Tang Trọng nằm trong quan tài tối đen như mực, được hương hoa bao bọc, cơ hồ không cảm giác được xóc nảy.
Rất ít người có được trải nghiệm này, bởi vì hầu hết mọi người chỉ nằm trong quan tài và được khiêng đi khi họ đã chết.
Lúc này Tang Trọng cũng không khỏi nghĩ đến cái chết, hắn cũng không sợ chết, có lẽ là trong tiềm thức cảm thấy mình sẽ còn chưa chết. Dù sao hắn có một thân tu vi, có Lục Hợp Thiên Cục, bất luận gặp phải nguy hiểm gì, không đến mức một chút phương pháp cũng không có.
Có lẽ vì một đoạn tình duyên, một yêu nữ bụng dạ khó lường, một phong thư âm mưu hư hư thực thực, nằm vào cỗ quan tài này là một quyết định sai lầm, nhưng Tang Trọng có vốn liếng để thử sai.
Con người trong cuộc đời phải làm ra vô số quyết định, luôn luôn có một số đã biết rõ rất có thể sai nhưng cũng phải làm. Thật ra một quyết định đến tột cùng chính xác hay sai lầm, thường thường sau đó mới thấy kết quả.
Đám người giấy hát mấy lần bài hát đưa tang, có lẽ là chán rồi, làn điệu thay đổi, hát: “Tiểu ni cô chợt nhớ tới bỏ lại áo cà sa. Đang thanh xuân, tuổi còn nhỏ, xuất gia cái gì? Tu sĩ Phật gia chính là địa ngục trần gian, sao có thể kiềm chế được. Không bằng để lại tóc đen, đi gả cho oan gia xinh đẹp. Niệm cái gì mà kinh Phật, Phật, đúng là nhạt nhẽo.”
Tang Trọng nghe được không khỏi nở nụ cười, hơn mười bài ca không đứng đắn, quan tài dừng lại.
Đám người giấy đặt quan tài xuống, một người nói: “Tang trưởng lão, đến tệ giáo rồi.”
Quan tài mở ra, sao đầy trời đập vào mắt, Tang Trọng ngồi dậy, chỉ thấy trong ánh trăng, núi đồi trùng điệp vờn quanh, trong núi một dòng thác nước chảy xiết, xông thẳng xuống, chạm đá lạnh phun ra ngọc vỡ.
Trên thác nước, bóng dáng lâu đài, điện các bí ẩn.
Bạch y người giấy nói: “Nguyệt sứ có việc ra ngoài chưa về, ta dẫn trưởng lão đi gặp tiểu phu nhân trước.”
Tuy rằng chuyện A Tú là tiểu thiếp của Hoắc Sa còn phải chờ kiểm chứng, nhưng Tang Trọng nghe bạch y người giấy nói, mình dường như thật sự thành gian phu của A Tú, tới nơi này yêu đương vụng trộm.
Trong lòng hắn toát ra một chút cảm giác xấu hổ, vẻ mặt cũng có chút không được tự nhiên, cúi đầu nói: “Được.”
Bạch y người giấy khẽ mỉm cười, nhảy lên một cái, đã ở ngoài mấy chục trượng, thân pháp phiêu dật linh động, không thấy người giấy ngây dại bình thường chút nào.
Trong lòng Tang Trọng tán thưởng, đuổi theo nó nói: “Giáo chủ các ngươi không có ở đây à?”
Bạch y người giấy nói: “Nếu gã ở đây, sao chúng ta dám mời trưởng lão đến?”
Tang Trọng nghẹn một chút, cảm giác xấu hổ càng sâu, nhìn nơi khác, nói: “Gã có mấy vị phu nhân?”
Bạch y người giấy cười lắc đầu nói: “Đếm không hết.”
Trong lòng Tang Trọng thoải mái một chút, nhỡ đâu hết thảy những điều bất hạnh này đều là thật, cho một kẻ phong lưu đội nón xanh, dù sao cũng ít đi vài phần cảm giác tội lỗi khi cho một người thành thật đội nón xanh.
Trong đình viện trồng hoa cỏ khắp nơi, hương thơm vấn vít, cửa sổ lụa xanh mở ra, A Tú ngồi ở bên cửa sổ, thân ảnh nhỏ nhắn xinh xắn giống như một con chim sẻ trong lồng, một tay chống má, một tay phe phẩy quạt, kiễng chân nhìn ra bên ngoài.
Hai người từ trên trời hạ xuống, người kia mang khăn ung dung tự tại, mặc đạo bào màu xanh, mỹ nam tử kia không phải Tang Trọng thì là ai? Ánh trăng màu bạc chiếu trên mặt hắn, trắng đến trong suốt, mặt mày tươi sáng, như vừa được nước mưa rửa qua.
