Dương Lăng ung dung dẫn Mã Cáp Lư rời khỏi lều lớn, nhưng vừa khuất tầm mắt của những người trong lều y đã vội tăng tốc, bước nhanh đến sườn núi. Chủ lực quân Minh đã rải ra đến nửa ngọn núi, phòng ngự bốn phía, chỉ còn lại một ít quân binh dưới chân núi chấp hành kế sách bắn hết hỏa pháo là lui, nhằm kiềm chế nhuệ khí giặc, cố thủ chờ cứu viện của Dương Lăng.
Chiến mã hí vang, ánh lửa nổi lên bốn bề, một mớ bùn đất mang theo tuyết trắng bắn tung lên trời, trong làn khói mịt mù không ngừng có chiến mã đạp phải mìn ngã gục kéo theo cả người cưỡi. Thế nhưng dòng nước lũ xung phong vẫn không mảy may ngưng nghỉ. Cho dù có chiến mã chệch hướng vì sợ hãi thì kỵ sĩ trên ngựa cũng lập tức cố sức điều chỉnh cho nó xông về phương hướng chính xác.
Theo quán tính được tạo nên bởi hàng trăm hàng nghìn chiến mã cùng lao đi như tên bắn, tất cả mọi thứ trước mặt chúng đều trở thành mục tiêu bị san phẳng. Lúc này cho dù là kỵ sĩ cưỡi ngựa cao siêu đến cỡ nào cũng không thể ghìm cương chiến mã của chính mình. Bất kỳ chiến mã nào dừng lại sẽ lập tức trở thành một chướng ngại không đáng kể, chỉ trong khoảnh khắc sẽ bị giẫm thành bùn nhão, không chút lưu tình.
Cờ sói tung bay, vô số chiến mã giẫm tuyết đạp bùn, cuồn cuộn ào tới. Giáo kích dày đặc như rừng, đao thép sáng bóng như tuyết để lộ mũi đao sắc lạnh đến thấu xương, tiếng vó ngựa như sấm, đinh tai nhức óc. Hứa Thái mặt xám nghoét, trán vồng gân xanh, hai tay nắm chặt thanh đao nhìn chằm chằm vào đội kỵ binh Mông Cổ đang không ngừng tiến sát tới gần. Những kỵ binh xông tới gần nhất đã rút cung lắp tên, Hứa Thái vẫn chưa hạ lệnh khai hỏa.
"Vù", như một đám ong vàng bay vút lên trên cao, lang nha tiễn mang theo tiếng rít khát máu lao tới. Tất cả binh sĩ đều cấp tốc tránh ra đằng sau những tấm cự thuẫn to cao bằng đầu người, đồng thời giơ tấm chắn tròn lên bảo vệ đỉnh đầu.
"Cộp... cộp cộp cộp...", trên mặt thuẫn phủ đầy một lớp tên, có một ít tên xuyên qua khe hở cự thuẫn bắn trúng người binh sĩ, có kẻ rú lên ngã xuống. Chỉ sau khoảnh khắc, lại có tiếng "cộp cộp cộp…" vang lên. Loạt tên thứ hai đã tới.
Cưỡi ngựa bắn tên là bản lĩnh sở trường của kỵ binh Mông Cổ, có khá nhiều chiến sĩ có thể bắn được hơn mười mũi tên trong vòng một hơi thở. Nếu như một đại đội kỵ binh Mông Cổ đang hùng hổ xông tới, bọn họ có thể bắn khoái tiễn dày đặc vừa xa vừa chính xác ngay trong giây phút tiếp cận địch đầu tiên, lợi hại vô cùng. Nếu phe địch cũng dùng cung tên đối đầu thì lập tức sẽ phải rơi ngựa quá nửa.
Hứa Thái kiêu dũng thiện chiến, đã từng xâm nhập vào đại mạc nên đã quen thuộc chiến thuật này của địch. Hơn nữa, tuy Độc Hỏa pháo rất thích hợp để đối phó với kiểu xung phong nghìn nghịt người ngựa như thế này nhưng tầm bắn không xa. Nếu như khai hỏa khi đại đội kỵ binh của giặc chưa xông vào tầm sát thương, tuy có thể khiến một số chiến mã địch trong vùng đạn pháo phải hoảng sợ, nhưng trong khi quân ta nạp lại đạn, kỵ binh Mông Cổ mau lẹ như gió đã có thể xông tới trước mặt rồi. Chỉ cần nắm bắt thời cơ không chuẩn thì thứ được gọi là "vũ khí sắc bén" đó sẽ biến thành que cời lò, không còn đất dụng võ.
Loạt tên thứ ba như mưa trút xuống cự thuẫn, lại có một ít sĩ tốt không kịp đề phòng bị trúng tên ngã xuống. Lúc này Hứa Thái mới gằng giọng rống to:
- Bắn!
Kỵ binh Mông Cổ đã xông qua khỏi vùng gài mìn dần dần xông đến, chỉ cách khoảng ba mươi trượng. Từng họng pháo đen ngòm phun ra những ngọn lửa tử thần. Trong một loạt tiếng gầm đinh tai nhức óc đầy giận dữ, hàng nghìn hàng vạn viên đạn chì, đá, đinh sắt đã bắn trả lại với tốc độ còn nhanh hơn cả tên sắc, quét ngang qua luồng đại quân Thát Đát đang ồ ạt xông đến gần.
