Percy Jackson Tập 3: Lời Nguyền Của Thần Titan

Chương 15

“Hãy nói cho tớ biết khi mọi chuyện kết thúc,” Thalia nói, mắt nhắm tịt. Thiên thần bằng đồng vẫn đang giữ chặt lấy chúng tôi để chúng tôi khỏi ngã. Nhưng Thalia vẫn giữ chặt tay của anh ta như thể đó là thứ quý giá nhất trên đời này vậy.

“Tất cả đều ổn.” Tôi hứa.

“Có phải... có phải chúng ta đang ở rất cao không?”

Tôi nhìn xuống. Ngay dưới chúng tôi là những dãy núi tuyết phủ trắng. Tôi duỗi cẳng chân, đá tuyết từ trên một đỉnh núi.

“À,” tôi nói. “Không cao đến thế chứ”

“Chúng ta đang ở dãy Sierras!” Zõe hét lên. Cô ấy và Grover đang bám lấy cánh tay của bức tượng còn lại. “Trước kia, tôi đã từng đi săn ở đây. Cứ theo tốc độ này, chúng ta sẽ đến San Francisco trong vài tiếng đồng hồ nữa.”

“Xin chào, xin chào, Frisco!” thiên thần đang giữ tôi và Thalia nói. “Anh bạn, Chuck này! Chúng ta lại có thể tới thăm những anh chàng ở Tượng đài Mechanics. Họ biết làm thế nào để tổ chức tiệt tùng!”

“Ôi trời,” thiên thần kia lên tiếng. “Tôi cũng tới đó.”

“Các anh đã tới San Francisco rồi sao?” Tôi hỏi,

“Thi thoảng chúng tôi có vài trò vui vẻ, phải không?” bức tượng phía tôi lên tiếng. “Những gã thợ cơ khí đấy đã mang chúng tôi tới bảo tàng Young và giới thiệu chúng tôi với quý bà đá cẩm thạch, hiểu chứ. Và ...”

“Hank!” một bức tượng khác cắt ngang. “Chúng chỉ là những đứa trẻ, anh bạn ạ.”

“Ồ, được rồi.” Nếu tượng đồng có thể đỏ mặt thì tôi thề là Hank đã làm như thế. “Quay lại bay tiếp thôi.”

Chúng tôi tăng tốc. Tôi có thể nói rằng những thiên thần đang rất vui mừng. Những dãy núi khuất dần, và dần được thay bằng những ngọn đồi, và sau đó chúng tôi bay vút qua những trang trại, những thị trấn, những đường cao tốc.

Grover bắt đầu thổi sáo để giết thời gian. Zõe buồn chán và bắt đầu bắn tên vào bất kì biển quảng cáo nào khi chúng tôi bay qua. Mỗi lần cô nhìn thấy mục tiêu của hàng bách háo nào đó - và chúng tôi bay qua cả tá những nơi như thế - cô ấy sẽ nhắm vào tâm điểm trên biển cửa hàng với tốc độ hàng trăm dặm một giờ.

Thalia nhắm chặt mắt suốt chặng đường đi. Cô thì thầm một mình như đang cầu nguyện.

“Lúc đó cậu đã làm rất tốt,” tôi nói. “Thần Zeus đã lắng nghe.”

Thật khó để nhận ra cô ấy đang nghĩ gì khi mắt cô ấy cứ nhắm chặt.

“Có thể.” Cô ấy nói. “Dù sao đi nữa, làm thế nào cậu có thể chạy thoát khỏi những bộ xương? Cậu nói chúng đã bao vậy cậu mà.”

Tôi nói cho cô ấy nghe về cô gái người trần kì lạ đó, Rachel Elizabeth Dare, người mà dường như có thể nhìn xuyên qua cả Màn Sương mù. Tôi đã cho rằng cô ta sẽ nói tôi bị điên nhưng cô ta lại chỉ gật đầu.

“Có một số người thường có khả năng như vậy đấy,” cô ấy nói. “Không ai biết là tại sao.”

Đột nhiên trong tôi loé lên và điều mà trước giờ tôi chẳng hề để ý. Mẹ tôi cũng như thế. Bà đã từng nhìn thất con Minotaur trên Đồi Con lai và biết chính xác đó là gì. Bà đã không hề bất ngờ khi năm trước tôi nói rằng bạn tôi Tyson thật sự là một Cyclops. Có thể bà đã biết tất cả từ trước. Tất nhiên bà cảm thấy lo cho tôi khi thấy tôi đang dần trưởng thành. Bà thậm chí còn có thể nhìn qua Màn Sương mù tốt hơn tôi.

“Ồ, cô gái đó khá phiền phức,” tôi nói. “Nhưng tớ thấy mừng vì không làm bốc hơi cô ta. Mọi chuyện có lẽ sẽ rất tồi tệ.”

Thalia gật đầu. “Là một con người bình thường thật là tuyệt.”

Cô ấy nói như thể đã phải suy nghĩ rất nhiều cho điều đó.

“Các cậu muốn hạ cánh ở đâu nào?” Hank hỏi, làm tôi chợt tỉnh khỏi giấc ngủ chập chờn.

Tôi nhìn xuống. “Whoa.”

Trước đấy tôi đã ngắm San Francisco trong những bức tranh, nhưng chưa bao giờ nhìn nó ngoài đời thường. Đây có lẽ là thành phố đẹp nhất mà tôi từng thấy - kiểu như một Manhattan thu nhỏ lại, sạch sẽ hơn, nếu Manhattan được bao quanh bởi những ngọn đồi xanh mướt và sương mù. Một cái vịnh lớn và tàu thuyền, những hòn đảo, những chiếc thuyền buồn và cây cầu Cổng vàng nổi bật lên trên làn sương mù. Tôi nghĩ là mình nên chụp hình hay làm cái gì đó. Lời chào từ Frisco. Tớ vẫn chưa chết. Ước gì cậu ở đây.