Hai mắt A Tú trợn tròn, tuy lòng tràn đầy chờ mong nhưng thật sự nhìn thấy hắn đến, lại không thể tin được, ngơ ngác nhìn hắn, quạt lụa trong tay rơi trên mặt đất cũng không biết.
Lòng như hoa nở rộ, thân thể trở nên nhẹ nhàng, lúc này hắn xuất hiện ở đây, anh tuấn đến mức khiến nàng mê say.
Tang Trọng cũng nhìn nàng, trong lòng tràn ra một cỗ tư vị cực kỳ phức tạp, lấy vui mừng gặp lại làm đầu, sau đó ngờ vực vô căn cứ đối với thân phận của nàng, còn lại còn chưa nghĩ rõ ràng, một trận gió thơm phả vào mặt, A Tú ôm lấy thắt lưng của hắn, vô cùng dùng sức, mặt dán vào ngực của hắn, nghẹn ngào nói: “Oan gia¹, thiếp còn tưởng rằng sẽ không gặp lại chàng nữa.”
[1] oan gia: tiếng gọi người mà mình hờn giận, song trong thâm tâm lại rất yêu thương.
Thân thể mềm mại dựa sát vào, tư vị trong lòng Tang Trọng lại thay đổi, cúi đầu khẽ vỗ tấm lưng mỏng manh của nàng, thở dài, nói: “Trong thư của nàng nói như vậy, sao ta có thể không đến chứ?”
A Tú ngẩng mặt lên nhìn hắn, ánh mắt hồng hồng hiện ra ánh nước, trên má thơm ngấn lệ.
Bề ngoài nàng mềm yếu như thế, đến tột cùng là con mồi hay là thợ săn đây? Tang Trọng thấy không rõ, cũng không muốn tính toán, lấy khăn lau nước mắt cho nàng.
A Tú cầm ngón tay hắn, nói: “Chúng ta vào nói chuyện đi.”
Nhấc tấm rèm thêu hoa hải đường lên, trong phòng trang trí hoa lệ, mấy cái lò cổ đồng Bác Sơn đang đốt hương Long Tiên. Trên Bách Bảo Các bày rất nhiều đồ cổ, trên tường treo tranh chữ.
A Tú nói: “Chàng ngồi xuống đi, thiếp đi pha trà.”
Tang Trọng nghĩ nàng có thai, cầm ấm trà trong tay, nói: “Ta tự làm, nàng đừng động.”
A Tú liền ngồi xuống bên giường, Tang Trọng rót hai âu trà nóng đi tới, đưa cho nàng một âu, ngồi xuống hỏi: “Vì sao hôm đó nàng ra đi không từ mà biệt?”
A Tú nâng âu trà trong lòng bàn tay, cúi đầu nhìn, đỏ mặt, nhỏ giọng nói: “Thiếp sợ giáo chủ trở về, liên lụy đến chàng.”
Tang Trọng nói: “Đã sợ liên lụy ta, vì sao đêm đó lại tới tìm ta?”
A Tú cắn môi, nước mắt ào ào rơi xuống, từng giọt từng giọt rơi vào trong âu trà.
Hai vai nàng run rẩy, nức nở nói: “Là thiếp nhất thời hồ đồ, làm ra chuyện như vậy. Chàng là chính nhân quân tử, băng hách ngọc hồ², vốn sẽ không dây dưa với một người phụ nữ có chồng, thiếp không nên giấu giếm thân phận của mình, lại càng không nên động lòng với chàng, đều là lỗi của thiếp. Nếu không phải vì cốt nhục trong bụng này, thiếp cũng sẽ không viết phong thư kia cho chàng.”
[2] băng hách ngọc hồ: ví với tính cách con người cao nhã.
Một tay nàng đặt trên bụng, khóc đến không thở được, run rẩy, giống như mưa đánh hải đường.
Là thật cũng được, là giả cũng được, lòng Tang Trọng đã sớm mềm nhũn, ôm nàng vào lòng, nói: “Là ta nhất thời phóng túng phá giới, tạo ra sai lầm lớn, sao có thể trách nàng?”
A Tú nói: “Chàng có hối hận hay không?”
“Ta không hối hận.” Tang Trọng không có nửa điểm do dự.
A Tú nghĩ lời này nhất định là giả, nhưng trong lòng hưởng thụ, mắt lệ dịu dàng nhìn hắn, nói: “Thiếp cũng không hối hận.”
