Nhi Nữ Hầu Môn

Chương 68

Tuệ An nghe vậy giận dữ, hai mắt đỏ bừng nhìn chằm chằm A Trúc.

Phương mama thở dài một hơi, đứng im không động đậy. Chuyện này đúng là lúc trước bà không biết cụ thể ra sao, nhưng từ tình hình cũng đoán ra đôi chút, mặc kệ chuyện như thế nào, tóm lại khi nói ra vẫn sẽ ảnh hưởng tới danh dự của phu nhân, nay phu nhân đã qua đời, nếu có người bôi bác danh dự phu nhân, bảo cô nương làm sao chịu nổi? Cho nên hôm đó Tuệ An hỏi, bà mới do dự quanh co không muốn nhắc đến chuyện này. Bà nghe được A Trúc nói cũng sợ hết hồn, nhưng trong lòng càng biết A Trúc sẽ không nói dối, thật ra sợ là cô nương cũng tin, mới hoảng hốt như vậy, không kiềm chế được bi thương và phẫn nộ cũng là chuyện thường tình.

A Trúc lại dập đầu mấy cái, ánh mắt khẩn khoản nói:

“Những người năm đó hầu hạ bên cạnh phu nhân, đến nay chỉ còn duy nhất nô tỳ. Nô tỳ được lão Hầu gia và phu nhân tin tưởng, có thể bảo toàn tính mạng, sống đến bây giờ đã là sung sướng lắm rồi. Nô tỳ vẫn nghĩ sẽ mang chuyện này vào quan tài, không ngờ cô nương đã đến hỏi, nô tỳ nào dám dối gạt nửa câu. Chỉ cần cô nương ra lệnh một tiếng, nô tỳ không nói hai lời, lập tức sẽ đoàn tụ với phu nhân dưới suối vàng, khiến cho chuyện này hoàn toàn biến mất trên cõi đời.”

Lúc này Tuệ An đã bình tĩnh trở lại, nàng vịn tay Phương mama ngồi xuống, thở hổn hển hồi lâu, mới nói tiếp:

“Phiền cô cô nói rõ tình cảnh lúc đó cho ta biết, một phần cũng không được quên.”

A Trúc dập đầu, mơ hồ nhớ lại:

“Khoảng thời gian đó là lúc phu nhân vừa thành thân không bao lâu, trùng hợp đến ngày đại thọ của lão Hầu gia, phu nhân và lão gia sau khi bàn bạc với nhau liền mở một bàn tiệc trong phủ, tổ chức sinh thần cho lão Hầu gia. Ngày ấy trong phủ nhộn nhịp vô cùng, người đến người đi, chính sảnh bày đến hơn hai trăm bàn tiệc, lão gia cùng Đại thiếu gia đều ở chính sảnh đón tiếp khách khứa, người đến phần lớn là những vị võ tướng giao hảo với lão Hầu gia, bọn họ uống nghìn chén không say, lại ăn to nói lớn suốt cả ngày, cho nên chạng vạng tối mấy vị chủ tử đều say khướt hết. Vì chúng nữ quyến rời tiệc sớm hơn, mà phu nhân cũng uống không ít rượu, nên được Mai Anh dìu về phòng nghỉ ngơi. Lão gia trở về Hi Hòa viện thấy phu nhân đã yên giấc, không muốn làm phiền chỉ nhìn qua liền đến thư phòng. Từ lúc thành thân phu nhân cũng không gọi bọn nô tỳ trực đêm, cho nên lão gia vừa đi chúng nô tỳ cũng tự giác về phòng của mình. Ai ngờ hôm sau lão gia từ thư phòng trở về, nhìn thấy Đại thiếu gia… Nằm ở trên giường…”

Phương mama thấy Tuệ An mặt mũi tối tăm một mảnh, đành thay nàng hỏi tiếp:

“Sau đó thế nào?”