“Ở kia.” Zõe gợi ý. “Bên cạnh toà nhà Embarcadero.”

“Ý hay đó,” Chuck nói. “Tôi và Hank sẽ có thể trà trộn vào lũ chim bồ câu.”

Tất cả chúng tôi đều nhìn về phía anh ta.

“Đùa thôi.” Anh ta nói. “Lẽ nào những bức tượng không thể có khiếu hài hước hay sao?”

Hoá ra chúng tôi không cần phải trà trộn gì cả. Lúc này là sáng sớm và không có nhiều người xung quanh đây. Chúng tôi khiến một gã vô gia cư phải đờ đẫn trên bến phà khi thấy chúng tôi hạ cánh. Anh ta la lên khi thấy Hank và Chuck, rồi vừa chạy vừa kêu gào cái gì đó về những thiên thần làm từ kim loại đến từ sao Hoả.

Chúng tôi chào tạm biệt các thiên thần để họ bay tới bữa tiệc với những người bạn tượng đá. Đó cũng là lúc chúng tôi nhận ra mình chưa biết làm gì tiếp theo.

Chúng tôi đi về phía West Coast. Nữ thần Artemis đang ở đâu đó quanh đây. Tôi hi vọng Annabeth cũng thế. Nhưng tôi chưa có cách nào để tìm ra họ, và ngày mai là ngày Đông chí. Tôi cũng không có manh mối nào về con quái vật mà Nữ thần Artemis đang săn đuổi. Trong nhiệm vụ này lẽ ra nó phải tìm chúng tôi. Đáng lẽ nó phải “để lại dấu vết”, nhưng nó chẳng bao giờ làm thế. Giờ đây chúng tôi bị mắc kẹt ở bến phà này, không tiền bạc, không bạn bè, không may mắn.

Sau một cuộc thảo luận nho nhỏ, chúng tôi đồng ý rằng cần phải làm rõ bí mật của con quái vật đó là gì.

“Nhưng bằng cách nào?” tôi hỏi.

“Nereus,” Grover nói.

Tôi nhìn về phía anh ta. “Cái gì?”

“Đó không phải là những gì mà thần Apollo nói với cậu sao? Tìm Nereus?”

Tôi gật đầu. Tôi đã hoàn toàn lãng quên cuộc chuyện với thần mặt trời.

“Ông già của biển cả,” tôi nhớ là như vậy. “Tôi phải tìm ông ta và ép ông ta nói ra những gì ông ta biết. Nhưng làm sao tôi có thể tìm thấy ông ta?”

Zõe nhăn mặt. “Ông già Nereus à?”

“Cậu biết ông ấy?” Thalia hỏi.

“Mẹ tôi là một nữ thần biển. Đúng thế, tôi biết ông ấy. Thật may là ông ấy cũng không khó tìm cho lắm. Chỉ cần lần theo mùi hương.”

“Ý của cô là gì?” tôi hỏi lại.

“Lại đây.” Cô ấy nói đầy hăng hái. “Tôi sẽ chỉ cho cậu xem.”

Tôi biết mình đang gặp rắc rối khi chúng tôi dừng lại ở chỗ cái thùng thư ở Goodwill. Năm phút sau, Zõe trang bị cho tôi một chiếc áo sơ mi và vair flanen rách tả tơi, một chiếc quần jean rộng hơn cỡ của tôi 3 số, đôi giày thể thao màu đỏ nhạt, và chiếc mũ len mềm có màu sắc rực rỡ như cầu vồng.

“Ồ, yeah,” Grover nói, cố giữ không phì cười. “Cậu trông cực kì kín đáo rồi đấy.”

Zõe gật đầu ra vẻ hài lòng. “Một gã lang thang điển hình.”

“Cảm ơn rất nhiều,” tôi gầm gừ. “Tại sao tôi phải làm điều này?”

“Tôi đã nói với cậu rồi. Để trà trộn.”

Cô ấy dẫn đường đi ngược về phía bến tàu. Sau hai tiếng đồng hồ tìm kiếm trên vũng tùa đậu này, Zõe cuối cùng dừng lại trên một con đường nhỏ. Cô chỉ xuống chỗ cầu tàu khi mà có cả tá những tên vô gia cư đang cùng nhau cuộn tròn trong những chiếc chăn, chờ đợi được phát món súp cho bữa trưa.

“Ông ấy sẽ ở đâu đó dưới đấy.” Zõe nói. “Ông ấy không bao giờ đi quá xa mặt nước. Ông ấy thích sưởi nắng cả ngày.”

“Làm sao tôi biết được ai mới chính là ông ta?”

“Cứ lặng lẽ lại gần,” cô ấy nói. “Đóng giả làm một kẻ vô gia cư. Cậu sẽ nhận ra ông ấy. Ông ấy có mùi... rất khác.”

“Tuyệt thật.” Tôi không muốn hỏi chi tiết thêm nữa. “VÀ khi tôi tìm thấy ông ấy?”

“Chộp lấy ông ấy,” cô ấy nói. “Và ôm chặt lấy. Ông ấy sẽ tìm mọi cách để chạy trốn khỏi cậu. Dù ông ta có làm gì cũng đừng để ông ta chạy thoát. Hãy ép ông ta nói về con quái vật.”

“Bon tớ sẽ ở sau lưng cậu.” Thalia nói. Cô ấy lấy cái gì đó ra khỏi phía lưng áo tôi - một cụm lông lớn chẳng biết ở đâu ra. “Eo ơi. Nghĩ lại... tớ không cần cậu đáp trả lại. Nhưng chúng tớ sẽ ủng hộ cậu.”

Grover giơ cao ngón tay cái lên thể hiện sự đồn tình.