Dưới nhát quét ngang của cơn mưa sắt thép, những chiến sĩ Mông Cổ kiêu dũng và chiến mã mạnh mẽ như rồng đã không thể dùng thân thể xương thịt của mình để ngăn đỡ. Lập tức những kẻ đương đầu đều bị thổi tung! Người ngã ngựa đổ, thuẫn gỗ nát tan, thuẫn sắt cũng biến thành cái sàng, tuột tay bay lên không trung. Dưới uy lực khủng bố như đất rung núi lở của hỏa pháo dày đặc, những binh sĩ Mông Cổ chỉ mặc áo da, giáp da biến thành một đống lá quay cuồng trong bão táp, tức thì bị cuốn phăng xuống đất bụi.
Đòn phản kích này thực ác liệt, hỏa pháo bắn thẳng vào giữa đội hình xung phong dày đặc đã tạo nên tổn thất khủng khiếp: có gần một nghìn dũng sĩ ngã ngựa, hơn năm trăm thớt ngựa bị mù, toàn thân đẫm máu đang la hí giãy giụa. Khí thế không thể ngăn trở của kỵ binh Mông Cổ vì thế mà khựng lại.
Nhân thời cơ này Hứa Thái ra lệnh lắp tiếp đạn dược vào hỏa pháo. Đồng thời hắn vẫn còn hai mươi khẩu vẫn chưa khai hỏa đang sẵn sàng đón địch, điều này nhằm tránh cho khoảng thời gian giữa hai loạt bắn quá lâu.
Bá Nhan cũng hạ lệnh quyết tử. Hắn quát tháo ra lệnh cho đại tướng thân tín của mình là Bác Đạt Nhĩ Mô lập tức tổ chức xung phong, nội trong khoảng thời gian ngắn nhất phải công phá được phòng ngự dưới chân núi.
Trận đánh hôm nay không dùng đến bất cứ mưu lược gì, mục tiêu duy nhất của hai phe công và thủ đều là ngọn núi này. Quân Thát Đát chỉ cần đánh chiếm được ngọn núi này thì sẽ thành công toàn diện, bằng không mọi thứ sẽ kết thúc. Bản thân là đại tướng tâm phúc của Bá Nhan, Bác Đạt Nhĩ Mô biết rõ tầm quan trọng của thời gian. Hắn lập tức cùng phó tướng là Hất Lâm Đạt Đạt mỗi người dẫn hai nghìn kỵ binh, bày trận hình cánh nhạn từ hai bên đánh thốc vào chân núi. Được đại tướng dẫn đầu làm gương xung phong lên trước, đám binh sĩ vừa la hét vừa liều chết xông lên, hai mắt đỏ ngầu.
Hứa Thái cười nhạt, chờ cho bọn chúng đến gần, độc hỏa pháo vốn không cần nhắm chuẩn chỉ hơi quay nòng, một loạt đinh sắt, đạn chì tròn dày đặc lại được bắn ra. Kỵ binh Mông Cổ không chỗ náu thân, thuẫn sắt và áo giáp đều không hề có tác dụng gì, người ngựa lại ngã rạp một mảng lớn.
Trong đợt xung phong này, phó tướng Hất Lâm Đạt Đạt bỏ mạng tại chỗ, Bát Đạt Nhĩ Mô mù một mắt, miệng sứt một miếng to lộ rõ hàm răng trắng hếu, song hắn vẫn dẫn đám binh sĩ còn lại liều mạng xông lên.
Trận địa quân Minh cũng có hơn trăm binh sĩ bỏ mạng dưới mũi tên của kỵ binh Mông Cổ, không kịp nạp thêm đạn dược. Trong khói thuốc mịt mù, số binh sĩ Mông Cổ chưa chết lại được hai mươi khẩu đại pháo gầm thét khạc lửa đón tiếp, chỉ kịp bắn được hai loạt tên liền bị quét rơi rụng.
Nhân cơ hội này, Hất Khắc Nông liền tập kết ba nghìn tinh kỵ lại chia làm ba cánh trái giữa phải, tức tốc xông lên. Bá Nhan rỉ máu trong lòng, đây đều là bộ hạ chính quy của hắn. Nhưng lúc này không phải là lúc bo bo giữ riêng quân cho mình, bất kể phải trả cái giá lớn như thế nào, hắn nhất định phải đánh chiếm cho được núi Bạch Đăng.
Chuyến này hắn điều động tinh binh các bộ lạc với quy mô lớn để cướp bóc biên quan, đương nhiên trước tiên là để báo thù cho con của hắn, nhưng nguyên nhân quan trọng hơn đó là: Hoàng đế nhà Minh vừa mới băng hà, thiên tử mới lên ngôi là một thằng nhóc chỉ mười sáu tuổi; chúa còn nhỏ tuổi thì lòng nước chưa an, đây vốn là cơ hội tốt nhất để xâm chiếm đất đai trung thổ. Nhưng hắn không hề ngờ tên tiểu hoàng đế này không hề yếu kém chút nào, thậm chí còn hiếu chiến hơn cả vua Hoằng Trị cha nó.
Chẳng những tiểu hoàng đế mau chóng điều động trọng binh đến biên quan phòng ngự mà tướng lĩnh được phái đi còn hữu dũng hữu mưu, đại quân Thát Đát bị kiềm chân khó thoát, đã hao sạch quân nhu. Càng khiến hắn bất ngờ chính là quân Minh xưa nay chỉ thủ không công, từ sau trận chiến Thổ Mộc Bảo đã coi đại mạc là chốn vô cùng nguy hiểm, mà nay lại dám mạo hiểm phái một nhánh kỳ binh quét ngang qua đại mạc đang trống trải.