“Lão gia giận dữ vô cùng, không chịu nghe phu nhân giải thích, trực tiếp đi nhà trên tìm lão Hầu gia. Ban đầu lão Hầu gia còn không tin Đại thiếu gia sẽ làm ra chuyện như vậy, nhưng lúc ấy người người chứng kiến, Đại thiếu gia và phu nhân nằm cùng một giường, lão Hầu gia trong cơn tức giận đã cho Thẩm gia quân bao vây Hi Hòa viện, lần lượt thẩm vấn tất cả người hầu kẻ hạ trong viện, người nào người nấy đều dùng cực hình ép cung, chỉ tiếc cuối cùng vẫn không điều tra được gì.”

“Thật sự không tìm được bất cứ manh mối nào?”

Phương mama nghe vậy nhíu mày.

Tuệ An hít sâu một hơi, hỏi:

“Ta hỏi cô cô, lúc ấy ngoại tổ phụ có từng hỏi người kia không, mà hắn trả lời những gì?”

A Trúc gật đầu, ngập ngừng nói:

“Đại thiếu gia nói…Nói uống quá nhiều rượu, chỉ mơ màng nhớ được có cùng một nữ tử… điên loan đảo phượng… Nhưng hắn nhớ cũng chỉ là một nha đầu, quả thật không chắc chắn…”

Tuệ An nghe vậy nhắm chặt hai mắt, mệt mỏi nói:

“Bình thường người nọ và mẫu thân ta thế nào?”

“Bẩm cô nương, Đại thiếu gia và phu nhân huynh muội tình thâm, không khác nào ruột thịt.”

A Trúc trả lời.

Tuệ An lại hỏi thêm:

“Một nam tử trưởng thành sống sờ sờ ra đấy, sao có thể vô duyên vô cớ xuất hiện trong phòng, cho dù không có nha hoàn trực đêm bên ngoài, nhưng chẳng lẽ không ai nghe thấy động tĩnh gì?”

A Trúc thở dài, trên mặt cũng có phần khó hiểu, nói:

“Hôm đó là đại thọ của Hầu gia, phu nhân cũng ban thưởng rượu và thức ăn xuống cho các viện, bọn nô tỳ tụ tập ăn uống hết mình, có thể là do chuyện này chăng, khiến đêm đó ngủ sâu hơn ngày thường rất nhiều, đúng là không hề nghe được động tĩnh gì. Phải đến hôm sau lúc lão gia về viện, bọn nô tỳ mới bị lay dậy.”

Tuệ An nghe thế càng nhíu chặt đôi mày, Phương mama hỏi đầy ngờ vực:

“Ngày đó lão Hầu gia đã kiểm tra một lượt đồ ăn thức uống của các ngươi chưa?”

A Trúc gật mạnh đầu, quả quyết nói:

“Kiểm tra chứ, không chỉ kiểm tra rượu và thức ăn, ngay cả phòng ngủ của phu nhân lẫn toàn bộ Hi Hòa viện đều bị lật tung lên, nhưng thật sự không phát hiện bất cứ điểm nào kỳ lạ.”

Tuệ An nghe vậy vẫn không thể xua tan nghi ngờ trong lòng, trong đầu khẽ chuyển, một hồi lâu mới cất tiếng hỏi:

“Mong cô cô nghĩ kỹ một chút, có thật là đêm đó không có bất cứ chuyện gì khác thường không? Không thể nào có chuyện người đang yên đang lành nhảy vào trong phòng, huống chi lúc ấy người nọ đã uống say bí tỉ, chắc chắn phải có người dìu vào viện của mẫu thân, chẳng lẽ ngay đến mama canh cửa cũng không nhìn thấy gì ư? Hay là có ai quên khóa cửa/”

A Trúc ngẫm nghĩ một hồi, lúc này mới giật mình nói:

“Cô nương nói không sai, hôm ấy giữ cửa là hai mama, Hầu gia đã từng nghiêm khắc tra khảo họ, nhưng cho dù Hầu gia có đánh bao nhiêu quân trượng hai người kia vẫn một mực nói là họ ngủ quá say, không nghe thấy bất kì động tĩnh nào, chỉ có điều là, hai bà không hề nhớ ai là người khóa cửa đêm đó, lúc canh hai Ngụy mama từng đi tiểu tiện một lần, mơ mơ màng màng nhớ ra mình chưa khóa cửa, thế nhưng khi bà đi tới cửa viện lại thấy cửa đã được khóa cẩn thận, bà cho rằng Chu mama khóa, ai ngờ Chu mama cũng quả quyết là bà không khóa.”

