Trên chuyến tàu đi Tây Vực Châu, ai nấy đều căng thẳng trước vùng đất ô nhiễm, chỉ duy Cụ Cố Tổ thư thái thoải mái. Người uống rượu không lo nghĩ nhiều.
Cụ Cố Tổ có niềm đam mê đặc biệt với rượu. Hôm rời Phi Thiên thành, ông ta ghé qua quận Mắt Trắng, đặt chân vào tiệm rượu đắt nhất, tiêu hết gần một vạn thùng vàng để cắp nách hai chai rượu thượng hạng nhất. Cụ Cố Tổ tuy bề ngoài rừng rú nhưng tiền nhiều như lá rừng. Đám thượng lưu quý tộc Phi Thiên thành được dịp chau mày lác mắt. Kể từ đó lão già làm bạn với rượu, lúc nhớ lúc quên luôn sự tồn tại của Tiểu Hồ. Cơ mà chuyện hóa lại hay. Trước chuyến đi, Tiểu Hồ lo sốt vó vì sợ Cụ Cố Tổ gây sự ở chốn công cộng xô bồ, chưa kể lão già có niềm căm thù sâu sắc với kim loại. Phi thuyền, tàu điện, cảng hàng không, nhà ga... đâu đâu cũng đầy rẫy sắt thép làm ông già khó chịu. Nhưng nhờ rượu, Cụ Cố Tổ dễ tính và dễ hòa đồng với xã hội bằng cách ngủ khò khò. Lần đầu tiên Tiểu Hồ chứng kiến tác dụng to lớn của rượu.
Con tàu xuôi về hướng tây, ngày càng rời xa đô thành và ánh sáng nhân tạo. Nó tiến vào váng trời chiều đỏ nhạt đầy hơi sương lạnh buốt của một mùa đông kỳ quặc đã phủ khắp miền bắc thế giới Tâm Mộng và kéo dài tận tháng 3. Tiểu Hồ từng đến Bắc Thần quốc dăm lần. Lần nào nàng cũng phấn khích trước núi non ở xứ sở Bắc Thần. Chúng to lớn, hùng vĩ nhưng không sắc cạnh gai góc như núi ở lục địa Băng Thổ mà tròn trịa, đa sắc với màu đất nâu, màu lá xanh, màu mùn xám lẫn màu sông bạc. Những ngọn núi Bắc Thần như đám rùa say ngủ, thi thoảng thức giấc rùng mình rũ lá khi đông tới rồi lại tiếp tục giấc nồng. Thậm chí đám rùa có thể bay. Tiểu Hồ từng nghe nhiều quả núi Bắc Thần có thể bay, tới mùa xuân là rời khỏi mặt đất, di chuyển trong phạm vi nhất định và quay lại vị trí cũ vào mùa hè. Người ta nói nhiều phép thuật cổ xưa nhất sinh ra từ Bắc Thần, chúng ngấm vào rừng, sông, đất và làm vạn vật thay đổi.
Giờ sương dày hà hơi lên cửa kính tàu điện, nuốt khung cảnh, nuốt cả ánh trời chiều vào cái bụng mờ lạnh đục ngầu của nó. Mọi thứ trong mắt Tiểu Hồ loang ra, loảng lòe như bức tranh sơn dầu ngâm nước, dù nàng biết chân trời đằng tây có dãy núi án ngữ hay một quả núi đang tà tà bay về hướng tây nam. Tranh không đẹp, người không ngắm. Tiểu Hồ cũng không dư tâm trạng ngắm cảnh. Hai tháng nay nàng cảm giác mình bị chia thách thành nhiều mảnh, phần này ở Đông Thổ xa xôi với công việc, phần kia ở Phi Thiên thành với đủ mối bận tâm về Liệt Trúc. Ấy là chưa kể những mảnh mà Tiểu Hồ giấu cho riêng mình. Chúng hoặc sót lại từ đám tang ngài đại thánh sứ, hoặc nảy nở lớn dần khi công chúa Lục Châu bước vào giai đoạn tranh cử. Thực tâm nàng không muốn công chúa trở thành Bạch Dương Đệ Thập Nhất. Bởi lẽ chẳng ai ngước nhìn lên đỉnh cao mãi, một ngày nào đấy họ sẽ mỏi mệt và xa cách.
Bên ngoài, lá cuộn lên đường xoắn ốc va vào cửa kính. Tiểu Hồ nhìn chiếc lá, như sực nhớ điều gì, vội lần tìm những mảnh đa hình bên trong mình. Cuối cùng nàng tìm thấy một mảnh ánh sắc đỏ. Chính xác là nàng đang tìm nó. Phong đang ở đâu? – Cô gái thắc mắc, sau lại thở dài.
