Lúc ngồi trên xe ngựa, ta liên tiếp quay đầu nhìn Tiểu Đàm với A Anh, bọn họ không ngừng vẫy tay với ta, nhìn bóng dáng họ ngày càng xa, nỗi luyến tiếc của ta cũng dần trào dâng.
Sau đó A Anh hét bảo ta một câu gì đó, ta chỉ nghe được vài chữ, chờ rồi cưới gì đó, cũng không hiểu lắm, nhưng thấy Tiểu Đàm đột nhiên cốc đầu nó một cái, sau đó chỉ chỉ ta với Tiểu Phượng Tiên, lấy tay ngoặc thành dấu đồng tâm kết, vẻ mặt A Anh liền ỉu xìu.
Ta cảm thấy hiểu lầm này có phần nghiêm trọng, thế là vươn người ra, định hô một tiếng ta cùng hắn không phải một đôi, giọng nói Tiểu Phượng Tiên liền thủng thỉnh truyền tới:
“Ngồi yên.”
Thoắt cái, bánh xe liền lăn qua một tảng đá không nhỏ, cả khoang xe lắc lư, ta bị nẩy lên, đầu đập cái rầm vào khung cửa xe cứng đơ, ta liền váng đầu hoa mắt ngã về chỗ ngồi.
Nhất định là cố ý! Thực ông nội nó đau…
Trấn Ngọc Lương tuy hẻo lánh, nhưng cách kinh thành cũng không xa, đường được làm cũng rất đẹp, có lẽ đã khoanh vùng chỗ này chờ khai phá, nhưng mới mở núi sửa đường, chưa tiến vào kiến thiết.
Đi xe chưa tới bảy ngày, chúng ta liền đến nơi được đồn là trái tim của nước Thanh Hành − đô thành An Kinh.
Lúc vào thành sắc trời đã tối, nhưng vừa khéo gặp đúng dịp tết thủy đăng mười năm mới có một lần, khắp phố xá đều là thiếu niên thiếu nữ đúng độ nụ tình chớm nở, chen chúc tới mức xe ngựa nhích nửa bước cũng khó.
Tiểu Phượng Tiên chọn quán trọ, là cái quán xập xệ nhất mà ta thấy từ khi vào thành. Tạm chưa nói đến trong quán vẻn vẹn chỉ có một chưởng quầy kiêm luôn thủ quỹ, một tạp dịch kiêm luôn bồi bàn cộng thêm một đầu bếp hậu đậu có thể làm ra đồ ăn cháy khét, ngay cả xe ngựa cũng phải tự mình dắt vào chuồng ở sân sau rồi cho ăn, nước nóng chỉ cung ứng trong thời gian giới hạn, phòng chữ thiên hảo hạng chính là một cái sạp kèm thêm hai cái chăn, còn không có cửa sổ…
Làm ta oán niệm nhất là, trong này vị trí hẻo lánh, không nhìn thấy chợ phiên náo nhiệt phồn hoa, không thấy được cảnh thả hoa đăng tỏ tình đầy ái muội.
Ta đứng sau lưng Tiểu Phượng Tiên, nhìn hắn nghiêm túc cho ngựa ăn, chải lưng ngựa, hình tượng một thành chủ cao quý chí tôn người người kính trọng nứt toác tan tành. Vị thành chủ dũng mãnh dựa vào giết người mà nuôi sống cả một thành trì thế ngoại, sao có thể sống tạm bợ ở một nơi xập xệ như này, còn keo kiệt như thể chuyện đương nhiên phải thế nữa chứ.
Ta buồn thúi ruột dùng mũi chân vẽ vòng tròn, nhỏ giọng lầu bầu: “Ta muốn ra ngoài chơi.”
“Không được.”
“Ta thật sự chỉ đi một lát thôi cũng không được à?” Ta chạy đến trước mặt hắn, dùng ánh mắt chân thành nài nỉ ngóng nhìn hắn. Hắn lại chẳng thèm liếc ta lấy một lần, vẫn là một câu không được.
Ta thật hận không thể cạy đầu hắn ra nhìn xem bên trong có phải chỉ có một sợi gân hay không, đóa hoa này ngang ngược làm người ta ghét nhất! “Người với người sao lại khác nhau thế không biết? Ngươi bế quan nhiều năm chưa ra khỏi cửa, ta bị nhốt nhiều năm cũng chưa ra khỏi cửa, gặp được dịp lễ tết mười năm mới có một lần mà ngươi một chút hiếu kỳ cũng không có.” Ta ủ ê dùng cọng rơm khô đánh mông ngựa, con ngựa này lại hất đuôi vào mặt ta, thể xác và tinh thần đều bị tổn thương, ta đứng lên định rửa ráy rồi đi ngủ.
