Chung Vãn Tình hạ độc Tang Trọng, là Kim Phong Thúy Vũ, nếu tu sĩ bình thường trúng độc này, không có giải dược, ít nhất cũng phải nửa năm mới có thể khôi phục pháp lực. Nàng biết Tang Trọng mạnh hơn người bình thường một chút, coi như là cao thủ, ước chừng khoảng một tháng là có thể khôi phục.
Kỳ thật Tang Trọng còn mạnh hơn một chút so với nàng phỏng đoán, trong chuyện này có hai nguyên nhân, một là Tang Trọng xưa nay khiêm tốn, giấu tài, ngay cả sư huynh trong phái cũng không rõ lắm thực lực của hắn, hai là Chung Vãn Tình luôn luôn kiêu ngạo, thích nhìn người qua khe cửa.
Nghỉ ngơi hơn mười ngày, vết thương của Tang Trọng đã tốt hơn rồi, pháp lực cũng khôi phục bảy tám phần, nhưng không lộ ra chút nào trước mặt A Tú.
Sau giờ ngọ ngày hôm đó, A Tú ra ngoài tản bộ với hắn, thấy khuôn mặt hắn trắng hồng, nghĩ thầm đều là công lao của nàng, mím môi cười rộ lên, cũng không nghĩ đến Tang Trọng do nàng và Chung Vãn Tình hợp mưu đâm bị thương.
Tang Trọng nhìn nàng, lấy một hộp bạch ngọc tròn điêu khắc tinh xảo từ trong tay áo ra, nói: “Mấy ngày nay làm phiền cô nương chăm sóc, bần đạo không thể báo đáp, liền dùng mấy loại hương liệu trên người làm một hộp soi môi, tặng cho cô nương, bày tỏ lòng thành.”
A Tú vui mừng mở to hai mắt, nhận lấy hộp mở ra, mùi thơm ngát xông vào mũi, màu sắc tươi đẹp mà không tầm thường, vẻ mặt tươi cười nói: “Tang đạo trưởng, không ngờ ngươi còn có thể làm cái này!”
Tang Trọng cười lạnh trong lòng: Tai họa nhỏ, ngươi không ngờ tới nhiều lắm! Sắc mặt ôn nhu, cười yếu ớt nói: “Ngẫu nhiên nhìn thấy phương thuốc, liền nhớ kỹ.”
A Tú đi tới bên cạnh một tảng đá lớn ngồi xuống, lấy một cái gương hình củ ấu ra, đầu ngón tay chấm một chút son, nhẹ nhàng bôi lên môi, soi gương rồi lại soi, quay đầu nhìn Tang Trọng thản nhiên cười, nói: “Đẹp không?”
Môi son thơm ngát, thẹn thùng diễm sắc, sao có thể không đẹp?
Tang Trọng gật đầu, nhìn chăm chú vào cánh môi nàng, trong mắt dường như có dòng nước róc rách. A Tú mím môi, rũ đôi lông mi dày xuống, trên mặt tỏa ra sắc hồng mỏng manh.
Tang Trọng cố ý đến gần, hơi thở giao hòa, A Tú cho rằng hắn muốn hôn mình, mặt càng đỏ, đầu càng thấp, tim đập thình thịch, không khỏi nhắm hai mắt lại.
Tang Trọng đột nhiên nói: “Đáng tiếc thiếu tường vi kim tuyến, nếu không sẽ đẹp hơn.” Dứt lời thân thể lui về phía sau, kéo dài khoảng cách.
A Tú ngẩn người, mở mắt ra, thấy bộ dáng nghiêm trang của hắn, ngược lại giống như chính mình hiểu lầm, trong lòng mất mát, mặt nóng ran, vọt một cái đứng lên, đi tới bên bờ hồ nhìn đàn cá chơi đùa trong nước.
Tang Trọng thấy bộ dạng thẹn thùng của nàng, thật là sảng khoái trong lòng, không nhịn được nở nụ cười. A Tú vừa quay đầu, hắn đã ngừng cười, như không có việc gì nghiên cứu cỏ dại trên mặt đất.
A Tú khôi phục sắc mặt như thường, bước chân nhẹ nhàng, chậm rãi đi tới, cười nói: “Nô biết ở đâu có tường vi kim tuyến, đợi nô hái mấy đóa trở về, đạo trưởng lại làm cho nô một hộp son, được không?”
Tường vi kim tuyến chỉ mọc trên một vách đá ở phía nam của núi Lộc Trì, mà núi Lộc Trì là địa bàn của Trường Thủy tướng quân.
Cái gọi là Trường Thủy tướng quân, kỳ thật chính là một con mãng xà ngàn năm, thời Đường trước đã giúp đỡ triều đình trấn áp bạo loạn địa phương, được hoàng đế trao tặng phong hào Trường Thủy tướng quân, sau đó chịu không quen quy củ quan trường, nên về núi ăn thịt người như cũ.