Nàng đã hỏi Hỏa Nghi, hỏi nhiều thứ, không quên dọa nạt nhằm ép gã phải nói. Lạ thay, gã Hỏa Nghi ngày ngày sợ nàng như sợ cọp bỗng dưng câm như hến, không rỉ ra một câu nào. Thậm chí gã quát nạt nàng như mắng trẻ con. “Bớt hỏi đi, Tiểu Hồ, tôi nhiều việc lắm! Tóc đỏ bị truy nã rồi! Hắn là tội phạm, tôi không thể giúp hắn!” – Hỏa Nghi khẳng định chắc nịch. Giống công chúa, gã phủ nhận mọi quan hệ với Vô Phong. Ở một chừng mực, Tiểu Hồ thực sự ghét công chúa và Hỏa Nghi vì địa vị của họ. Nàng hiểu họ nhưng không đồng nghĩa nàng có thể cảm thông.
Đêm xuống, sương lạnh mờ mịt cùng bóng đêm che khuất cảnh vật. Cả con tàu im lặng, chỉ còn Tiểu Hồ thao thức. Nàng vẫn chưa thôi nhớ màu đỏ. Nàng cố gạt tâm sự qua một bên, dồn tâm trí vào nghiên cứu sách vở. Phiền thay, nàng không sở hữu sự tập trung đến độ quên hết tất cả như công chúa Lục Châu. Đống chữ nghĩa dù sống động tới đâu cũng không thể giúp nàng bớt cô đơn. Và kỳ lạ thay, chúng cũng màu đen và lổm ngổm giống bầy nhện. Cuối cùng Tiểu Hồ nhận ra chẳng cách nào hữu hiệu bằng ngủ. Trong thực tại, nàng cô đơn. Trong giấc ngủ, nàng được gặp nhiều người kể cả tên tóc đỏ. Cô gái say giấc nồng lúc nào chẳng hay.
- Dậy! Dậy mau, nhãi con! Đến nơi rồi!
Cái vỗ vai đau điếng làm Tiểu Hồ giật mình. Nàng cứ ngỡ mình vừa thiếp đi, nhưng khi mở mắt thì trời đã sáng bảnh. Loa phóng thanh đang thông báo tàu sắp cập bến Tây Vực Châu, hành khách lục tục thu dọn hành lý. Người tới đây đa số là công nhân, họ quay lại vùng mỏ sau kỳ nghỉ lễ năm mới. Tại Bắc Thần nói riêng và Đông Thổ nói chung, người ta ăn lễ năm mới khá lâu, không nhanh chóng nóng vội như dân chúng phương tây. Suốt kỳ nghỉ lễ, Tây Vực Châu vắng bóng người như vùng đất ma.
Còn bây giờ, vùng đất ma đang chào đón những đứa con xác sống chỉ biết cắm mặt làm việc trở về. Vừa đặt chân xuống tàu, Tiểu Hồ bị ngộp. Bao quanh nàng là một nhà ga khổng lồ, thực sự khổng lồ. Nó có ba mươi đường ray, hơn sáu chục sân ga, tàu điện qua lại tới lui không ngừng nghỉ, vô số bảng điện tử chỉ dẫn hoặc thông báo. Và sắt thép. Sắt thép dựng nên nhà chờ, hàng ghế ngồi, thang máy lên xuống, nhà ăn. Sắt thép dựng nên mọi thứ trong nhà ga. Sắt thép ngồn ngộn. Lần đầu tiên Tiểu Hồ biết sợ kim loại là khi đặt chân lên Đảo Sắt Thép của họ Hỏa, nay cảm giác ấy lại xuất hiện ở nhà ga này.
Trên sân ga, hàng vạn con người mặc đồng phục xanh trắng lầm lũi bước, hiếm hoi lắm mới thấy người mặc y phục khác lạ. Họ không chào hỏi nhau nhiều lắm, cũng ít tiếng cười. Tất cả là công nhân vùng mỏ. Họ không nghỉ ngơi mà tập trung điểm danh tại nhà máy, tới chiều làm việc ngay. Hàng vạn con người bước đi dưới mái vòm nhà ga to lớn khỏa lấp toàn bộ tầm mắt, bụi lân tinh ở mái liên tục đổi màu tạo thành nhiều hình ảnh. Khi thì tranh cổ động, khi lại quảng cáo tương lai xán lạn của vùng mỏ với khu giải trí, thành phố hiện đại được bao bọc bằng hồ nước lẫn cây xanh nhân tạo. Được một lúc, bụi lân tinh đổi thành một lá cờ màu cam có hình nữ thần thân rắn vẽ cách điệu. Nó là quốc kỳ Bắc Thần quốc. Quốc kỳ xuất hiện, loa phóng thanh vang điệu nhạc khỏe khoắn cùng lời lẽ trầm hùng:
“Lao động là vinh quang! Lao động cho Bắc Thần quốc vĩ đại! Lao động cho dòng giống Dệt Thiên vĩ đại!”