Hai mắt Tuệ An nheo lại đầy nguy hiểm, hỏi tiếp:

“Năm đó người kia ở viện nào, hắn một đêm không về, chẳng lẽ người hầu trong viện cũng không biết?”

A Trúc lắc lắc đầu, nói:

“Đại thiếu gia năm đó là hồi kinh báo cáo công việc, vốn không ở lâu trong kinh, nên phu nhân liền sắp xếp cho người một gian phòng ở Vinh Hỉ viện trong phủ, một là tiện cho Đại thiếu gia và Hầu gia trò chuyện, hai là lão Minh vương đã làm chứng cho việc lão Hầu gia nhận Đại thiếu gia làm con nuôi, còn mở cửa từ đường, ghi tên vào gia phả xong xuôi cả rồi, cùng là người trong nhà với nhau, nên không phải kiêng dè gì nữa, ở trong phủ cũng không người bàn tán. Chỉ là Đại thiếu gia giao thiệp rộng rãi, một hai ngày không trở về phủ cũng không phải chuyện lạ. Ngày đó người trong phủ truyền lời tới, nói buổi tối Đại thiếu gia sẽ nghỉ ở ngoài không về phủ, nên bọn nha hoàn trong Vinh Hỉ viện mới không đi tìm. Hầu gia hỏi người đưa tin là ai, người hầu ở Vinh Hỉ viện nói là một vị mama nào đó nô tỳ không nhớ, hỏi mama đó, bà lại nói là người gác cổng chuyển lời, người gác cổng thì nói gã sai vặt của Sướng Xuân lâu đến báo, nói Đại thiếu gia muốn ngủ lại trong lâu, nên cho hắn đến báo tin, tránh người trong phủ lo lắng. Bởi vì hôm đó khách khứa rất nhiều, chỗ gác cổng cũng bận bịu luân phiên nhau canh gác, căn bản không thể biết Đại thiếu gia ra khỏi phủ đến Sướng Xuân lâu lúc nào, hơn nữa Đại thiếu gia là khách quen ở Sướng Xuân lâu, nên bọn họ nghe vậy cũng không nghi ngờ gì. Thế mà lúc lão Hầu gia phái người đi tìm gã sai vặt kia, ông chủ của Sướng Xuân lâu lại nói hai ngày trước hắn tự dưng chẳng nói chẳng rằng bỏ việc đi rồi, không ai biết hắn đã đi đâu.”

Tuệ An nghe nói ngoại tổ phụ còn ghi tên người kia vào gia phả, không khỏi cả kinh, khẽ chớp mắt, một hồi lâu không nói gì, tỉ mỉ soát lại một lần những lời A Trúc vừa nói, quả nhiên là một phần manh mối cũng không tìm được. Nàng cảm thấy chuyện này chất đầy mờ ám, mẫu thân và người nọ đều là kẻ luyện võ, sao đêm đó lại có thể không cảnh giác như vậy, rõ ràng là có người động tay động chân phía sau. Nhưng chuyện này hiển nhiên nhắm tới mẫu thân và người con nuôi của ngoại tổ phụ, chỉ xem kết quả của việc này đã thấy rõ mồn một ai lợi ai hại rồi.

Tuệ An nghĩ mãi không ra, bất chợt đưa mắt nhìn chằm chằm A Trúc, trầm giọng hỏi:

“Ngày đó lão gia có gì khác thường không? Cô cô nói buổi tối lão gia từng về viện, là nha hoàn cùng ông vào phòng nhìn mẫu thân, hay là một mình ông vào? Lúc ấy tình cảm của mẫu thân và lão gia thế nào? Sau chuyện này lão gia lại đối xử với mẫu thân ra sao?”