Tôi làu bàu vì thật tuyệt vời làm sao khi có những người bạn có sức mạnh siêu phàm. Sau đó tiến tới thẳng chỗ cầu tàu.

Tôi kéo lưỡi cái mũ xuống thấp, đi nghiêng ngả như sắp ngất đến nơi vậy. Làm điều đó cũng không khó lắm đủ để thấy tôi mệt như thế nào. Tôi đi qua anh bạn vô gia cư đến từ Embarcadero. Gã này đang cố cảnh báo những gã khác về những thiên thần bằng kim loại đến từ sao Hoả.

Mùi của anh ta không dễ ngửi cho lắm, nhưng anh ta không có mùi khác biệt. Tôi tiếp tục bước đi.

Hai anh chàng đầy cáu bẩn với chiếc túi đựng thực phẩm được dùng làm mũ nhìn thăm dò khi tôi tiến tới gần.

“Xéo ngay, thằng ranh!” một tên thầm thì.

Tôi bỏ đi. Bọn họ có mùi thật kinh khủng nhưng chỉ là cái mùi khó ngửi quen thuộc thông thường. Không có gì bất thường cả.

Có một người phụ nữ với một đàn hồng hạc nhựa nhô ra từ chiếc xe đẩy. Bà ta nhìn trừng trừng tôi như thể tôi sắp cướp mất lũ chim của bà ta vậy.

Phía cuối cầu cảng, một ông già trông khoảng một triệu năm tuổi đang bất tỉnh trong một khoảng đầy ánh nắng. Ông ta mặt một bộ pijama và chiếc áo choàng tăm màu trắng đã sờn. Ông ta béo, với bộ ria màu trắng đã chuyển dần sang vàng, có chút gì đó giống với ông gài Noen nếu như ông già Noen bị cuộn ra khỏi giường, và kéo lê đi khắp bãi rác.

Và mùi của ông ta?

Khi tôi tiến gần hơn, người tôi lạnh cứng lại. Mùi của ông ta thật tệ, đúng thế - những mùi khó ngửi của đại dương. Giống như mùi rong biển nóng, cá chết, và nước mặn. Nếu như đại dương có một mặt xấu xí... người đàn ông này chính là điều đó.

Tôi cố gắng không nôn oẹ. Tôi ngồi xuống cạnh ông ta như thể tôi đang rất mệt. Ông già Noen mở một mắt ra nhìn nghi hoặc. Tôi có thể cảm nhận thấy ông ta đang nhìn tôi chằm chằm, nhưng tôi không nhìn lại. Tôi lẩm bẩm vài điều về ngôi trường và những bậc phụ huynh ngu ngốc, chắc mẩm như vậy nghe sẽ hợp lý.

Ông già Noen nhắm mắt ngủ tiếp.

Tôi cảm thấy căng thẳng. Tôi biết làm việc này sẽ kì cục. Tôi không rõ những gã vô gia cư khác sẽ phản ứng như thế nào. Nhưng tôi nhảy bổ vào ông già Noen.

“Áaaaa!” ông ấy la lên. Tôi định ôm chặt lấy ông ta, nhưng thay vì thế ông ta lại như ôm chầm lấy tôi. Cứ như là ông ta chưa hề ngủ vậy. Ông ta không hề tỏ ra là một ông già ốm yếu. Ông ta có nắm tay chặt như thép. “Cứu tôi với!” Ông ta la lên khi đang siết chặt lấy tôi đến chết.

“Đó là một tội ác” một trong những kẻ vô gia cư kêu la. “Thằng bé vật lộn với ông già như vậy!”

Tôi cuộn tròn theo ý muốn - thẳng xuống chỗ cầu tàu cho đến khi đầu tôi đập mạnh vào cái cột trụ. Tôi choáng váng trong giấy lát và nắm tay Nereus thả lỏng. Ông ta đang giải lao chút. Trước khi ông ta có thể làm thế, tôi định thần lại và túm chặt ông ta từ phía sau.

“Tôi không có tiền!” ông ta cố vùng dậy bỏ chạy, nhưng tôi cố khoá chặt tay quanh ngực ông ta. Mùi cá thối rữa trên người ông ta thật kinh tởm, nhưng tôi giữ chặt.

“Tôi không muốn tiền,” tôi nói khi ông ta vẫn đang kháng cự. “Tôi là con lai! Tôi muốn một ít thông tin!”

Điều đó càng khiến ông ta chống trả quyết liệt hơn. “Những người anh hùng! Sao lúc nào các người cũng luôn bắt tôi?”

“Vì ông biết mọi thứ!”

Ông ta gầm gừ và cố gắng hất tôi ra khỏi lưng. Tôi bám vào ông ta như bám vào tàu trượt cao tốc vậy. Ông ta quẩy đập xung quanh khiến tôi không thể giữ thằng bằng, nhưng tôi nghiến răng, siết chặt hơn. Chúng tôi lảo đảo bước lên phía trước mép cáu tàu, và tôi có một sáng kiến.

“Ồ không!” tôi nói. “Không phải là nước chứ!”

Kế hoạch đã thành công! Ngay lập tức, Nereus gào lên đắc thắng và nhảy xuống khỏi cầu tàu. Chúng tôi cùng nhau lao xuống vịnh San Francisco.

Ông ta chắc đã rất ngạc nhiên khi thấy tôi siết chặt cánh tay, đại dương đã tiếp thêm sức mạnh cho tôi. Nhưng hình như Nereus còn có một vài thủ đoạn. Ông ta thay đổi hình dạng cho đến khi tôi ôm lấy một con hải cẩu màu đen béo tốt.

Tôi đã từng nghe người ta nói chuyện vui về việc cố gắng ôm lấy một con lợn được bôi mỡ, nhưng tôi phải nói cho bạn rằng việc bám vào một con hải cẩu trong nước còn khó hơn nhiều. Nereus lao thẳng xuống, uốn éo và quẫy đạp di chuyển theo hình tròn ốc xuyên qua làn nước tối om. Nếu tôi không phải là con trai của thần Poseidon, sẽ chẳng có cách nào khiến tôi có thể bám sát ông ta.