Tang Trọng đúng là muốn dụ A Tú đi núi Lộc Trì, mới đưa nàng son môi, nhắc tới tường vi kim tuyến.
Mấy ngày nay ở chung, hắn đã biết A Tú là một nữ tử rất thích ăn mặc lại vô cùng chú ý, vì son môi trong lòng, hơn phân nửa nàng sẽ đi hái tường vi kim tuyến.
Quả nhiên, nghe nàng nói như vậy, đúng với ý nguyện, Tang Trọng sảng khoái đáp ứng.
Ban đêm, A Tú hóa trận gió mát, đi tới núi Lộc Trì.
Trong động phủ đèn đuốc sáng trưng, tiếng sáo trúc dễ nghe, hai mỹ nhân thân khoác lụa đỏ, bên tóc mai cài tường vi kim tuyến đang khiêu vũ trên một tấm thảm Ba Tư. Các nàng chân trần trắng như tuyết, vòng eo tinh tế mềm mại, tư thái uyển chuyển, giống như một đôi tinh linh.
Một tay Trường Thủy tướng quân chống đầu, nằm nghiêng trên giường đá trải đệm da hổ, ánh mắt mê ly nhìn các nàng.
Bỗng nhiên, mỹ nhân như say rượu tê liệt ngã xuống đất, nhắm mắt lại, không nhúc nhích.
Trường Thủy tướng quân ngẩn người, hỏi: “Tâm can nhi, ngươi làm sao vậy?” Nói xong đứng dậy xuống giường, muốn tiến lên xem chuyện gì đang xảy ra, lúc này một gã đạo nhân mặc lam y dáng người cao lớn, tướng mạo như thiếu niên nhẹ nhàng đi vào, trên cánh tay còn khoác phất trần.
Trường Thủy tướng quân ý thức được người đến không tốt, lấy một cây Xà Liêm thương dài bảy thước hai tấc ra, run rẩy vung lên, lóe ra ánh bạc đẹp mắt, nhắm thẳng vào đối phương nói: “Ngươi là người phương nào!”
Vừa dứt lời, trong tay Trường Thủy tướng quân đã không còn gì, Xà Liêm thương bị phất trần cuốn đi, rơi vào trong tay đạo nhân.
Hắn cũng thuận tay vung lên, tựa như ngân ô nổ tung, hào quang huy hoàng chiếu sáng cả tòa động phủ.
Trường Thủy tướng quân không mở mắt ra được, chỉ nghe hắn nói năm chữ: “Núi Thanh Đô, Tang Trọng.” Đã bị một cỗ lực lượng không thể kháng cự, hút vào trong bóng tối.
Trên vách đá phía nam núi leo đầy tường vi kim tuyến, từng đóa từng đóa màu đỏ sậm, hoa khảm viền vàng nở rộ dưới ánh trăng, yêu dị hoa mỹ.
A Tú vừa hái hoa, vừa ngâm nga tiểu khúc: “Kết bạn tư tình như đèn lồng, ngàn đinh vạn nến dạy ngươi chớ để gió lọt vào. Tỷ đạo lang à, ngươi đi vào trong bóng tối có thể tỏa sáng, khiến cho tiểu A Nô giận dữ đỏ bừng mặt.”
Nàng hái đầy một giỏ, lại cài nghiêng một đóa ở bên tóc mai, lấy gương củ ấu ra chiếu sáng, xoay người muốn đi, lại thấy phía trước có một bóng dáng cao lớn, nháy mắt đã đến dưới ánh trăng, sắc mặt ngăm đen, mặc cẩm bào ngũ sắc sặc sỡ, một đôi mắt sắc bén nhìn nàng chằm chằm, dường như không có ý tốt.
“Tiểu A Nô từ đâu tới, chào hỏi cũng không chào đã hái hoa của ta.”
A Tú thầm nghĩ xui xẻo, cười mỉa cúi chào, nói: “Chẳng lẽ các hạ là Trường Thủy tướng quân?”
Tang Trọng mặt không đỏ tim không đập, trung khí mười phần nói: “Chính là tại hạ.”
A Tú nói: “Thất kính, thất kính, nô vốn định đi thỉnh an tướng quân, bởi vì thấy sắc trời đã tối, chỉ sợ quấy rầy tướng quân nghỉ ngơi, lúc này mới không đi, mong tướng quân chớ trách.”
Tang Trọng nói: “Vậy cũng thôi, ngươi có biết hoa của ta bao nhiêu linh thạch một đóa không, đã hái lại còn hái rất nhiều?”
A Tú nghe lời này, đúng là muốn lừa đảo muốn moi tiền, sợ hãi nói: “Xin hỏi tướng quân, vậy bao nhiêu linh thạch một đóa?”