Bởi vì ba trăm thân vệ đảm trách việc giam lỏng Mãn Đô Hãi đều bị diệt sạch, cho nên hiện tại hắn vẫn chưa biết hoàng hậu Mãn Đô Hải uy danh khắp đại mạc đã rơi vào trong tay Đại Minh. Nhưng trước lúc xuất binh hắn đã âm thầm cài thám mã giám thị hành vi các bộ lạc. Tin tức các bộ lạc bị tập kích, dê bò bị giết sạch, cỏ khô tích trữ bị đốt trụi đã lặng lẽ được đưa tới. Tin tức này chẳng khác nào là muối sát vào vết thương của Bá Nhan vừa mới chiến bại.
Hiện tại hắn vừa mới dùng vũ lực đàn áp, thống nhất đại mạc, một khi hắn phải chịu áp lực nặng nề như thế này, ắt các bộ lạc có dã tâm sẽ rục rịch ngóc đầu dậy, cục diện đại mạc mới vừa thống nhất ắt sẽ lại sụp đổ tan tành. Con đường thoát duy nhất chính là giết chết Hoàng đế nhà Minh. Thắng lợi trọng đại về mặt quân sự này có thể thay đổi toàn bộ những vấn đề đang tồn tại trên thảo nguyên, khiến uy vọng cá nhân hắn đạt tới một đỉnh cao chưa từng có. Tất cả mọi chất vấn và chỉ trích sẽ do chiến công lẫy lừng này mà tan thành mây khói.
Gặp thời cơ Di Lặc giáo chủ động hợp tác, trao cơ hội cho hắn nên vốn bị dồn đến bước đường cùng, Bá Nhan lập tức dấu nhẹm tin tức bên trong đại mạc bị càn quét, dồn sức dốc sạch vốn liếng đánh núi Bạch Đăng. Công phá quan ải chớp nhoáng, kỳ binh xuất hiện đột ngột, ai sẽ có thể ngờ được bọn họ sẽ từ trên trời rơi xuống? Năm xưa, cũng chỉ với năm vạn nhân mã mà Thát Đát đã đánh bại năm mươi vạn quân Minh, bắt sống Hoàng đế nhà Minh. Hắn là con cháu của Thành Cát Tư Hãn dũng mãnh, chẳng lẽ nắm gần năm vạn nhân mã còn không giết được Chính Đức chỉ có hơn vạn nhân mã hộ vệ sao?
Chỉ cần giết được Chính Đức, triều đình nhà Minh sẽ như rắn mất đầu. Hiện tại các đại thần thân tín nắm quyền của Chính Đức và những bá quan thất thế muốn chất vấn phản công đang đấu đá nhau túi bụi. Đến khi Chính Dức bị giết, các vương gia tranh giành thừa kế ngai vàng sẽ khiến triều đình nhà Minh đã loạn càng thêm loạn. Lúc đó, cho dù chiếm không được Đại Đồng, không thể thừa cơ kiếm chác chén canh thì hắn cũng vẫn có thể ung dung trở về đại mạc nghỉ ngơi dưỡng sức.
Còn về phần gần mười vạn đại quân của Dương Nhất Thanh, hắn không thèm để mắt tới. Quân của Dương Nhất Thanh chia ra trú đóng tại các quan ải, vệ sở và thành lũy rải rác khắp Trường Thành, tổng binh lực tuy hơn hắn, nhưng binh lực có thể cấp tốc tập trung ở lân cận Đại Đồng không thể hơn. Hơn nữa hoàng đế Đại Minh đang ở đây, quân Minh không có thời gian để thong thả bố trí, binh mã các lộ ắt sẽ không tiếc tất thảy mà kéo tới xả thân cứu giá. Khắp quan ải Trường Thành sẽ đầy chỗ hở.
Cho nên chỉ cần hắn có thể tranh thủ giết được Chính Đức trước khi Dương Nhất Thanh tập trung được binh mã, thì hắn sẽ có thể lợi dụng ưu thế cơ động của kỵ binh mà ung dung nhảy ra khỏi vòng vây của quân Minh mà cao chạy xa bay. Hiện tại hắn phải cần tranh thủ thời gian, bởi vì hắn chỉ có cơ hội đánh một trận này. Cho dù lúc này chính là lúc dùng tấm thân máu thịt để giành đường sống, hắn cũng không nuối tiếc.
Đại quân của Hất Khắc Nông xông tới, đại pháo vừa được vội vàng lắp đạn lại khai hỏa, mặt đất rung chuyển, để lại một đống xác chết. Dưới nghiêm lệnh của Bá Nhan, quân Thát vẫn như thủy triều tràn tới, hết đợt sóng này đến đợt sóng khác. Hứa Thái lập tức quát ra lệnh cho nhân mã rút lui lên núi. Đám binh sĩ bắt đầu di chuyển lên núi dưới sự yểm trợ của lính cầm thuẫn và hỏa súng. Pháo thủ kéo ngòi nổ thật dài vào trong đống đạn dược, rồi rút lui khỏi trận địa sau cùng.
Giặc Thát kéo đến xông lên núi như sói như cọp. Đội quân tiên phong mới vừa ruổi ngựa lấy đà phi như bay xông lên đến lưng chừng núi thì thuốc súng chôn dưới núi đã nổ tung. Chân gãy tay cụt, máu bắn như mưa, một cái đầu ngựa to đùng bắn tung lên giữa lưng chừng núi rồi rơi bộp xuống đất, cặp mắt ngựa trợn trừng khiến người ta trông thấy phải rét run.