Nereus xoay tròn và mở rộng ra, biến thành một con cá voi sát thủ, nhưng tôi túm lấy vây trên lưng ông ta khi ông ta phun nước ra ngoài.

Một đám khách du lịch đến, “Oàaaa!”

Tôi kiềm chế việc vẫy tay về phía đám đông. Yeah, chúng tôi làm thế này hàng ngày ở San Francisco.

Nereus lại lao xuống nước lần nữa và biến thành con lươn biển nhầy nhụa. Tôi bắt đầu thắt nút ông ta lại cho tới khi ông ta nhận ra chuyện gì đang diễn ra và bắt đầu biến lại thành hình dạng con người. “Tại sao ngươi không bị chết đuối?” ông ta rền rĩ, dùng nắm đấm đánh tôi túi bụi, liên hồi.

“Tôi là con trai thần Poseidon,” tôi nói.

“Nguyền rủa kẻ mới đến! Ta ở đây trước nhất!”

Cuối cùng ông ta co rúm ở mép bến tàu. Phía trên chúng tôi là một trong những cầu tàu dành cho khách du lịch với hàng dài các cửa hiệu, giống như một trung tâm buôn bán lớn trên mặt nước. Nereus thở hổn hển, thở gấp. Tôi thấy rất tuyệt. Tôi có thể tiếp tục cuộc chiến đó cả ngày, nhưng tôi không nói cho ông ta biết điều đó. Tôi muốn ông ta cảm thấy rằng mình đã chiến đấu rất giỏi.

Những người bạn của tôi chạy xuống bật thang trên cầu tàu.

“Cậu bắt được ông ấy rồi!” Zõe nói.

“Cậu không cần phải sửng sốt vậy đâu,” tôi nói.

Nereus than vãn. “Ồ tuyệt thật. Khán giả cho sự bẽ mặt của ta. Một cuộc giao dịch thông thường, ta hi vọng thế? Ngươi sẽ để ta đi nếu ta trả lời câu hỏi của ngươi chứ?”

“Tôi có hơn một câu hỏi,” tôi nói.

“Chỉ Duy nhất một câu hỏi cho một lần rượt đuổi! Đấy là luật.”

Tôi nhìn lên phía những người bạn mình.

Điều này chẳng hay ho chút nào. Tôi cần phải tìm nữ thần Artemis, và tôi cần tìm ra cái tạo ra ngày tận thế là gì. Tôi cũng cần biết liệu Annabeth còn sống hay không, và làm thế nào có thể cứu cô ấy. Làm thế nào tôi có thể hỏi tất cả trong một câu hỏi?

Nhưng có một giọng nói trong tôi đang kêu gào: Hãy hỏi về Annabeth! Đó là thứ tôi quan tâm nhất.

Nhưng rồi sau đó tôi tưởng tượng ra điều mà Annabeth có thể sẽ nói. Cô ấy sẽ không tha thứ cho tôi nếu tôi cứu cô ấy mà không cứu Olympus. Zõe muốn tôi hỏi về nữ thần Artemis nhưng bác Chiron đã nói với chúng tôi rằng con quái vật quan trọng hơn nhiều.

Tôi thở dài. “Được rồi, Nereus. Nói cho tôi biết phải đến đâu để tìm quái vật kinh khủng có thể đặt dấu chấm hết cho các vị thần - con quái vật mà nữ thần Artemis đang săn lùng?”

Ông già biển cả cười, để lộ hàm răng phủ đầy rêu xanh.

“Ồ dễ thôi mà,” ông nói đầy ác ý. “Nó ở ngay đây.”

Nereus chỉ vào chỗ ngay phía dưới chân tôi.

“Ở đâu?” tôi nói.

“Cuộc giao dịch đã kết thúc!” Nereus hả hê. Với một tiếng bốp, ông ta biến thành con cá vàng vút nhẹ ra biển.

“Ông lừa tôi!” tôi gào lên.

“Chờ đã.” Mắt Thalia mở to. “Cái gì vậy?”

“Moooooo!”

Tôi nhìn xuống, và bạn tôi ở đó, con bò rắn, bơi ngay cạnh bến tàu. Nó huých vào giày tôi, đôi mắt nâu buồn bã nhìn tôi.

“À, Bessie,” tôi nói. “Không phải lúc này.”

“Moooo!”

Grover thở hổn hển. “Nó nói tên nó không phải là Bessie.”

“Cậu có thể hiểu cô bé... , cậu bé à?”

Grover gật đầu. “Đấy là một dạng ngôn ngữ cổ của động vật. Nhưng nó nói tên nó là Ophiotaurus.”

“Ophi-gì cơ?”

“Nó có nghĩa là bò rắn trong tiếng Hy lạp,” Thalia nói. “Nhưng nó đang làm gì ở đây?”

“Mooooo!”

“Nó nói rằng Percy là người bảo vệ của nó,” Grover tuyên bố. “và nó đang chạy trốn khỏi bọn người xấu. Nó nói chúng đang ở rất gần.”

Tôi đang phân vân làm sao cậu ta có thể khớp tất cả vào một từ mooooo.

“Chờ đã,” Zõe nhìn tôi nói. “Cậu biết con bò này sao?”

Tôi cảm thấy hơi mất bình tĩnh, nhưng lại kể cho họ biết chuyện.

Thalia lắc đầu không tin. “Và cậu chỉ quên không đề cập đến chuyện này trước đây?”

“Ồ... ừ.” Nó có vẻ ngu ngốc, vì cô ấy nói điều đó, nhưng mọi thứ đều xảy ra quá nhanh. Bessie- Ophiotaurus- dường như là một chi tiết thứ yếu.