Quang cảnh này giống như một đôi uyên ương có tình cảm kiên định hơn vàng, Tang Trọng cười cười, ngón tay đặt lên mạch của nàng, đúng là mạch tượng mang thai ba tháng, nói: “Chung cô nương là muội muội của Hoắc Sa, làm sao chịu giúp nàng?”
A Tú nói: “Giáo chủ trời sinh tính tình phong lưu, cả ngày lêu lổng ở bên ngoài, thiếp vốn là do gã cưỡng bắt tới. Nguyệt sứ và thiếp lén lút qua lại thân thiết, nhìn không ưa hành động của giáo chủ, thiếp liên tục khẩn cầu, nàng ấy liền đáp ứng giúp thiếp rời khỏi nơi này.”
Tang Trọng gật đầu, A Tú nhìn hắn một cái, nói: “Đã nửa năm giáo chủ không trở về đây.”
Tang Trọng uống trà, trầm tư không nói, bỗng nhiên ý thức được nàng nói thêm một câu này, là sợ hắn hoài nghi đứa nhỏ này không phải của hắn, vội nói: “Ta tin tưởng nàng.”
A Tú nín khóc mỉm cười, đưa tay sờ sờ khuôn mặt hắn, lại ngửi tới ngửi lui trên người hắn, nói: “Hương hoa thật nồng, dính ở đâu?”
Tang Trọng nói: “Là trong quan tài.”
A Tú ngạc nhiên nói: “Quan tài?”
Tang Trọng liền nói bản thân từ đâu tới một lần, A Tú vừa tức giận vừa buồn cười, nói: “Tính tình Nguyệt sứ ương bướng, không kiêng kỵ gì, xin chàng chớ trách.”
Tang Trọng nói: “Nàng ấy không sợ phản bội huynh trưởng, giúp nàng thoát khỏi bể khổ, thịnh tình như vậy, ta cảm ơn nàng ấy còn không kịp, làm sao có thể trách nàng ấy?”
A Tú dựa sát vào lòng hắn, nhớ lại ba tháng qua, thấp thỏm hóa thành ý cười thỏa mãn, nói: “Tang lang, thiếp chưa bao giờ vui vẻ như đêm nay.”
Tang Trọng tin nàng thật sự đang rất vui, về phần bởi vì mình có tình ý với nàng nên vui vẻ, hay là bởi vì âm mưu thực hiện được nên vui vẻ, thì không biết.
Hắn ngửi mùi thơm ngát trên tóc nàng, nói: “Chúng ta mau chóng rời khỏi nơi này đi.”
A Tú nói: “Nguyệt sứ bảo chúng ta chờ nàng ấy trở về rồi hãy đi.”
Tang Trọng nói: “Nàng đến Cúc Nguyệt giáo bao lâu rồi?”
“Ba năm rồi.”
“Cúc Nguyệt giáo có bao nhiêu người?”
Trong mắt A Tú lộ ra vẻ mờ mịt, nói: “Thiếp cũng không rõ lắm, bọn họ luôn xuất quỷ nhập thần, chắc là không nhiều lắm, nhưng mỗi người đều là cao thủ.”
Tang Trọng nói: “Vậy nàng có biết Hoắc Sa và Chung Vãn Tình có lai lịch thế nào không?”
A Tú nói: “Giáo chủ tuyệt đối không đề cập đến chuyện quá khứ, thiếp cũng không dám hỏi, nhưng ngược lại Nguyệt sứ, có một lần uống say, nói quê hương nàng ấy và giáo chủ ở một nơi rất xa rất xa, nơi đó được người đời gọi là Đọa Hòa La.”
“Tang lang, chàng đã từng nghe đến chưa?”
Tang Trọng nhìn ra ngoài cửa sổ, trầm ngâm một lát rồi nói: “Ta nghe sư phụ có nhắc qua, Đọa Hòa La là quốc gia cổ Nam Hải, phía nam giáp Bàn Bàn, phía bắc giáp Già La Xá Phật, phía đông giáp Chân Lạp, phía tây giáp biển rộng, linh khí dồi dào, thiên tài địa bảo rất nhiều. Nước này từ quốc vương cho tới bách tính, đều tu tiên, cao thủ nhiều như mây.”
A Tú gật đầu nói: “Khó trách giáo chủ và Nguyệt sứ đều lợi hại như vậy.” Lại cười hì hì nói: “Tang lang thật sự là học sâu biết rộng, kiến thức rộng rãi.”
Nói đến đây, thanh âm bạch y người giấy ở ngoài rèm vang lên: “Tang trưởng lão, Nguyệt sứ đã trở lại, mời ngài và tiểu phu nhân qua ngồi một chút.”