A Trúc kinh ngạc ngẩng đầu, dường như không hiểu tại sao Tuệ An hỏi như vậy, nhưng vẫn nghiêm túc trả lời:

“Lúc lão gia về phòng, thì phu nhân mới nghỉ ngơi chưa được bao lâu, cho nên ba đại nha hoàn là nô tỳ và hai người nữa đều đang ở trong phòng hầu hạ, lão gia không hề kỳ lạ chút nào, khi đó là lúc lão gia và phu nhân vừa mới thành thân, mặc dù không thể nói nhu tình mật ý, nhưng cũng là tương kính như tân. Sau chuyện này lão gia và phu nhân đều cố ý tránh mặt nhau, một thời gian dài cũng không gặp mặt được bao nhiêu lần, về sau có lẽ là lão gia đã tin phu nhân, mượn lễ sinh thần của phu nhân mà đến Hi Hòa viện, từ đó chuyện này xem như bỏ qua.”

Phương mama há có thể không biết Tuệ An đang nghĩ đến điều gì, nghe nàng vặn hỏi một loạt, liền nhìn Tuệ An một cái, ánh mắt lộ vẻ thương tiếc.

Chuyện này nếu như năm đó ngoại tổ phụ và mẫu thân đã không thể điều tra ra, nay nàng chỉ bằng vài câu nói thì có thể thu hoạch được gì? Tuệ An thấy sắc trời đã tối mịt từ lúc nào, thở dài đem chuyện này quẳng sang một bên, lại quay sang hỏi A Trúc:

“Ta nghe Phương mama nói, hàng xóm xung quanh ngõ hẻm nhà cô cô đều là những người trước kia đi theo ngoại tổ phụ, nhiều người còn từng cùng ngoại tổ phụ xông pha chiến trường, có phải hay không?”

A Trúc gật đầu lia lịa, nói:

“Xưa nay lão Hầu gia không bao giờ bạc đãi đãi binh lính hay người hầu kẻ hạ, trong con hẻm này có không ít người là cựu binh lính trong Thẩm gia quân, Hầu gia thương xót bọn họ nên tìm cho nơi dưỡng lão ngay bên cạnh phủ, còn mai mối cho bọn họ, giúp họ yên bề gia thất, để sau này về già có con cháu chăm nom. Khi lão Hầu gia và phu nhân còn sống ai nấy đều an nhàn vui vẻ, thế nhưng… Nếu như cô nương thiếu người sai bảo, xin hãy cân nhắc một chút, A Trúc dám cam đoan những người này nhất định sẽ cúc cung tận tụy phục vụ cô nương.”

Tuệ An nghe A Trúc nói như vậy, không khỏi thở dài, sắc mặt ảo não nói:

“Chuyện này là ta xin lỗi mọi người!”

Sau đó nàng liền cười một tiếng, cảm thấy A Trúc này đúng là người hiểu chuyện, nàng chỉ nói mấy câu đã đoán được lòng nàng nghĩ gì, quả nhiên là người mẫu thân coi trọng. Vì vậy Tuệ An lại gật đầu nói:

“Trong những người đó có ai lúc trước từng đi theo ngoại tổ phụ hành nghề trộm mộ không?”

Phương mama và A Trúc đều giật nảy mình, lát sau A Trúc mới trả lời:

“Thưa có, cuối hẻm có cả nhà lão Hồ đều từng đi theo Hầu gia trộm mộ, nhưng năm ngoái lão Hồ đã qua đời, chỉ còn hai người con trai.”

Tuệ An nghe vậy, trong lòng vui mừng hẳn, vội vàng nói:

“Vậy hẳn là cũng am hiểu về pháp y chứ?”

Thấy A Trúc lại gật đầu, ánh mắt Tuệ An hơi lóe lên một chút, nói:

“Cô cô hãy để ý gia đình này giúp ta, xem xem có thể dùng được hay không.”

A Trúc mặc dù không biết Tuệ An muốn làm gì, nhưng sau một hồi tiếp xúc, nàng lại nhìn ra được phong phạm của phu nhân ở trên người vị tiểu thư nhỏ tuổi này, quả nhiên có chính kiến, cũng thông minh hệt như phu nhân, nghĩ cô nương phân phó như vậy, chắc chắn có việc cần dùng đến, nàng cứ y lời làm theo là được.