“Tôi đúng là kẻ ngốc,” Zõe đột ngột nói. “Tôi biết câu chuyện này!”

“Chuyện nào?”

“Từ cuộc chiến của các thần khổng lồ Titan,” cô nói. “Cha... cha tôi đã kể cho tôi nghe về câu chuyện này, cách đây hàng nghìn năm. Đây là con thú mà chúng ta đang tìm kiếm.”

“Bessie?” tôi nhìn xuống chỗ con bò rắn. “Nhưng... nó trông rất đáng yêu. Nó không thể nào phá huỷ thế giới được.”

“Đó là cách khiến chúng ta sai lầm,” Zõe nói. “Chúng ta đã đoán nó là một con quái vật to lớn và nguy hiển, nhưng Ophiotaurus không hạ bệ các vị thần theo cách đấy. Nó chắc phải được hiến tế.”

“MMMM,” Bessie hạ giọng.

“Tôi nghĩ là nó thích từ đó,” Grover nói.

Tôi vỗ nhẹ vào đầu Bessie, cố gắng trấn tĩnh nó. Nó để tôi gãi tai nó, nhưng nó lại đang run lên.

“Làm sao ai đó có thể làm đau nó chứ? Tôi nói. “Nó vô hại mà.”

Zõe gật đầu. “Nhưng có một khả năng giết người vô hại. Năng lực khủng khiếp. Ba vị thần mệnh đã ban ra một lời tiên tri hàng niên kỉ trước, khi sinh vật này mới được sinh ra. Họ nói rằng bất cứ ai giết Ophiotaurus và dùng ruột nó làm vật hiến tế trong lửa sẽ có sức mạnh huỷ diệt các vị thần.”

“MMMMMM!”

“Ừm,” Grover nói. “Chúng ta có thể tránh không nói về ruột.”

Thalia nhìn chằm chằm con bò rắn đầy băn khoăn. “Sức mạnh huỷ diệt các vị thần... bằng cách nào? Ý tớ là điều gì sẽ xảy ra?”

“Không ai biết,” Zõe nói. “Lần đầu tiên trong suốt cuộc chiến với các thần khổng lồ Titan, thực tế Ophiotaurus đã bị giết bởi gã khổng lồ, đồng minh của các thần khổng lồ Titan. Nhưng cha ngươi, thần Zeus đã gửi một chim đại bàng đến chộp lấy chỗ ruột trước khi chúng bị ném vào. Suýt chút nữa thì mọi việc trở nên tồi tệ. Bây giờ, sau ba ngàn năm, Ophiotaurus lại tái sinh.”

Thalia ngồi trên bến tàu. Cô duỗi thẳng tay. Bessie tới ngay cạnh cô, Thalia đặt tay lên đầu nó. Bessie khẽ rùng mình.

Sự biểu lộ của Thalia khiến tôi phiền lòng. Cô ấy trông gần như là... đói.

“Chúng ta phải bảo vệ nó,” tôi nói với cô ấy. “Nếu Luke có nó...”

“Luke sẽ không chần chừ,” Thalia nói thầm. “Sức mạnh lật đổ Olympus. Nó... nó quá lớn.”

“Đúng thế đấy, bạn thân mến,” giọng một người đàn ông đậm chất Pháp cất lên. “Và ngươi sẽ là người giải phóng sức mạnh đó.”

Ophiotaurus thút thít và lặn xuống nước.

Tôi ngước nhìn lên. Mải mê nói chuyện quá, chúng tôi đã để tự mình rơi vào mai phục.

Đứng ngay sau chúng tôi là tiến sĩ Thorn - con Manticore, đôi mắt hai màu của chúng ánh lên những tia nhìn đầy độc ác.

***

“Thật đúng là hoàn hảo,” con Maticore nhìn hau háu.

Hắn khoác một chiếc áo choàng đen rách nát lên bộ cánh của Westover Hall đã sờn rách. Mái tóc màu xám kiểu lính của hắn mọc lên như một cục bông dầu. Gần đây, hắn không cạo râu, khuôn mặt hắn bị bao phủ bởi lớp râu bạc trắng. Về cơ bản, trông hắn cũng chẳng khác hơn mấy gã ở nơi phát chẩn cháo.

“Cách đây rất lâu rồi, các vị thần đã trục xuất đày ta đến Ba Tư,” con Maticore nói. “Ta buộc phải ăn trộm thức ăn trên đường của rìa thế giới, lẩn trốn tròn rừng, nuốt chửng những người nông dân bình thường. Ta chưa từng chiến đấu với một vị anh hùng vĩ đại nào hết. Ta đã không còn bị sợ hãi hay được hâm mộ trong những câu chuyện cổ! Nhưng giờ đây điều đó sẽ thay đổi. Các thần khổng lồ Titan sẽ vinh danh ta, ta sẽ mở tiệc bằng thịt các á thần!”

Ở hai bên hắn ta là 2 gã được trang bị vũ trang - một vài tên lính đánh thuê tôi đã từng thấy khi ở D.C. Hai tên nửa đứng ở trên bến tàu kế bên, để đề phòng trường hợp chúng tôi bỏ chạy theo lối đó. Xung quanh đầy những khách du lịch - đi bộ xuống sông, mua sắm tại các bến tàu ngay ở phái trên chúng tôi - nhưng tôi biết điều đó cũng không thể ngăn được hành động của con Maticore này.

“Ở đâu - những bộ xương đó ở đâu?” tôi hỏi con Maticore.

Hắn ta châm chọc. “Ta không cần những gã bất tử ngu ngốc đó. Tướng quân nghĩ ta không có giá trị à? Hắn sẽ phải thay đổi suy nghĩ khi ta, chính ta sẽ đánh bại ngươi!”