“Một canh giờ sau trở về, mặc quần áo nam.”
Ta đứng sững lại, ánh mắt xám xịt tức khắc sáng lên, quay lại nhìn Tiểu Phượng Tiên, hắn vẫn chăm chú chải lông ngựa, một lúc sau, phát hiện ra ta vẫn đứng ngây tại chỗ, còn toét miệng cười ngu hồi lâu, hắn rốt cuộc bất mãn, nói: “Đang chờ ta đổi ý hả?”
Lời này vừa nói ra ta liền nhanh chân chạy biến.
Tìm gã bồi bàn mượn một bộ đồ nam bình thường, khoác thêm áo ngoài có đai lưng màu xám kèm thêm một cái mũ lông to tướng, ta liền hăng hái ra khỏi cửa.
Thành thị lớn đúng là khác hẳn trấn nhỏ, kiểu dáng quần áo của mọi người cực kỳ theo trào lưu, dạo gần đây hình như đang thịnh hành họa tiết hoa bỉ ngạn, dễ thương hay quyến rũ, mạnh mẽ hay tinh tế, trên áo ngoài của rất nhiều cô nương đều có, nhưng màu sắc thì mỗi người mỗi khác, kim tuyến chỉ bạc quấn quanh, làm nổi bật lên vẻ yểu điệu xinh đẹp. Áo dài của nam thì đang thịnh hành đường viền tường vân thêu bằng chỉ màu nhạt ở măng sét và tay áo, nho nhã dịu dàng, cũng rất thu hút ánh nhìn.
Lễ thủy đăng bắt nguồn từ truyền thuyết thời cổ, tại thời đại thiên thần, từng có vị thiên tiên cùng phàm nhân đem lòng yêu nhau, nhưng thiên giới không đồng ý, còn đày thiên tiên vào cung Thiên Hà, để nguôi ngoai nỗi nhớ, hàng năm thiên tiên đều thả một ngọn thủy đăng vào dòng Thiên Hà, nhưng một ngày trên trời bằng một năm dưới trần gian, thủy đăng theo dòng Thiên Hà mà xuống, tới khi bay xuống nhân gian đến được tay phàm nhân thì đã mất mười năm ròng rã, tuy rằng yêu rất đau khổ, nhưng hai người chưa từng từ bỏ, cho đến cuối cùng phàm nhân chết đi, sau khi biết tin, thiên tiên cũng hóa thành một làn khói xanh.
Chuyện xưa tuy đau khổ, nhưng trong mắt người đời lại là một mối tình kinh thế xúc động lòng người. Nghe nói sông An Kinh là một nhánh của sông Thiên Hà, thế là người dân đô thành An Kinh cứ mười năm lại tổ chức lễ thủy đăng một lần, nói trắng ra là, chính là một lễ hội xem mắt long trọng.
Các cô nương thả thủy đăng vào dòng An Kinh, thiếu gia nhà ai tìm được cô nương mình vừa ý, sẽ nhặt đèn của người đó.
Nhưng thời điểm càng náo nhiệt thì trị an càng kém, chỉ trong vòng nửa canh giờ, hai bên bờ khúc sông An Kinh đông người qua lại nhất đã xảy ra hai trận ẩu đả…
Đêm đầu đông rất tối, nhưng tối nay khắp nơi đều là đèn lồng rực rỡ sắc màu giăng bốn phía, kinh thành sáng rực gần như ban ngày. Ta hứng chịu ánh mắt kỳ quặc của bà cụ bán đèn, bắt chước các cô gái mua một ngọn thủy đăng không quá bắt mắt, thả xuống một chỗ khá hẻo lánh trên sông An Kinh.
Mong người chỉ một lòng bạc đầu chẳng xa nhau gì gì đó, ta chẳng cầu nguyện đâu, chẳng thực tế tẹo nào. Dù sao ta cách ngày chết chẳng còn xa, chẳng thà nguyền rủa Tiểu Phượng Tiên sau này lấy phải một bà vợ vừa không hiền lành không xinh đẹp lại còn thích sinh sự, nguyền rủa hắn cả đời không gian dối được, không thể tam thê tứ thiếp trái ôm phải ấp!
Vừa tưởng tượng ra thế, ta liền sung sướng trong lòng, ngửa đầu cười ha ha điên cuồng.
Kết quả vừa mới ha ha được mấy tiếng, liền trông thấy Tiểu Phượng Tiên đứng trên nóc nhà đối diện nhìn ta, vẻ mặt thèm đòn đúng kiểu đang nhìn đứa ngu.