Tuệ An lúc này mới đứng dậy đỡ nàng lên, cười hỏi:

“Vừa nghe vú nuôi nói con trai lớn của cô cô hiện giờ vẫn đang đi học. Không biết có tham gia kỳ thi nhập môn không, thành tích như thế nào?”

A Trúc nghe Tuệ An hỏi con lớn, trên mặt thoáng hiện vẻ kiêu ngạo, cười trả lời:

“Đứa con kia của nô tỳ năm nay vừa qua mười tuổi, năm ngoái đúng là có đăng ký tham gia thi nhập môn, nhưng chẳng may lại mắc phong hàn suýt thì mất mạng, nô tỳ cũng định cho nó thi lại vào mùa xuân năm nay, đứa con kia của nô tỳ đọc sách rất giỏi.”

Tuệ An không khỏi gật đầu, lại nhìn đứa bé vẫn ngồi ngoài sân coi cửa, thấy nó lạnh đến run rẩy nhưng luôn theo lời mẫu thân đứng ở đầu gió nghe ngóng động tĩnh bên ngoài, trong lòng càng thêm thương cảm, hỏi:

“Thế còn đứa bé nhà cô cô thì sao? Có từng đến trường chưa?”

A Trúc chỉ cười nói:

“Thằng bé này không khác gì một con khỉ nhỏ, chẳng bao giờ chịu ngồi im tại chỗ, không đi học cũng không sao, chỉ cần biết mặt chữ để sau này không bị người ta lừa gạt là được, việc học lên thì e là không được, khiến cô nương chê cười.”

Đứa bé này tuổi tuy nhỏ, lại cực kỳ hiểu chuyện, sao có thể nói nghịch ngợm? E là trong nhà chỉ cho một đứa đi học đã vô cùng khó khăn, nên mới đành lòng bỏ qua đứa bé này.

Tuệ An nghe vậy, suy nghĩ một chút lại nói:

“Nên cho đứa bé này đi học thì vẫn hơn, có học và không học khác xa nhau lắm, những thứ khác không nói, chỉ cần nó học xong toàn bộ chữ nghĩa, về lâu về dài cũng có thể giúp đỡ ta phần nào, đi theo tiên sinh phòng thu chi trong phủ học hỏi cũng không tồi, còn có một chuyện, ta đang muốn làm phiền cô cô đây.”

A Trúc nghe vậy rưng rưng chực khóc, nghẹn ngào nói:

“Cô nương có chuyện gì cần cứ sai bảo, xin đừng nói thế, nô tỳ tổn thọ.”

Tuệ An nhìn Phương mama, bà hiểu ý lấy từ trong ống tay áo ra một xấp ngân phiếu, Tuệ An cầm lấy nói:

“Ta nghe vú nuôi nói, cô cô là người biết nhìn mặt đoán lòng, ta muốn xin cô cô giúp ta mua về một vài người làm, không câu nệ nam hay nữ, tuổi tác bao nhiêu, có thể dùng là được, được thêm sở trường riêng biệt thì càng tốt, mua xong cô cô lại dùng số tiền còn lại đặt mua một tiểu viện cho họ ở đó, cũng nhờ cô cô giúp ta dạy dỗ, ta ắt có chỗ cần dùng. Chuyện này giao cho người khác ta không yên tâm, còn mong cô cô làm việc cẩn trọng.”

A Trúc thấy ánh mắt Tuệ An trầm tĩnh tựa hồ nước không một gợn sóng, rồi lại lộ ra nghiêm nghị thẳng thắn, trong lòng khẽ rùng mình, cũng không dám từ chối, đưa hai tay nhận lấy ngân phiếu kia, quỳ xuống nói:

“Nô tỳ ngàn lần không ngờ có một ngày nhìn thấy được cô nương, cô nương còn tín nhiệm nô tỳ như vậy, xin cô nương yên tâm, nô tỳ nhất định làm việc chu toàn.”