Tôi cần có thời gian để suy nghĩ. Tôi phải cứu Bessie. Tôi có thể lặn xuống biển nhưng làm thế nào tôi có thể tẩu thoát một cách nhanh chóng với một con bò rắn nặng năm trăm pao? Và còn bạn bè tôi thì sao?

“Trước đây bọn ta đã đánh bại ngươi,” tôi nói.

“Haha! Ngươi chỉ có thể đánh bại ta khi có một nữ thần đứng về phía ngươi. Và than ôi... vị nữ thần ấy giờ này lại đang bận rộn. Sẽ chẳng còn sự trợ giúp nào cho ngươi lúc này đâu.”

Zõe lắp mũi tên vào và chĩa nó ngay đầu con Maticore. Mấy tên bảo vệ đứng hai bên chúng tôi rút súng ra.

“Chờ đã!” tôi nói. “Zõe, đừng!”

Con Maticore mỉm cười. “Thằng bé nói đúng đấy, Zõe Nightshade. Vứt cung của ngươi đi. Thật mỉa mai thay nếu ta giết chết cô trước khi cô chứng kiến chiến thắng vĩ đại của Thalia.”

“Ngươi nói gì?” Thalia gầm lên. Cô ấy đã chuẩn bị lá chắn và giáo sẵn sàng.

“Mọi thứ chắc chắn đã quá rõ ràng,” con Maticore nói. “Đây là thời khắc của ngươi. Đó là lí do tại sao Chúa tể Kronos cho ngươi sống lại. Ngươi sẽ hiến tế Ophiotaurus. Ngươi sẽ mang ruột nó tới chỗ ngọn lửa thiên trên núi. Ngươi sẽ có một sức mạnh vô biên. Và vào ngày sinh nhật thứ mười sáu của ngươi, ngươi sẽ lật đổ Olympus.”

Không ai nói gì. Một cảm giác thật kinh khủng. Thalia chỉ còn hai ngày nữa là bước sang tuổi mười sáu. Cô ấy là một trong những đứa con của Bộ Tam Vĩ Đại. Và giờ đây là một lựa chọn – một sự lựa chọn sai lầm có thể đồng nghĩa với sự kết thúc của các vị thần. Nó sẽ giống với Lời Sấm Truyền. Tôi không biết mình cảm thấy nhẹ nhõm hay sợ hãi, hay thất vọng. Cuối cùng tôi đã không phải là đứa trẻ trong Lời Sấm Truyền. Ngày tận thế đang xảy ra, ngay lúc này.

Tôi chờ đợi Thalia bật lại gã Manticore, nhưng cô ấy lại do dự. Cô ấy hoàn toàn sững sờ.

“Ngươi biết đó là sự lựa chọn đúng đắn mà,” gã Manticore nói với cô ấy. “Bạn ngươi, Luke, đã nhận ra điều đó. Ngươi sẽ đoàn tụ với hắn. Các ngươi có thể cùng nhau cai trị thế giới dưới sự bảo hộ của các thần khổng lồ Titan. Cha ngươi đã bỏ rơi ngươi, Thalia. Ông ta chẳng hề quan tâm gì đến ngươi hết. Và bây giờ, ngươi sẽ có sức mạnh hơn cả ông ta. Đè nát những vị thần trên đỉnh Olympus dưới chân ngươi như những gì họ đáng phải nhận. Hãy gọi con quái vật! Nó sẽ đến chỗ ngươi. Hãy dùng cây giáo của ngươi.”

“Thalia,” tôi nói. “Tỉnh lại đi!”

Cô ấy nhìn tôi giống hệt như cái buổi sáng cô ấy thức dậy trên Đồi Con Lai, mê mụ và không đáng tin. Nó gần như là cô ấy đã không hề biết tôi. “Tớ… tớ không…”

“Cha cậu đã giúp cậu,” tôi nói. “Ông đã gửi thiên thần kim loại đến. Ông biến cậu thành một cái cây để bảo vệ cậu.”

Bàn tay cô thít chặt lên cán giáo.

Tôi nhìn Grover tuyệt vọng. Tạ ơn Chúa, cậu ấy hiểu rõ những gì tôi cần. Cậu ấy đưa ống sáo lên miệng và chơi nhanh một đoạn nhạc lặp đi lặp lại.

Gã Manticore gào lên, “Dừng hắn lại!”

Mấy tên bảo vệ vẫn đang nhắm mục tiêu vào Zõe. Nhưng đó là trước khi chúng có thể nhận ra rằng Grover với cây sáo mới là vấn đề lớn. Tấm ván gỗ dưới chân chúng nảy chồi ra những nhánh mới và cuốn chặt vào chân. Zõe bắn nhanh hai mũi tên. Chúng nhanh chóng phát nổ dưới chân bọn chúng với những đám mây khói màu vàng lưu huỳnh. Mũi tên “đánh rắm”!

Mấy tên bảo vệ bắt đầu ho khan. Gã Manticore bắn gai về phía chúng tôi. Chúng bật nẩy ra khỏi áo sư tử của tôi.

“Grover,” tôi nói, “bảo Bessie lặn sâu xuống và ở yên dưới đó!”

“Moooooo!” Grover dịch lại. Tôi chỉ có thể hy vọng rằng Bessie nhận được tin nhắn đó.

“Con bò…” Thalia thì thầm, vẫn còn mê mụ.

“Đi nào!” Tôi kéo cô ấy cùng đi khi chúng tôi chạy lên cầu thang dẫn vào trung tâm mua sắm. Chúng tôi lao nhanh qua góc cửa hàng gần nhất. Tôi nghe tiếng gã Manticore la hét lũ tay sai, “Tóm lấy chúng!” Khách du lịch la hét khi những tên bảo vệ bắn vào không khí một cách mù quáng.