Ta bị hắn dọa sợ nghẹn một hơi, sau đó vờ như không có việc gì sờ sờ gáy, ho khan khụ khụ.
Hắn xuất hiện như vậy, ta biết ngay là hắn muốn giục ta trở về, sau đó hắn nhảy vút một cái, lại biến mất trong bóng đêm. Ta thở dài, cúi đầu tìm ngọn thủy đăng ta vừa thả, phát hiện nó đã trôi lềnh bềnh ra thật xa, chẹp chẹp miệng, đang định lùi lại thì chợt phát hiện bờ bên kia có mấy cô gái xinh đẹp thướt tha đang bước tới, nhìn cách ăn mặc của đa số bọn họ, tuy lộng lẫy nhưng không xuất trần, dường như là gái chốn trăng hoa. Bọn họ cầm khăn tay che miệng, cười hi hi ha ha, dáng vẻ ai nấy đều cởi mở hào sảng.
Chắc là ngọn đèn vừa thả đã được công tử nhà ai ái mộ vớt lên, tâm tình đang phơi phới đây mà.
Làm ta kinh ngạc là, người đi cuối cùng, không ngờ lại là nghệ kỹ đệ nhất mà ta từng có duyên gặp một lần − Tần Sơ Ước.
Nàng đứng ở nơi đó, như tách rời khỏi nhân thế, thanh tao thoát tục, không nói một lời, nếu không phải nàng quá mức diễm lệ, thì khó có người lưu ý tới nàng.
Ánh mắt nàng lướt trên dòng An Kinh, sau đó bước chân thoáng ngừng, dường như phát hiện ra thủy đăng của ta.
Ngọn thủy đăng của ta cũng hám sắc, mắt cũng cực kỳ tinh, tự động trôi tới gần con người xinh đẹp nhất kia.
Tần Sơ Ước ngồi xổm xuống, vươn tay vớt thủy đăng của ta lên, trên bàn tay kia, vẫn quấn chặt lớp vải xô trắng như lúc trước.
Mấy cô gái khác thấy nàng nhặt đèn, đều cười rộ lên, nói ngươi đêm nay đèn thì chẳng thả được cái nào, lại còn nhặt một cái.
Nàng sóng mắt mênh mông, ngẩng đầu chuẩn xác bắt được ánh mắt ta, ta vẫn đứng ngây ra nhìn nàng, thấy nàng khe khẽ mỉm cười, chẳng hiểu sao ta lại đỏ mặt, sau đó chạy trối chết.
Sau lưng truyền tới tiếng cười của bọn họ, còn ơi ới gọi ta công tử chớ đi, Sơ Ước cô nương vừa ý chàng rồi.
Một cô gái như vậy, quả thực chính là yêu nghiệt! Ngay cả một cô gái trong ngoài đều thuần khiết như ta đây còn bị một ánh mắt thoáng qua của nàng câu mất hồn, nói chi là đám đàn ông… Thân thể nàng từ trên xuống dưới khiến cho người ta đã gặp qua là không quên được, nhất là đôi tay quỷ dị kia, chẳng lẽ là thật sự bị thương?
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, ta vội móc dải lụa trắng trong ngực ra, sau khi Tiểu Phượng Tiên vứt cho ta vẫn luôn giữ nó bên người, chỉ cảm thấy nhìn nó rất quen thuộc, nhưng vẫn không tài nào nhớ nổi đã từng thấy ở đâu.
Bây giờ nhìn thấy Tần Sơ Ước, ta mới nghĩ đến, vải xô quấn trên tay nàng giống y như đúc với dải lụa màu trắng này.
Chẳng lẽ Cầm Đoạn và Tần Sơ Ước có quan hệ gì đó?
Hôm sau, lúc ta tỉnh lại trên cái sạp, Tiểu Phượng Tiên đã đi mất dạng. Nghe kế hoạch của bọn họ cũng hiểu được lần này hẳn là cực kỳ nguy hiểm, hắn không dặn ta đừng chạy lung tung, ta liền coi như hắn ngầm đồng ý cho ta tự do đi lại.
Đương nhiên, với tính tình không than phiền là không vui của ta, vẫn phải oán trách hắn một câu: Đám tai mắt của hắn đều được sắp xếp ở những chốn hẻo lánh như trấn Ngọc Lương hết hả, một mình ta mấy ngày này nên tìm trò vui gì mới có thể giải nỗi cô đơn đây.