Tuệ An ra hiệu cho Phương mama đỡ nàng dậy, lại nói:

“Ngân phiếu này cô cô cứ trích một phần mà dùng cho sinh hoạt hằng ngày, đừng bỏ bê bọn trẻ, hơn nữa cũng nên lấy ra một khoản khác, hôm nào tìm lý do đến phủ, chuộc thân cho cô cô và tướng công, rồi đến quan phủ cởi bỏ nô tịch đi. Việc này không tốn thời gian là mấy, cũng dùng không hết bao nhiêu lượng bạc, mua thêm tòa nhà ở vùng ngoại ô nữa, cứ lấy danh nghĩa của tướng công cô cô mà mua, đừng để dính líu gì đến ta…”

Tuệ An thấy A Trúc giật mình kinh hoàng, mấy lần muốn mở miệng nói, liền nắm chặt tay nàng, ý bảo nàng yên tâm đừng vội nóng nảy, tiếp tục nói:

“Chuyện này sự tình trọng đại, nếu ta đã phân phó cô cô đi làm, thì cô cô cứ đi, không cần hỏi tại sao. Còn nữa, con trai lớn của cô cô nếu đã nhắm vào vào con đường quan lại, thì hai người vẫn nên sớm thoát nô tịch mới tốt. Mặt khác, hiện giờ ta không có nhiều bạc trong tay, ngân phiếu này còn phải bớt lại một hai phần.”

“Kính xin cô nương sai bảo.”

A Trúc kích động nói.

Tuệ An nói tiếp:

“Cô cô giúp ta sưu tầm một vài phương pháp trị bệnh hen suyễn trong dân gian, không cần biết là phương thuốc gì, hoặc là do đại phu hay người ngoài nghề kê đơn, chỉ cần có liên quan đến bệnh hen suyễn, làm cho bệnh tình thuyên giảm đều mang về hết cho ta. Có tin tức gì cũng không cần thông báo tới Hầu phủ, cô cô hãy tới Đồng Hoa hạng tìm ngôi nhà thứ ba, chủ nhân của nó là Đinh Nhị Uông, hắn là biểu ca của Hạ Nhi bên cạnh ta, hắn sẽ biết cách đưa tin cho ta.”

A Trúc vội vàng quỳ xuống, trịnh trọng trả lời:

“Xin cô nương yên tâm, nô tỳ nhất định làm việc cẩn thận.”

Tuệ An đỡ nàng dậy, cười nói:

“Ta ở trong phủ không khỏi bất tiện, về sau không biết sẽ phải làm phiền cô cô thêm bao nhiêu lần nữa, cô cô đừng động một tí là quỳ như thế nữa. Được rồi, sắc trời đã không còn sớm, ta về trước đây.”

A Trúc có chút không nỡ, đưa hai người Tuệ An ra khỏi ngõ, xong xuôi mới xoay người trở về. Tuệ An cùng Phương mama đi dọc theo con đường nhỏ lặng yên không một tiếng động trở lại cửa sau Hầu phủ, Phương mama gõ lên cửa hai cái, có người đã chờ sẵn ra mở cửa đón Tuệ An vào. Hai người đi thẳng về Dung Lê viện, Tuệ An lạnh cóng đến run rẩy cả người, vừa về đã cuộn mình trong chăn, lại uống thêm một bát canh nóng mới đỡ hơn.

Phương mama thấy rốt cuộc đôi môi tím xanh của nàng đã chuyển sang màu đỏ thắm, lúc này mới thở phào một hơi ngồi xuống bên giường, hỏi lên nghi bấy lâu trong lòng:

“Tại sao cô nương lại nói A Trúc để ý gia đình lão Hồ? Tuy nói hiện nay chúng ta thiếu bạc thật, nhưng không có nghĩa có thể quay về nghề trộm mộ, với thời thế bây giờ mà làm việc đó thì đúng là…Không phúc đức cho lắm…”

Tuệ An nghe vậy bật cười, nhìn Phương mama nói:

“Vú nuôi nghĩ đi đâu thế, ta đi trộm mộ làm cái gì cơ chứ?”

“Vậy ý cô nương là…”

Tuệ An bị bà hỏi sắc mặt thoáng chốc lại trở nên buồn bã, nhíu mày thật lâu, cuối cùng cũng ngẩng đầu nhìn Phương mama, nói:

“Vú nuôi không nghĩ cái chết của mẫu thân năm đó có gì kỳ lạ sao? Mẫu thân còn trẻ, ngày thường cũng không hay mắc bệnh, tại sao lại bị một trận phong hàn lấy đi tính mạng được?”