Thiên phu trưởng Ô Châu Mục Sấm ghìm ngựa quay đầu nhìn, đội hình xung phong bị nổ tung thành một cái hố máu rộng đến chục trượng, bên cạnh mình còn khoảng hơn ba trăm người. Chỉ cần xông lên được tới đỉnh, cho dù chỉ chiếm cứ trong khoảng thời gian một chén trà, bộ đội theo sau sẽ có thể không ngừng ùn ùn xông lên núi. Hắn bèn rống to một tiếng, quát bằng tiếng Mông Cổ:
- Tiến lên! Hãy giết sạch người Hán như giết dê mổ bò!
Liên tiếp những tiếng reo hò trợ oai vừa mới cất lên, kỵ binh xông lên đầu đã nghiêng trái đổ phải, ngã rạp xuống ngựa. Trên sườn núi được đặt nhiều hố bẫy ngựa, chôn chông sắt, con đường chính giữa vốn được lót ván gỗ đã bị rút đi, mặc dù khi xông lên sườn núi tốc độ đã giảm bớt, nhưng chân ngựa bất chợt sa vào hố vẫn bị gãy ngang. Chiến mã bị chông sắt đâm bị thương cũng giãy giụa khó mà khống chế.
Ngay vào lúc này, một đội quân Minh giáp trụ sáng choang chợt xuất hiện trên đỉnh núi, Ô Châu Mục Sấm trông thấy sau lưng bọn họ đeo một lô những cây giáo có đuôi thì không kềm được hít một hơi dài, lập tức la to:
- Xuống ngựa! Nấp sau chiến mã!
Song đã không kịp nữa. Mấy trăm quân Minh đứng trên cao phóng những cây giáo dài một mét xuống, tạo thành những đường vòng cung tuyệt đẹp. Những cây giáo mang theo đà phóng mạnh mẽ thậm chí có thể xuyên qua cả đầu ngựa không chút khó khăn đã cắm xuyên vào thân thể người. Một loạt những tiếng "phập phập" vang lên, hàng loạt người vừa còn sống mạnh khỏe chỉ trong nháy mắt đã biến thành những thây ma lạnh ngắt.
A Lặc Thái dẫn đại quân xông lên. Mệnh lệnh hắn nhận được chỉ có một: "Bằng mọi giá phải mau chóng chiếm lấy ngọn núi, cho dù toàn quân bị diệt sạch." Sự phản kích của quân Minh mãnh liệt và thảm khốc không kém. Bọn họ cũng không có đường lui, nếu để giặc Thát xông được lên núi, thứ chờ đợi bọn họ chỉ là cái chết.
Súng tay của quân Dương Lăng và những tay thần tiễn người Đóa Nhan của Mã Cáp Lô tạo thành một sự kết hợp hoàn hảo. "Đoàng đoàng đoàng", một loạt đạn bắn ra, những tay súng lập tức lui về sau lắp đạn, nhường cung tiễn thủ của Đóa Nhan Tam Vệ và quân Thát Đát cùng sử dụng kỹ xảo thành thạo mà bắn lẫn nhau. Tên bay vun vút như mưa, có sĩ tốt bị súng bắn lủng lỗ chỗ như cái nia, cũng có người bị tên nỏ ghim thành con nhím. Song phương lấy sườn núi làm trận địa, thây chất thành tường, tiếng kêu rên vang khắp núi.
Dương Lăng đứng trên mỏm núi cao quan sát tình hình chiến sự. Chỗ này thế núi dốc đứng, giặc Thát không có cách nào tấn công lên đây, rất thích hợp để theo dõi cuộc chiến. Căn cứ vào tình huống binh lực tấn công lên núi của Thát Đát, Dương Lăng không ngừng đưa ra từng chỉ thị một: điều động chiến sĩ sử dụng vũ khí tầm xa như lính bắn súng và cung tiễn thủ, đồng thời cho đao thuẫn thủ, lính cầm thương và cầm côn chuẩn bị đánh giáp lá cà.
Giặc Thát tấn công như cọp điên, quân Minh đứng vững không lùi, hai bên trông hệt như hai con mãnh thú đang tranh ăn. Giành giật, giằng co, kẻ trước ngã xuống, người sau tiếp bước, thây chất mỗi lúc một nhiều khắp mặt đất, tiếng la hét gào thét vang tận mù xa.
Mã Cáp Lư căng thẳng nhìn quanh, cất giọng nghi hoặc:
- Dương đại nhân! Bá Nhan bất chấp thương vong, thế tấn công rất rát, Thiên khả hãn và thủ lĩnh các bộ lạc đều đang ở trên núi, như vậy thật quá nguy hiểm. Tại sao phục binh còn chưa xuất hiện?
Dương Lăng cười ha hả đáp:
- Mã Cáp Lư tướng quân không cần phải nóng ruột. Ngài hãy xem, nhân mã Bá Nhan tuy điên cuồng, nhưng trước sau vẫn khó mà vượt qua một bước. Hắn không ngờ trên núi chúng ta lại có đến hai vạn tinh binh, cứ tiếp tục cố thủ sẽ không thành vấn đề.
Nơi này đồng không mông quạnh, nếu bố trí phục binh quá gần thì sẽ bị Bá Nhan phát hiện ra ngay. Hiện đại quân của chúng tôi cần phải mất một thời gian nữa mới có thể kéo tới được. Đến lúc đó quân Bá Nhan đều người mệt ngựa mỏi, quân của chúng tôi sẽ quét sạch bọn chúng như lá khô, khiến hắn không thể trốn tránh ở bất cứ chỗ nào nữa!