Ngẫm nghĩ một chút, cuối cùng ta tự đặt ra cho mình hai nhiệm vụ, thứ nhất, trước tiên đem bán túi dược tử tước anh túc, dù sao những hiệu thuốc am hiểu về dược trong trong kinh thành cũng khá nhiều; thứ hai, Mạch phủ ở ngay trên phố lớn giữa kinh thành, cái khóa trường mệnh màu vàng này… vẫn nên trả lại thôi.
Khi đứng trước cổng lớn của Mạch phủ, ta lại phải cảm thán khả năng nhận đường tệ hại của mình lần nữa. Rõ ràng ta vừa hỏi hiệu thuốc lớn nhất kinh thành… Tìm vòng vèo suốt một canh giờ, theo lời chỉ dẫn của người qua đường, thế quái nào lại tới được chỗ này.
Thật đúng là trời đã định ta phải làm việc tốt trước.
Mạch phủ to tới mức khiến người ta líu lưỡi, song canh gác nghiêm ngặt, thoạt nhìn thì nguy nga lộng lẫy, nhưng lại ngột ngạt đầy áp lực. Cảm giác phủ đệ của trọng quan như vậy giống như một bàn tay tượng trưng cho quyền lực, hô mưa gọi gió không gì không làm được.
Ta còn chưa bước lên thềm đá trước cửa chính của bọn họ, đã có mấy cái đầu thương chỉa tới, ta lập tức tỏ rõ lập trường, nói rằng mình biết tung tích của tiểu thiếu gia Mạch phủ của bọn họ.
Một tên thị vệ trong số đó từ đầu tới cuối vẫn nhíu mày, dường như không tin ta.
Ta rút cái khóa trường mệnh màu vàng kim từ trong ngực ra, nâng cao lên, ráng bày ra vẻ mặt nghiêm túc tiếc nuối, “Tiểu thiếu gia của các ngươi lúc ở trấn Ngọc Lương, đã bị Tuyệt Mệnh Thất Quỷ sát hại… Ta đã chôn cất cẩn thận rồi, còn mang cái này về, mong nén bi thương.”
Tên thị vệ cẩn thận tiếp lấy, sau khi xác nhận liền trợn mắt rõ to, sau đó mời ta chờ, rồi chạy vào trong. Không lâu sau, bên trong truyền tới tiếng bước chân huyên náo, ta thận trọng nhìn lên, thấy đám nha hoàn đang đỡ một người phụ nữ vận áo gấm thêu hoa chầm chậm chạy ra.
Đôi mắt nàng ta đã đỏ hoe, thấy thị vệ chỉ về phía ta, nàng liền bất chấp tất cả chạy tới.
Bọn nha hoàn phía sau nàng rối rít dìu đỡ, miệng hô từng tiếng: “Ngọc phu nhân chú ý thân thể!”
Vị phu nhân đó rất có thể là mẫu thân của thằng bé Mạch, vẻ mặt nàng tiều tụy, có lẽ đã lo lắng mất ngủ mấy ngày nay, vốn tưởng rằng sẽ ngóng được tin tức của con, nay coi như sấm sét giữa trời quang, thật khiến người ta không nén nổi xót xa.
Khuôn mặt nàng trong sáng, vẻ ngoài rất xinh đẹp, rưng rưng khóe mắt nhìn ta, “Cô nương… Những gì cô nói là thật ư?” Ta gật đầu, nàng gần như muốn ngất lịm, ta lập tức đỡ lấy nàng, bọn nha hoàn cũng ba chân bốn cẳng bu lại.
Quản gia của Mạch phủ bước tới mời ta vào trong, bảo ta chờ ở Thiên điện, bọn hắn đi mời đại phu xem bệnh cho Ngọc phu nhân, dự đoán một lát nữa là có thể tỉnh, Ngọc phu nhân hẳn là có chuyện muốn hỏi.
Ta nghe bọn nha hoàn đàm luận, mới lờ mờ biết, Ngọc phu nhân là vị tiểu thiếp duy nhất của Mạch Diên tướng quân, đã ở trong phủ hầu hạ ba năm, vẫn không có con, hai tháng trước mới sinh được Mạch Thiên Vân thiếu gia, đều là nhờ Ngọc phu nhân cầu khẩn Bồ Tát, khổ cực cúng bái Quan Âm Tống Tử mới có được. Tới khi đầy tháng, Ngọc phu nhân đưa con trai về lại mặt, không ngờ trên đường đi bị bọn giặc cướp bắt đi, sau đó mất tăm mất tích.
Thì ra gã đánh xe ngày đó cũng là phường cướp bóc.