Chúng tôi trườn đến cuối bến tàu. Chúng tôi nấp đằng sau một ki-ốt nhỏ chứa đầy đồ lưu niệm làm từ pha lê – chuông gió và dreamcatcher[17], và những món đồ tương tự thế, lấp lánh trong ánh mặt trời. Có một vòi phun nước bên cạnh chúng tôi. Phía dưới là một đàn sư tử biển đang phơi nắng trên những tảng đá. Toàn cảnh Vịnh San Francisco trải ra trước chúng tôi – Cầu Cổng Vàng và Đảo Alcatraz, đồi xanh và sương mù xa xa về phía bắc. Một bức tranh hoàn hảo trong giây lát, ngoại trừ một thực tế là chúng tôi sắp chết và thế giới đang sắp bị diệt vong.

“Đi qua phía đó!” Zõe nói với tôi. “Cậu có thể trốn thoát trên biển, Percy. Hãy cầu cứu cha cậu để được giúp đỡ. Có lẽ cậu có thể cứu được Ophiotaurus.”

Cô ấy đã đúng, nhưng tôi không thể làm điều đó.

“Tôi sẽ không để các cậu lại đâu,” tôi nói. “Chúng ta hãy cùng nhau chiến đấu.”

“Cậu phải tìm cách thông báo với trại!” Grover nói. “Ít nhất là cho họ biết những gì đang xảy ra!”

Sau đó, tôi nhận thấy pha lê tạo thành một chiếc cầu vồng trong ánh nắng. Có một vòi nước ngọt bên cạnh tôi…

“Thông báo với trại,” tôi thì thầm. “Ý tưởng hay.”

Tôi mở nắp cây Thủy Triều và cắt đi phần trên cùng của vòi phun nước. Nước tuôn trào ra khỏi đường ống đã vỡ, và bắn tung tóe lên chúng tôi.

Thalia vô cùng kinh ngạc khi nước đập vào cô. Cô ấy dường như hoàn toàn tỉnh táo. “Cậu điên à?” cô ấy hỏi.

Nhưng Grover hiểu rõ. Cậu ấy lục tìm quanh trong túi cho được một đồng xu. Cậu ta ném một đồng drachma vàng vào chỗ cầu vồng được tạo ra bởi sương mù và hét, “Ôi, nữ thần, xin hãy chấp nhận lễ vật của con!”

Đám sương mù khẽ lay động.

“Trại Con Lai!” Tôi nói.

Và rồi, lung linh trong màn sương mù ngay bên cạnh chúng tôi là người cuối cùng tôi muốn gặp – Ngài D, trong bộ đồ chạy da beo và đang lục lọi cái tủ lạnh.

Ông ta nhìn lên lười nhác, “Cậu có phiền không?”

“Bác Chiron ở đâu?” Tôi hét lên.

“Thô lỗ quá.” Ngài D. nhấp một ngụm từ ly nước nho to. “Đấy có phải là cách cậu chào hỏi không?”

“Xin chào,” tôi sửa lại. “Chúng tôi sắp chết! Báo Chiron đến rồi?”

Ngài D cân nhắc điều tôi nói. Tôi muốn hét to lên giục ông ta phải nhanh lên. Nhưng tôi biết rằng nó sẽ chẳng có tác dụng gì cả. Đằng sau chúng tôi, tiếng bước chân và la hét – Đội quân của gã Manticore đang tiến sát gần.

“Sắp chết,” Ngài D. kinh ngạc. “Thú vị thật. Ta e rằng Chiron không có ở đây. Cậu có muốn ta chuyển một tin nhắn không?”

Tôi nhìn những người bạn của mình, “Chúng ta chết chắc rồi.”

Thalia nắm chặt lấy cây giáo. Cô ấy trong giống như đang tự giận mình một lần nữa. “Thế thì chúng ta sẽ chiến đấu đến chết.”

“Cao quý làm sao,” ngài D. nói, kìm một cái ngáp. “Vậy thì chính xác vấn đề là gì vậy?”

Tôi không cho rằng sẽ có gì khác, nhưng tôi nói với ông ấy về Ophiotaurus.

“Mmm.” Ông ấy nghiên cứu lục tìm các thứ trong tủ lạnh. “Thì ra là vậy. Ta hiểu rồi.”

“Ông thậm chí không thèm để tâm!” Tôi thét lên. “Ông nghĩ chúng tôi kiểu gì cũng chết chứ gì?”

“Xem nào. Ta nghĩ ta đang có hứng ăn pizza tối nay.”

Tôi muốn chém ngang qua chỗ cầu vồng và ngắt kết nối, nhưng tôi không có thời gian. Gã Manticore gào lên, “Đằng kia.” Và chúng tôi đã bị bao vây. Hai tên vệ sĩ đứng đằng sau hắn ta. Những nhóm đôi khác xuất hiện trên mái nhà cửa hàng ở bến tàu phía trên chúng tôi. Gã Manticore cởi áo khoác ra và tự biến đổi về hình hài thật, bộ vuốt sư tử chìa ra, chiếc đuôi với đám lông cứng tua tủa dựng đứng lên với những chiếc gai độc.

“Cừ lắm,” hắn nói. Hắn liếc nhìn hình ảnh hiện lên trong đám sương mù và hít một hơi. “Đơn độc, không có bất kỳ giúp đỡ thực sự nào. Tuyệt vời.”

“Cậu có thể cầu xin sự trợ giúp,” ngài D. thì thầm với tôi, như thể đây là điều gì vui thú lắm. “Cậu có thể nói làm ơn.”

Khi nào lợn lòi hoang biết bay, tôi nghĩ bụng. Không đời nào khi sắp chết tôi lại phải đi cầu xin một người bất lịch sự như ngài D, chỉ cần thế ông ta có thể cười khi tất cả chúng tôi bị bắn hạ.