Mã Cáp Lư nghe vậy thì hơi yên lòng. Hắn trông thấy sườn núi mé trái đang bị quân Bá Nhan tấn công rất rát, song phương đã bắt đầu đánh giáp lá cà giữa lưng chừng núi. Trong đám đông, tiếng gào thét điên cuồng như sấm dậy, theo sau mỗi tiếng gầm, đao quang lóe lên, bóng thương vun vút, thỉnh thoảng lại có người bị đâm, bị chém, trong chớp mắt nơi đó đã biến thành một lò mổ đầy máu thịt. Cung tiễn thủ trên núi vẫn đang bắn tên ngăn trở dòng quân Thát Đát cuồn cuộn xông lên.
Mã Cáp Lư không kiềm được bèn nói:
- Ta qua bên đó xem một chút. Cứu binh chưa tới, nhất định không thể để bọn chúng lên núi.
Không hề cảm thấy yên tâm, khi nãy Ngân Kỳ cũng đi theo ra khỏi lều soái. Nàng đang mặc trang phục thị vệ, lại thêm hiện tại Đóa Nhan Tam Vệ đang cùng quân Minh kề vai tác chiến cho nên Ngũ Hán Siêu không tiện ngăn cản, bèn để mặc nàng đi theo Dương Lăng ra ngoài.
Ngân Kỳ đứng một bên liếc mắt sang, cẩn thận quan sát vẻ mặt Dương Lăng rồi chợt mở miệng hỏi:
- Nghe nói tướng quân nhà Minh càng ở xa Hoàng đế thì đánh càng hăng, càng có Hoàng đế bên cạnh thì càng sợ bóng sợ gió, sợ này sợ nọ.
Thiết kỵ Thát Đát lui tới như bay, các người muốn bắt được cái bóng của hắn cũng khó. Hiện các người lấy Hoàng đế làm mồi dụ đại quân của hắn lại, rồi lại bao vây từ bên ngoài. Thoạt nghe thì thấy kế rất hay, nhưng nếu như viện quân chậm trễ không đến kịp, bản thân các người sẽ bị người ta tiêu diệt mà theo tình hình hiện nay cũng sẽ liên lụy đến cả chúng ta, cũng sẽ bị quân Thát tiêu diệt chung với các người.
Làm sao mà Dương Lăng chẳng khẩn trương cho được? Vốn ước định cùng nhau nếu núi Bạch Đăng gặp nguy hiểm thì liền nổi khói hiệu để Đại Đồng phái quân cứu viện. Hiện tại tổng binh Đại Đồng nhận được tin đã phái Hứa Thái đến hộ giá, thì không có lý do gì không có quân đội tiếp tục đến chi viện, trừ khi thành Đại Đồng cũng đã bị tấn công.
Nếu quả là như vậy, chỗ y có thể gởi gắm vào cũng sẽ chỉ còn có nhân mã của Dương Nhất Thanh. Nhưng binh mã Dương Nhất Thanh chuyên phòng thủ biên giới, kỵ binh rất ít. Cho dù hắn ta cố sức thúc quân chạy về cứu viện thì cũng phải cần đến hơn một canh giờ; đến lúc đó quân lính đã thành nỏ mạnh hết đà, còn lại bao nhiêu chiến lực thật không thể nói trước được.
Sợ nói nhiều sẽ lỡ lời, Dương Lăng không dám trả lời thẳng vấn đề thứ hai. Y cố ý cười nói:
- Câu bình luận tướng quân càng ở xa Hoàng đế thì đánh càng hăng của cô nương hình như hoàn toàn không liên hệ gì tới sự lo lắng của cô nương trong câu thứ nhì thì phải. Không biết cô nói vậy là có ý gì?
Ngân Kỳ trợn tròn cặp mắt to đẹp nhìn y, hoài nghi:
- Bởi vì nó không giống như là ngài đang thực hiện theo mệnh lệnh Hoàng đế. Ngược lại... có vẻ như Hoàng đế không hề có bất kỳ ý tưởng gì, tất cả mọi thứ đều do ngài chỉ huy vậy. Các vị đã thật sự thương lượng phương cách dụ Bá Nhan đến thật sao? Không phải là đã trúng kế của Bá Nhan chứ?
Dương Lăng giật thót trong lòng, gượng cười hỏi lại:
- Sao cô nương lại nói như vậy?
Ngân Kỳ trề môi, đáp:
- Người Minh các người hết lòng bảo vệ Hoàng đế vô cùng, sẽ chịu mạo hiểm như vậy ư? Ta càng nghĩ càng thấy không hợp lý. Ngài xem đi, dưới núi thế công rất rát, các vị lợi dụng dịp ký kết hiệp ước để dụ Bá Nhan tới, song lại lung lay sắp đổ như thế này...
Vừa nói cô ta vừa bước tới cạnh vách núi, khom người nhìn xuống tình hình chiến đấu bên dưới.
Nghe vậy, Dương Lăng chợt nảy ý định giết người. Đóa Nhan Tam Vệ nổi tiếng là kẻ trở cờ theo gió, một khi biết được sự thật, quả thật không ai đoán được bọn họ sẽ đâm lao theo lao hay lâm trận trở giáo. Tiểu cô nương này luôn đứng bên cạnh Hoa Đáng, nhất định là người được hắn ta tin tưởng vô cùng, nếu để cô nàng quay về bẻm mép thì hơn vạn sinh mạng trên núi này rất có thể sẽ chôn vùi trong tay cô ả. Thậm chí giang sơn Đại Minh, còn cả những người thân của mình...