Trái ngược tiếng nhạc, công nhân vùng mỏ chỉ cặm cụi đi. Dường như họ đã mất hứng trước màn cổ động diễn đi diễn lại qua nhiều năm. Cụ Cố Tổ đi cạnh Tiểu Hồ, bật cười:
- Tin được không? Cội nguồn phương đông, nơi sản sinh những phép thuật đầu tiên lại thế này. Dòng giống Dệt Thiên một thời tin vào cân bằng tự nhiên và quy luật sống, nay lại là kẻ phá hoại cân bằng nhiều nhất!
- Dệt Thiên là ai? Có phải là vị thần nguyên thủy của người Bắc Thần? – Tiểu Hồ hỏi.
Cụ Cố Tổ ngửa mặt nhìn vào nữ thần rắn trên quốc kỳ Bắc Thần:
- Là bà ta, Dệt Thiên, vị tà thần đầu tiên của người Bắc Thần. Bắc Thần quốc tới nay vẫn thờ phụng các tà thần và là nước thờ phụng nhiều vị tà thần nhất, chỉ sau Diệp quốc. Người Bắc Thần tin rằng bà ta là thủy tổ của họ.
Hai người băng qua sân ga và chờ đợi ở sảnh nhập cảnh. Họ chưa thể vào ngay do thiếu giấy thông hành. Tây Vực Châu là vùng kinh tế lớn, Bắc Thần cai quản khu vực này khá chặt, quân đội và cảnh binh thường xuyên túc trực kiểm tra. Tiểu Hồ không có nhiều trợ giúp ở Bắc Thần nên phải dựa vào Cụ Cố Tổ. Trước ngày khởi hành, lão già gửi thư yêu cầu đám giúp việc sắp xếp giấy thông hành (ổng nhất quyết không xài điện thoại vì không thích, thực chất là mù tịt công nghệ, không biết sử dụng). Nhưng chờ mãi nửa tiếng rồi một tiếng, đám giúp việc của Cụ Cố Tổ vẫn mất tăm mất hút. Ông già sốt ruột nổi quạu:
- Hỏng! Hỏng hết! Nuôi một lũ phí cơm! Bọn ranh con ăn hại!
- Cháu nghĩ chúng ta nên chờ thêm... – Tiểu Hồ dợm nói.
- Chờ lâu cứt trâu hóa bùn! – Cụ Cố Tổ bực dọc – Con nhãi đứng yên! Ta đi kiếm giấy thông hành!
Lão già đùng đùng bỏ đi, bên nách vẫn cắp bình rượu. Tiểu Hồ chẳng rõ ông ta đi đâu hay định làm gì. Một lát sau, Cụ Cố Tổ quay lại cùng bình rượu vơi bớt ít nhiều. Bộ mặt ông già lúc này hầm hầm lửa giận, có lẽ vì số rượu đổ vào không đúng địa chỉ. Tiểu Hồ hỏi khẽ:
- Ngài vừa làm gì vậy?
- Kiếm giấy thông hành chứ sao nữa! Một tí cồn, tí phản ứng hóa học, thêm tí phép thuật. – Cụ Cố Tổ gắt gỏng đoạn bấm đốt ngón tay – Để xem nào! Ba, hai, một...
Một tiếng “BÙM!” cắt ngang lời ông già. Phía xa, khu vệ sinh của nhà ga nổ tan tác. Những mảnh vỡ sứ, bồn rửa, bồn cầu và phân bay vèo vèo lên không trung. Còi báo động rền vang. Mùi thối um xộc khắp nhà ga, các công nhân hoảng sợ chạy nhốn nháo. Đám quân đội lẫn cảnh binh vội vã ngăn cản dòng người. Họ chưa kịp ổn định tình hình thì khu vệ sinh thứ hai phát nổ. Vẫn như trước, hàng đống thứ gạch, kim loại lẫn phân thối đua nhau bay xa bay cao. Cụ Cố Tổ điềm nhiên bước qua cửa kiểm soát mà không ai để ý. Tiểu Hồ vội vã chạy theo, hết hốt hoảng lại hoảng hốt:
- Vạn Thế ơi, ngài vừa làm gì thế?!
Cụ Cố Tổ chẳng thèm quan tâm. Mọi sự chú ý của lão dồn vào bình rượu. Lão vừa bước vừa nghiến răng trèo trẹo, bộ hàm nham nhở cái sứt cái lành rít lên:
- Rượu của ta... bọn ranh con ăn hại... ta sẽ cắt lưỡi từng đứa!
[1]: Thẩm Tháo là người Tây Vực Châu, xem lại Quyển 3 Chương 80. Thẩm Tháo từng làm việc với Tiểu Hồ, xem lại Quyển 3 Chương 94.