Zõe đã chuẩn bị tên sẵn sàng. Grover đưa cây sáo của mình lên môi. Thalia nhấc tấm khiên lên và tôi nhận thấy nước mắt đang chảy dài trên má cô ấy. Đột nhiên tôi nhận ra rằng điều này từng xảy ra với cô ấy. Cô ấy từng bị bao vây ở Đồi Con Lai. Cô ấy sẵn sàng hy sinh sự sống của mình cho bạn bè. Nhưng lần này cô ấy không thể cứu được chúng tôi.

Làm sao tôi có thể để điều đó xảy ra với cô ấy?

“Làm ơn đi, ngài D,” tôi lẩm bẩm. “Xin hãy giúp chúng tôi.”

Tất nhiên, chẳng có chuyện gì xảy ra cả.

Gã Manticore cười toe toét. “Tha mạng cho con gái của Zeus. Cô ta sẽ gia nhập với chúng ta ngay thôi. Giết hết những người còn lại.”

Bọn chúng chĩa súng ra, và điều kỳ lạ đã xảy ra. Bạn có hiểu cái cảm giác khi tất cả máu đổ dồn về đầu của bạn, giống như nếu bạ treo lộn ngược và rồi quay sang bên phải quá nhanh không? Có cái gì đó đổ dồn như vậy khắp xung quanh tôi, và một âm thanh như một tiếng thở dài rất lớn. Ánh mặt trời nhuốm màu tím. Tôi ngửi thấy mùi nho và cái gì đó chua hơn – mùi của rượu vang.

TÁCH!

Đó là âm thanh của nhiều tâm trí vỡ ra cùng một lúc. m thanh của sự điên loạn. Một tên bảo vệ đưa khẩu súng lục vào giữa hàm răng của mình như thể nó là một khúc xương và chạy vòng vòng trên tất cả tứ chi. Hai người khác bỏ súng xuống và bắt đầu nhảy điệu vanxơ với nhau. Kẻ thứ tư đã bắt đầu là một việc trông giống như nhảy điệu nhảy gót chân người Ireland. Đáng lẽ quang cảnh trông sẽ khôi hài nếu mọi thứ không khủng khiếp đến vậy.

“Không!” Gã Manticore hét lên. “Tự ta sẽ đối phó với các ngươi.”

Đuôi của hắn dựng đứng lên, nhưng tấm ván dưới bàn chân hắn hóa thành cây nho và ngay lập tức bắt đầu quấn quanh cơ thể con quái vật, mọc lá mới và các chùm nho con xanh rồi chín trong vài giây khi gã nhân sư hét tướng lên, cho đến khi hắn bị nhấn chìm vào một khối lượng lớn dây leo, lá và các chùm nho tím. Cuối cùng cây nho ngừng rung, và tôi có cảm giác rằng ở trong kia, gã Manticore đã không còn nữa.

“Ừm,” ngài Dionysus đóng cửa tủ lạnh lại. “Điều này thật thú vị.”

Tôi nhìn chằm chằm ông ta, kinh hoàng. “Làm thế nào ngài có thể… Làm sao ngài…”

“Thật là biết cách bày tỏ lòng biết ơn,” ông ta lẩm bẩm. “Những người thường sẽ khôi phục lại và quên đi những việc đã xảy ra. Sẽ cần phải giải thích rất nhiều nếu ta để họ như thế mãi. Ta ghét phải viết báo cáo cho Cha.”

Ông ta nhìn chằm chằm Thalia với vẻ không bằng lòng. “Ta hy vọng cô đã học được bài học cho mình, cô gái ạ. Không dễ để kháng cự lại quyền lực, phải không?”

Thalia đỏ mặt như thể đang xấu hổ.

“Ngài D,” Grover nói trong kinh ngạc. “Ngài… Ngài đã cứu chúng tôi.”

“Mmm. Đừng làm ta thấy tiếc về điều đó nhé, thần rừng. Bây giờ hãy đi đi, Percy Jackson. Ta cho cậu cùng lắm là vài giờ.”

“Con Ophiotaurus,” tôi nói. “Ngài có thể đưa nó tới trại không?”

Ngài D phớt lờ, “Ta không vận chuyển thú nuôi. Đó là chuyện của cậu.”

“Nhưng chúng tôi phải đi đâu ? "

Dionysus nhìn Zõe. “Ồ, ta nghĩ cô Thợ Săn kia có câu trả lời đấy. Các người phải vào đó lúc hoàng hôn ngày hôm này, hoặc tất cả sẽ biến mất. Bây giờ thì tạm biệt. Món pizza đang chờ ta.”

“Ngài D,” tôi nói.

Ông ta rướn mày.

“Ngài đã gọi tôi bằng tên thật của tôi,” tôi nói. “Ngài gọi tôi là Percy Jackson.”

“Đâu có nhỉ, Peter Johnson. Bây giờ thì đi đi!”

Ngài D vẫy tay, và hình ảnh ông ta mất dần trong sương mù.

Xung quanh chúng tôi, tay sai của gã Manticore vẫn còn đang diễn trò dở hơi. Một trong số họ đã tìm thấy người bạn của chúng tôi, anh chàng vô gia cư, và họ đã có một cuộc trò chuyện nghiêm túc về thiên thần kim loại từ sao Hỏa. Một số vệ sĩ khác quấy rối khách du lịch, làm tiếng kêu giống động vật và cố ăn cắp giày của họ.

Tôi nhìn Zõe. “Ngài D có ý gì… cô có biết là phải đi đâu không?”

Khuôn mặt cô ấy giống màu của màn sương vậy. Zõe chỉ vào phí bên kia vịnh, qua cầu Cổng Vàng. Từ phía xa xăm, một ngọn núi duy nhất vươn lên trên những tầng mây.

“Khu vườn của các chị tôi,” cô ấy nói. “Tôi phải về nhà.”
Bình Luận (0)
Comment