Chung quanh đều là thân binh của mình, tình hình chiến sự đang căng thẳng, sẽ không ai để ý đến bên này, chỉ cần mình đưa tay đẩy một cái...
Dương Lăng đấu tranh dữ dội trong lòng, một tay đã giơ lên cao nhưng không thể hạ quyết tâm giết người. Ngay lúc đó Ngân Kỳ đã xoay người lại. Vừa trông thấy ánh mắt của Dương Lăng, nàng đột nhiên cảnh giác bước tránh sang một bước, tay vịn vào loan đao giắt lưng, quát:
- Ta đã nói đúng rồi? Ngươi muốn giết ta?
Dương Lăng thoáng ngẩn người, gượng cười chống chế:
- Sao cô nương lại nói như vậy? Vô duyên vô cớ, tại sao tôi lại muốn giết cô?
Cặp mắt to tròn xinh đẹp vẫn nhìn chằm chằm vào y khiến Dương Lăng cảm thấy mặt mình nóng rực. Từ trước đến nay đây là lần đầu tiên y nảy ý định giết một người vô tội, mặc dù là để bảo vệ cho nhiều tính mạng, nhưng chẳng lẽ không phải y đang lợi dụng Đóa Nhan Tam Vệ ư? Trong lòng y dâng lên một nỗi hổ thẹn khó tả.
Ngân Kỳ hừ nhạt một tiếng, đáp:
- Bởi vì ngươi sợ chúng ta lật lọng, lâm trận trở giáo. Dương tướng quân, đừng coi chúng ta quá quắt như vậy. Phụ thân ta tuy đôi lúc ngả về phía Bá Nhan, song đó cũng là vì sự sống còn của cả bộ lạc mà thôi.
Đoạn nàng lắc đầu, thở dài rồi nói tiếp:
- Ngài yên tâm, hiện tại tôi đã lỡ trèo lên thuyền giặc của ngài, chỉ còn cách kiên trì tiếp tục theo ngài đến cùng. Lúc này mà trở giáo sẽ phải trả cái giá quá đắt, thế nên cho dù cha tôi có nghi ngờ, tôi cũng sẽ giúp ngài che giấu. Nhưng... chỉ mong đại quân của ngài thật sự có thể kéo tới kịp thời, bằng không ngài sẽ hại cả bộ tộc chúng tôi đấy.
Dương Lăng nghe mà thấy hổ thẹn không thôi. Y chợt quát lớn:
- Người đâu!
Thoáng chấn động cả người, Ngân Kỳ rút soạt thanh loan đao ra khỏi bao, mũi đao chĩa thẳng vào cổ họng Dương Lăng. Thị vệ nghe gọi xông đến gần trông thấy vậy lập tức bạt đao chĩa về phía Ngân Kỳ.
Dương Lăng thành khẩn nói:
- Trước kia Đóa Nhan Tam Vệ luôn dao động giữa Đại Minh và Thát Đát, không rõ chọn lưa bên nào, cho nên bản quan mới không yên tâm. Tuy nhiên cô nương nói đúng. Đại địch ngay trước mắt, chúng ta nên tin tưởng lẫn nhau, bắt tay nhau cùng vượt qua ải khó. Nếu như lúc này còn nghi ngờ lẫn nhau, vậy thật sự sẽ đồng quy vu tận thôi.
Ngân Kỳ nhìn y thật lâu không chớp mắt, cổ tay thoắt lật, thanh loan đao lại tra soạt vào trong vỏ. Nàng cười mỉm:
- Người Hán các người thật sự rất giảo quyệt, lời đại nhân vừa nói nghe thật xuôi tai. Thực ra nói đi nói lại chẳng qua là đại nhân cho tôi biết rằng nếu các người chết sạch thì chúng tôi cũng sẽ không sống nổi mà thôi.
Hừ! Tôi nói cho ngài biết! Bá Nhan đã từng xin phép cha tôi được cầu hôn, chỉ cần tôi đồng ý gả cho Bá Nhan, Đóa Nhan Tam Vệ cũng quy thuận Thát Đát thì chúng tôi còn có đường sống. Cho nên chúng tôi sẽ cố sức giúp đỡ ngài, nhưng nếu như người của các ngài không kịp thời kéo đến tiếp viện, nếu như toàn bộ thủ lĩnh các bộ lạc đều bị giết, tộc nhân chúng tôi sẽ bị thôn tính, sẽ bị giáng làm nô lệ.
Cho nên, khi mà núi này bị đánh đổ, nếu phải chọn giữa sự diệt vong của toàn tộc và quy thuận cầu sinh chúng tôi nhất định sẽ lựa chọn cái sau; còn tôi, tôi cũng sẽ tình nguyện vì tộc nhân mà dâng hiến thân mình!
Nàng nói một cách hết sức thản nhiên, ánh mắt trong veo như dòng suối. Lấy trinh tiết của chính mình để đổi lấy sự sống còn cho người trong tộc, điều mà những phụ nữ người Hán được hun đúc bởi tư tưởng coi trinh tiết to như trời cho dù có thực hiện được cũng ngượng miệng khi nhắc đến ấy, lại được nàng phát biểu một cách vô cùng thánh thiện.