Đôi mắt Tuệ An âm u nhìn không thấy đáy, Phương mama nghe vậy giật mình hô lên một tiếng:

“Cô nương muốn mở quan tài khám nghiệm tử thi?!”

Từ lúc Tuệ An phát hiện nhiều chuyện ở kiếp này khác hẳn kiếp trước, nàng vẫn luôn nghĩ, việc mẫu thân nàng qua đời có thật là không dính dáng gì đến hai mẹ con Đỗ Mỹ Kha không? Bởi vì nàng quả thật không biết tại sao mình lại trọng sinh, nếu đã trọng sinh thì kiếp này của nàng có quan hệ với kiếp trước không? Những chuyện nghĩ mãi không ra thì nàng đành gác qua một bên, nhưng mẫu thân có phải bị người hãm hại hay không, chính là mấu chốt để nàng có thể đuổi Tôn Hi Tường và hai mẹ con nhà kia ra khỏi Hầu phủ, không làm rõ nàng tuyệt đối không bỏ qua. Hơn nữa nàng quyết định phải điều tra bằng được tất cả manh mối, cho nên cũng nghĩ tới chuyện mở quan tài nghiệm thi từ lâu rồi, chỉ là hôm nay mới nhắc tới mà thôi.

Phương mama thấy Tuệ An gật đầu thừa nhận, nhất thời không thể tin vào đôi mắt của mình, mở quan tài khám nghiệm tử thi là chuyện có thể mang ra đùa giỡn được sao? Huống chi xem ý tứ của cô nương, có lẽ còn muốn âm thầm khám nghiệm, chuyện này…

“Cô nương, chuyện lần này vú tuyệt đối không đồng ý với cô nương, cho dù cô nương có nghi ngờ điều gì, thì nên báo cho nha môn Phượng An mới đúng, có muốn mở quan tài nghiệm thi, cũng phải do quan phủ đứng ra thi hành. Lén lút mở quan nghiệm thi chính là tội lớn tày đình, bị phát hiện sẽ lãnh án tử hình. Còn nữa, mở quan nghiệm thi là phỉ báng tổ tông, phu nhân trên trời có linh thiêng, cũng sẽ không dung cô nương làm việc này. Chưa tính đến, chuyện này mà lộ ra phong phanh dù chỉ một chút thôi, thanh danh của cô nương càng khỏi cần cứu vãn nữa. Mở quan nghiệm thi là việc bất hiếu tột cùng! Mỗi người nhổ một ngụm nước bọt cũng có thể dìm chết cô nương ấy chứ. Không được! Việc này tuyệt đối không được!”

Những điều Phương mama nói chẳng lẽ Tuệ An lại không lường trước, nhưng nàng đã suy nghĩ về chuyện này lâu lắm rồi, nếu nàng muốn tra ra chân tướng cái chết của mẫu thân, không mở quan nghiệm thi thì còn biết làm gì? Hiện giờ đã qua bao nhiêu năm, bảo nàng tra xét từ đâu đây? Cho nên Tuệ An khẽ nheo mắt, kiên trì nói:

“Vú nuôi không cần nhiều lời, chuyện này ta đã quyết định. Tổ tiên Hầu phủ ta vốn hành nghề trộm mộ, vong linh suối vàng hay trời phạt gì đó ta đây không tin. Mẫu thân bị người hại chết, lại không thể minh oan cho người, để mặc sự thật bị chôn dấu dưới đó mới là bất hiếu tột cùng! Vú nuôi chỉ cần ở bên cạnh giúp ta là được, những việc khác ta không nói, chỉ riêng việc này xin vũ hãy tin tưởng ta! Hơn nữa có chuyện này ta cũng muốn hỏi vú nuôi.”

Phương mama thấy Tuệ An kiên quyết như vậy, nhất thời không biết phải cảm thán thế nào, bà thầm nhủ về sau phải từ từ khuyên can cô nương nhiều hơn, lại miễn cưỡng đồng ý, hỏi:

“Cô nương muốn hỏi chuyện gì?”
Bình Luận (0)
Comment