Tang Trọng giơ một tay, mở năm ngón tay, đòi hỏi mở miệng nói: “Năm vạn linh thạch một đóa.”
A Tú ngây người một lúc lâu, nghĩ đến giỏ này của mình, ít nhất cũng phải ba mươi mấy đóa, tính toán một chút, đã hơn một trăm vạn linh thạch. Đừng nói nàng không có nhiều linh thạch như vậy, mà có cũng không có khả năng chịu thiệt thòi.
Xà Tinh thối không biết xấu hổ, không biết trời cao đất rộng, lại muốn moi tiền của bà cô nhà ngươi, năm vạn linh thạch một đóa hoa, đã mệt ngươi nói ra miệng!
A Tú mắng trong lòng, cúi đầu, lã chã muốn khóc nói: “Nô không có nhiều linh thạch như vậy, những đóa hoa này trả lại cho ngươi được không?”
Tang Trọng thấy nàng cam chịu, không nói được đã sảng khoái thế nào, thầm nghĩ quả nhiên ác nhân còn cần ác nhân giày vò, xụ mặt, tiếp tục giả ác nhân nói: “Hái cũng hái rồi, làm sao mà trả? Ta tự nhận xui xẻo, lấy ngươi một trăm vạn linh thạch thôi, bây giờ ngươi viết thư kêu người nhà đến đưa linh thạch, thiếu một khối, ngươi cũng đừng hòng đi!”
A Tú rơi lệ, nghẹn ngào nói: “Người nhà nô cũng không có nhiều linh thạch như vậy, còn cầu tướng quân giơ cao đánh khẽ.”
Khuôn mặt nàng nước mắt lã chã, còn xinh đẹp động lòng người hơn tường vi dính sương đêm trên vách đá.
Ánh mắt Tang Trọng khẽ động, lấn người tiến lên, nắm chặt cánh tay của nàng, hóa gió tiến vào động phủ, đẩy nàng ngã xuống tấm thảm Ba Tư mềm mại.
Trong mắt A Tú hoảng sợ nói: “Ngươi muốn làm gì?”
Tang Trọng nằm trên giường đá trải đệm da hổ, đầu gối hai tay, khóe mắt liếc nàng, nói: “Không muốn làm gì, nhưng nếu một canh giờ sau, ngươi còn chưa viết thư cho người nhà, bảo bọn họ đưa linh thạch đến, ta sẽ làm cái gì thì khó mà nói.”
A Tú cười lạnh trong lòng: Nhà ngươi muốn chết, cũng đừng trách ta! Trên mặt nơm nớp lo sợ nói: “Được, nô viết đây!” Run rẩy lấy giấy bút ra, viết thư cho Chung Vãn Tình.
Chung Vãn Tình là người ra sao, nhạn qua thì nhổ lông¹, một tên trộm dám dũng cảm cạy vàng trên người Phật tổ, tuyệt đối không có đạo lý đưa tiền cho người khác. Nếu nàng ấy đến, Xà Tinh này chỉ có một con đường chết.
[1] nhạn qua thì nhổ lông: nhạn quá bạt mao, nghĩa gốc để chỉ người có võ nghệ siêu quần, sau chỉ loại người ưa “đục nước béo cò”, thừa cơ mà lợi dụng.
Thật tình không biết, Tang Trọng đang muốn bức nàng dẫn tên sát thủ kia ra, lần trước giao thủ, đối phương đánh bất ngờ, mà hắn lơ là phòng bị, mới để cho các nàng thực hiện được. Lúc này hắn chuẩn bị đầy đủ, giết đối phương trở tay không kịp, thắng bại còn chưa biết.
Viết thư xong, Tang Trọng nhận lấy xem một lần, mới biết tên sát thủ kia tên là Chung Vãn Tình.
Thiên ý liên u thảo, nhân gian trọng vãn tình². Cái tên nhã nhặn lịch sự ôn nhu như vậy, hết lần này tới lần khác lại kết hợp với một nữ tử tàn nhẫn độc ác.
[2] trong bài “Vãn tình” của Lý Thương Ẩn:
Thâm cư phủ hiệp thành, xuân khứ hạ do thanh.
Thiên ý liên u thảo, nhân gian trọng vãn tình.
Tịnh thiêm cao các quýnh, vi chú tiểu song minh.
Việt điểu sào can hậu, quy phi thể cánh khinh.
Tạm dịch:
Ẩn mình nơi hiu quạnh, xuân đi hạ dần sang.
Ý trời thương cỏ lạnh, mưa tạnh khắp nhân gian.
Bước lên lầu xa ngắm, ánh chiều chiếu qua song.
Chim Nam thấy khô tổ, bay về cũng thong dong.
Tang Trọng thở dài trong lòng, nói: “Gửi đi đâu?”
A Tú nói: “Xuân Huy Lâu chợ Núi.”