Dương Lăng thoáng nghĩ ngợi, rồi trang trọng đáp:
- Được! Chúng ta cùng thỏa thuận một hiệp nghị quân tử. Nếu như có thể giữ được núi này, chúng ta sẽ dốc hết toàn lực cùng nhau giữ lấy. Khi đỉnh núi bị đánh chiếm, bản quan sẽ lấy thân đền nợ nước, mọi hành động của quý tộc sẽ do các người tự mình quyết định!
Ngân Kỳ đưa mắt chăm chú nhìn y, rồi cũng nghiêm túc gật đầu.
Dương Lăng quay sang bảo thị vệ:
- Đi nổi khói hiệu, cấp báo cho toàn bộ quan ải phụ cận biết!
Quân tiên phong Thát Đát giống như dùi đục đóng về phía trước, khí thế như thủy triều, sắc bén không gì cản nổi, chiến đấu quyết liệt với quân Minh ở khắp sườn núi. Giặc Thát không thể phát huy ưu thế của khoái mã, nhưng lại hơn ở chỗ đông người, ai nấy đều hung hãn; quân Minh đứng ở trên cao, chiếm được địa lợi, ai nấy cũng liều mạng, thề chết không lui.
Rừng giáo mưa tên, gươm sắc đầy trời, mấy vạn người quên sống mặc chết hò hét vang dội, cả chiến trường giết chóc sôi sục. Quân Thát đã xông được tới lưng chừng núi nhưng muốn bước thêm nửa bước đều phải đánh đổi bởi vô số máu tươi và tử thi chất đống. Với tình hình này, không quá một canh giờ thì bọn chúng cũng đừng hòng tấn công lên đến đỉnh núi, đến lúc đó ắt thế nào cũng sẽ có mấy đạo viện quân nhà Minh kéo tới.
"Vù", tiếng tên bay vút. Khi tiếng thét đập vào tai, một mũi tên nanh sói đã xuyên qua ngực một viên lính nhà Minh như một tia chớp. Mũi tên lộ ra sau lưng mang theo một đám hoa máu, lực bắn mãnh liệt vô cùng.
Tên giặc Thát vừa bắn trộm mới vừa lắp mũi tên thứ hai lên cung thì đã bị một tay hỏa súng bắn vỡ đầu. Hứa Thái và Lưu Đại Bổng Chùy, người cầm thương, kẻ cầm côn, thủ ở trước núi, binh khí ngầm mang theo tiếng sấm sét, như rồng độc quay cuồng, quét, đâm, khua... bên cạnh không ngừng có binh sĩ Thát Đát hung tợn và dũng mãnh ngã xuống. Chỉ hai người bọn họ đã đủ sức khống chế một vùng có bán kính mười lăm mười sáu bước, không kẻ nào có thể tiến lên. Sự oai hùng của hai ngưởi khiến sĩ tốt chung quanh nức lòng chiến đấu. Đao thuẫn thủ đã vứt thuẫn, hai tay cầm chắc thanh đao cùng giặc Thát quyết chiến.
Đây là một trận đánh ác liệt, thắng thua cuối cùng sẽ chỉ được quyết định bởi binh lực mạnh yếu, khí thế cao thấp của hai bên, mà không liên quan lắm đến việc điều bình khiển tướng trên chiến trường có hợp lý hay không, sự phối hợp giữa các tổ đội thuần thục nhiều hay ít, cùng với khí giới hay cách vận dụng mưu lược. Cho tới hiện tại, vẫn là phe thủ núi chiếm ưu thế.
Người chết chất thành gò trên sườn núi, chân tàn tay cụt khắp nơi, máu nhuộm khắp mặt đất, mùi máu tanh xộc vào mũi kích thích sát khí của mọi binh sĩ. Cung, đao, thuẫn, súng cùng triển khai, đao chém tên bắn như sóng vỗ; máu vấy giáp y cũng vẫn mặc kệ. Tất cả mọi người như trở nên điên rồ, không ngừng vung vũ khí, quên hết sinh tử, quên cả sợ hãi.
Dưới chân núi, Bá Nhan thúc ngựa chạy qua chạy lại, cổ vũ binh sĩ dũng cảm xông lên phía trước. Lúc này, mỗi khắc trôi qua thì hy vọng thành công của hắn càng nhỏ đi một phần, làm sao hắn không sốt ruột như lửa đốt trong lòng?
Lúc này, một tướng lĩnh Thát Đát hổn hển chạy lại bẩm:
- Đại Hãn, đã lắp xong bốn mươi khẩu pháo. Có dùng chúng để công phá núi không?
Bá Nhan nghe vậy liền cả mừng, lập tức gò ngựa hạ lệnh:
- Mau lên! Lập tức vận chuyển tới trước núi, dùng pháo công núi, phía sau tiếp tục lắp ráp. Dùng hết cả một trăm hai mươi khẩu đại pháo cho ta, để ta xem Chính Đức còn có thể trốn ở chỗ nào. Ha ha ha...
Một loạt kèn lệnh cất lên, giặc Thát đang công núi ào ào rút lui. Quâm Minh lấy làm ngạc nhiên:
- Giặc Thát lui rồi? Bọn chúng không tấn công nữa mà bỏ chạy sao?