Bọn họ còn rỉ tai nhau, Mạch Diên sắp cưới ngũ công chúa Thanh Giác của đương kim hoàng đế làm chính phu nhân, Ngọc phu nhân lại mất con vào đúng lúc này, há chẳng phải là mặc cho người ta ức hiếp hay sao.
Ta bĩu môi, mấy thứ tranh đấu chốn nhà giàu này, trong kịch cũng thường có, chẳng phải mới mẻ gì. Chỉ có điều nhìn dáng vẻ đau lòng tuyệt vọng của Ngọc phu nhân khi nãy, hẳn cũng là thật lòng thật dạ, dù sao cũng là đứa con mình rứt ruột đẻ ra mà.
Qua chừng nửa nén hương, liền có nha hoàn tới gọi ta, nói là phu nhân đã tỉnh, muốn gặp ta. Ta theo nó vào phòng, Ngọc phu nhân nằm ở trên nệm, sắc mặt tái nhợt, nước mắt giàn giụa.
Ta không để ý tới vẻ trợn mắt há mồm của bọn nha hoàn sai vặt, tự ngồi xuống bên giường nàng, nắm lấy tay nàng mà an ủi: “Bọn Tuyệt Mệnh Thất Quỷ đó đã gặp báo ứng, ta cũng tìm một nơi phong thủy đẹp chôn cất thằng bé rồi, phu nhân hãy yên lòng.”
Nước mắt nàng lại bắt đầu trào ra, nắm lại tay ta thật chặt, “Nói cho ta nghe chuyện là thế nào được không…”
Ta một năm một mười kể lại, cũng không giấu diếm, chỉ duy nhất không nói tới việc Tiểu Phượng Tiên đã từng có ý giết người. Nàng nghe dường như kinh tâm động phách, cho tới khi nghe đến đoạn con trai bị ném chết, cuối cùng không kìm được khóc đứt hơi khản tiếng.
Ta giúp nàng lau nước mắt, còn khuyên nhủ có bài có bản: “Nói thật cho cô nghe, ta là vu nữ, cho nên đối với chuyện sinh tử luân hồi, cô phải nghe ta.” Mỗi lần ta bịa chuyện là câu chữ lại tuôn ra dạt dào, “Chuyện này chứng tỏ nó với cô hữu duyên vô phận, nếu như lần này nó không chết, có nghĩa là sau này sẽ gặp phải tai nạn còn lớn hơn, nếu cô cứ khóc sướt mướt thế này, chỉ có thể hình thành chấp niệm quấn lấy hồn phách nó, khiến nó nhập lục đạo* xong cũng không yên, làm sao mà an lòng đầu thai được? Cô còn trẻ, hông tuy rằng hơi nhỏ, nhưng tốt xấu gì cũng sinh đẻ được, hơn nữa Mạch Diên tướng quân dũng mãnh như thế, còn sợ không có con hay sao?”
*lục đạo: sáu cõi luân hồi, theo đạo Phật, con người sau khi chết sẽ đầu thai vào sáu cõi trong cuộc đời mới, gồm:
Cõi trời
Cõi thần
Cõi người
Cõi súc sinh
Cõi ngạ quỷ
Cõi địa ngục
Nàng nghe ta nói mà sững sờ, cuối cùng bật cười thành tiếng, “Cô nương nói chuyện tuy thẳng đuột, nhưng lại rất có lý… Hơn nữa, trên người cô nương, có mùi hương rất dễ chịu, có thể khiến người ta an thần bình tâm.”
Ta chợt nhớ ra trên người có mang tử tước anh túc, khẽ cắn răng, sau đó hào phóng tháo túi dược xuống, đeo vào người nàng, “Thứ này rất quý báu, tặng cho phu nhân đấy!”
Nàng sờ sờ túi dược, ngước đôi mắt ướt rượt nhìn ta, chân thành nói: “Sau này, cứ gọi ta là Ngọc nương đi, chẳng hay cô nương tên gì?”
Ta nhớ mãi, ánh mắt nàng nhìn ta khi đó, cùng với ý cười trong mắt.
Ta chưa từng gặp một cô gái dịu dàng thân thiện như nàng, nàng cũng không vì cách ăn mặc mà lộ vẻ ghét bỏ ta. Ta tự nhận rằng mình rất biết nhìn người, cho nên chỉ cần một ánh mắt, là đủ biết cô gái này thiện lương thuần khiết. Có điều, nỗi tiếc nuối nàng mang lại cho ta, mãi đeo bám ta một đời một kiếp, chưa từng phai nhạt.
“Thế Liên, Thẩm Thế Liên.”