Nhưng ngay sau đó bọn họ liền phát hiện quân địch đang đẩy mấy chục chiếc giá gỗ cao lớn về phía dưới chân núi, đằng sau mỗi chiếc giá là mấy trăm tên lính Thát Đát cầm dây thừng dài thật dài. Đó là thứ gì vậy? Đám quan binh đến từ Kinh doanh lấy làm lạ, nhưng quan binh dưới trướng Hứa Thái và chiến sĩ Đóa Nhan Tam Vệ lại lần lượt hét lên hoảng sợ:
- Pháo Hồi Hồi! Bọn chúng đã vận chuyển pháo Hồi Hồi tới!
Hứa Thái đanh giọng quát:
- Sợ cái gì! Nơi đây bốn mặt là bình nguyên, toàn là đất cát, bọn chúng lấy đá ở đâu mà bắn lên núi chứ?
Binh sĩ chung quanh nghe vậy mới cảm thấy hơi yên tâm.
"Pháo Hồi Hồi"(1) được tạo bởi những thanh gỗ lớn làm giá, kết nối với nhau bởi đai riềng kim loại. Trên giá đặt một trục pháo có thể chuyển động, trên trục là một thanh gỗ dài được bắt cố định làm "nòng pháo". Trên thực tế đây là một loại máy bắn đá, dùng để ném đạn đá, bên dưới hệ thống buộc hơn trăm sợi dây thừng, mỗi sợi do hai người cùng kéo, tầm bắn có thể đạt tới mấy trăm bước.
Sau khi quân Mông Cổ sử dụng pháo Hồi Hồi ném cự thạch phá hủy tường thành Tương Dương chỉ sau một loạt bắn, thì cuộc đại chiến Tương Dương kéo dài suốt ba năm mới tới hồi kết thúc. Loại máy bắn đá tương tự đã từng sớm xuất hiện vào thời Xuân Thu. Loại pháo Hồi Hồi này rất dễ lắp ráp, vào năm Tĩnh Khanh thời Bắc Tống, lúc tấn công Biện Lương, quân Kim đã từng lắp hơn năm nghìn khẩu pháo chỉ trong một đêm. Không ngờ để đánh chiếm núi thành công, Bá Nhan đã cho xe thồ vận chuyển một số lượng lớn khí giới đến lắp ngay gần chân núi.
Có điều không cách nào bọn chúng kiếm được “đạn” là đá tảng to lớn ngay tại chỗ để “bắn”. Chiến mã Mông Cổ cho dù có khỏe cỡ nào cũng không thể kéo những tảng đá lớn nặng mấy trăm cân đi mấy chục dặm để tập kích bất ngờ như vậy. Rốt cuộc bọn chúng sẽ dùng thứ gì để công phá núi?
"Pháo Hồi Hồi" dừng lại dưới chân núi, khoảng cách này đã quá tầm nỏ mạnh, không thể gây thương tổn cho chúng. Quan binh trên núi chỉ có thể nắm chặt binh khí yên lặng chờ đợi.
Bá Nhan nhếch mép cười gằn. Hắn vốn không ngờ quân số trên núi lại sai lệch so với tin tình báo, hình như không chỉ nhiều hơn gấp đôi, cho nên thế công gặp phải trở ngại. Nhưng hắn có món lợi khí này, quân Minh lại chỉ dùng vũ khí thủ núi đơn giản thì sẽ còn có thể giữ được bao lâu?
Tuy máy bắn đá chủ yếu được dùng để ném những tảng đá lớn phá hủy tường thành, đè chết binh sĩ, nhưng lúc đại quân Mông Cổ tây chinh, trong trận chiến Vác-xa-va, bọn chúng lại chợt nảy ra diệu kế, khơi mào cho thời đại chiến tranh hóa học. Bọn chúng đã sử dụng pháo Hồi Hồi bắn một lượng lớn bong bóng có chứa khói độc vào thành, khiến cho toàn thành Vác-xa-va chìm trong thạch tín và khói độc.
Thấy được hiệu quả mới của thứ vũ khí này, lúc đại quân Mông Cổ tấn công Con-xì-tan-ti-nô-pô-li (nay là thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ), nhằm lúc dịch hạch hoành hành trong quân đội, quân Mông Cổ bèn dùng pháo ném luôn thi thể của quân sĩ mắc bệnh vào thành, khiến trong thành bùng phát bệnh dịch. Nghe nói thương nhân nhiễm dịch trong thành chèo thuyền trốn ra ngoài, mang theo khuẩn bệnh dịch hạch Châu Á này tới Châu Âu, dẫn đến việc gây ra cơn đại dịch "Cái chết Đen" mà người dân Châu Âu nghe đến là khiếp sợ. Trận đại dịch này đã cướp mất tính mạng một phần ba dân số Châu Âu lúc bấy giờ.
Sau khi nhà Bắc Nguyên tan rã, giặc cướp cưỡi ngựa tập kích biên giới chủ yếu chỉ nhằm cướp bóc. Ngoại trừ năm trước, lúc đánh chiếm Đại Đồng bọn chúng có sử dụng "pháo Hồi Hồi" để ném đá, còn lại rất ít khi dùng, cho nên ngay cả Hứa Thái cũng không nghĩ ra được ý đồ sử dụng vũ khí hóa học.
Dưới núi, những khẩu "pháo Hồi Hồi" đã được lắp đặt chu đáo. Một quả bóng lửa khổng lồ bay thẳng lên mỏm núi, rớt ầm xuống đất, một đám khói cay xè tức thì lan ra. Không biết bên trong bọn chúng nhét thêm những thứ gì mà quả bóng vỡ tan rồi lại vẫn cháy phừng phừng, bốc ra mùi cay đến sặc người.
Dưới núi, từng quả bóng khói lửa lại được ném lên núi như những ngôi sao băng...