Percy Jackson Tập 5: Vị Thần Cuối Cùng

Chương 16

Đây là định nghĩa của tôi về từ chẳng vui chút nào. Cưỡi một con pegasus về phía một chiếc trực thăng đang mất kiểm soát. Nếu Guido không phải là một tay bay quá giỏi, thì chúng tôi ắt đã bị băm nhỏ như các mảnh confetti.

Tôi có thể nghe thấy tiếng kêu thét của Rachel ở phía bên trong. Vì một vài lý do nào đó, cô ấy đã không buồn ngủ, nhưng tôi có thể nhìn thấy người phi công đổ ụp người lên trên bảng điều khiển, nảy người lên xuống khi chiếc trực thăng cạnh của một tòa nhà văn phòng.

“Có ý gì không?” tôi hỏi Annabeth.

“Cậu sẽ cưỡi Guido và ra khỏi đây,” cô ấy nói.

“Cậu sẽ làm gì?”

Để đáp lại, cô ấy nói, “Hyah!” và Guido đâm bổ xuống.

“Cúi xuống!” Annabeth hét lớn.

Chúng tôi bay ngang qua quá gần các cánh quạt đến nỗi tôi cảm thấy như lực phát ra từ các cánh quạt đang bứt hết cả mái tóc của tôi. Chúng tôi bay dọc theo một bên sườn máy bay và Annabeth nhoài người nắm lấy cánh cửa.

Đó là khi mọi thứ trở nên xấu đi.

Một bên cánh của Guido đập mạnh vào máy bay. Nó rơi thẳng xuống với tôi ở trên lưng, để Annabeth treo lơ lửng ở một bên sườn máy bay.

Tôi sợ hãi đến nỗi tôi hầu như không thể nghĩ được điều gì, nhưng khi Guido lao xuống theo hình xoắn ốc tôi thoáng nhìn thấy Rachel đang kéo Annabeth vào bên trong chiếc trực thăng.

“Bình tĩnh nào!” tôi hét lớn với con Guido.

Cánh của tôi, nó rên rỉ. Nó đã bị hỏng.

“Cậu làm được mà!” Tôi cố nhớ lại những gì Silena thường nói với chúng tôi trong các buổi học cưỡi ngựa pegasus. “Hãy thả lỏng cánh nào. Hãy duỗi nó ra và lướt đi.”

Chúng tôi rơi xuống như một hòn đá – xuống thẳng vỉa hè cách chúng tôi chín mươi mét phía bên dưới. Vào phút cuối, Guido đã duỗi hai cánh của mình ra. Tôi nhìn thấy các khuôn mặt của các nhân mã đang há hốc miệng nhìn chúng tôi. Rồi chúng tôi lấy lại được thăng bằng, lướt thêm một đoạn khoảng mười lăm mét và ngã nhào xuống trên vỉa hè – Pegasus phía trên á thần.

Ối! Guido rên rỉ. Chân tôi. Đầu tôi. Cánh của tôi.

Bác Chiron phi nhanh lại với túi thuốc và bắt đầu chữa trị cho c

Tôi đứng dậy. Khi tôi nhìn lên, tim tôi muốn nhảy khỏi lồng ngực. Chiếc trực thăng chỉ còn vài giây nữa thôi sẽ đâm vào cạnh của tòa nhà.

Thế rồi, như có phép lạ, máy bay tự rẽ sang phải. Nó quay một vòng rồi đứng im giữa không trung. Rồi rất chậm, nó bắt đầu hạ cánh.

Việc đó dường như kéo dài mãi mãi, nhưng cuối cùng chiếc trực thăng cũng đã đáp xuống giữa Đại lộ Năm. Tôi nhìn xuyên qua kính chắn gió phía trước và không thể tin vào những gì tôi đang nhìn thấy. Annabeth đang ngồi trước bảng điều khiển.

Tôi chạy nhanh về phía trước khi các cánh quạt quay chậm lại để ngừng hẳn. Rachel mở cánh cửa ở hông máy bay và kéo viên phi công ra khỏi đó.

Cô ấy vẫn mặc giống hệt như lúc cô ấy đang đi nghỉ với quần soóc ngắn, áo phông và xăng đan. Mái tóc cô ấy rối bù và khuôn mặt cô ấy xanh mét do chuyến bay kinh hoàng.

Annabeth leo ra sau cùng.

Tôi nhìn cô ấy đầy kính sợ. “Tớ không biết cậu có thể lái được máy bay trực thăng.”

“Tớ cũng thế thôi,” cô ấy nói. “Cha tớ quá say mê với hàng không. Ngoài ra Daedalus có một vài ghi chép về các loại máy biết bay. Tớ chỉ lấy ra các suy đoán tốt nhất của tớ dành cho việc bay. Thế là xong.”

“Cậu đã cứu mạng sống của tôi,” Rachel nói.

Annabeth xoay nhẹ bả vai bị thương của mình. “Được rồi, ừm... Đừng tạo thành thói quen là được. Cậu đang làm gì ở đây, Dare? Cậu không biết là không được bay vào vùng có chiến sự sao?”

“Tôi...” Rachel liếc nhìn tôi. “Tôi phải đến đây. Tôi biết Percy đang gặp rắc rối.”

“Tôi đã hiểu,”Annabeth càu nhàu. “Ừm, hai người cho phép tôi nhé, tôi có một vài người bạn bị thương mà tôi phải chăm sóc. Rất vui khi cậu có thể ghé qua, Rachel.”

“Annabeth...” tôi gọi lớn.

Cô ấy đùng đùng bỏ đ

Rachel ngồi tõm xuống trên lề đường và ôm lấy đầu mình. “Tớ xin lỗi, Percy. Tớ không định... Tớ luôn làm rối tung mọi thứ.”

Thật khó khi tranh cãi với cô ấy, thế nhưng tôi rất mừng khi thấy cô ấy an toàn. Tôi nhìn về hướng Annabeth đã bỏ đi nhưng cô ấy biến mất hoàn toàn trong đám đông. Tôi không thể tin vào những gì cô ấy vừa mới làm – cứu sống Rachel, đáp máy bay trực thăng an toàn, và bỏ đi như thể chuyện đó chẳng có gì to tát cả.

“Không sao đâu,” tôi nói với Rachel, mặc dầu những lời của tôi nghe thật giả dối. “Vậy thông điệp mà cậu muốn chuyển là gì?”

Cô ấy nhíu mày. “Sao cậu biết được điều đó?”

“Một giấc mơ.”

Rachel không hề ngạc nhiên. Cô ấy giật giật cái quần soóc ngắn của mình. Nó được phủ đầy các hình vẽ, điều đó cũng không có gì lạ với cô ấy, nhưng tôi nhận ra được những ký hiệu đó: những chữ cái Hy Lạp, các bức vẽ từ các hạt của trại, các hình vẽ phác thảo về các con quái vật và khuôn mặt của các vị thần. Tôi không hiểu làm thế nào Rachel có thể biết được một vài điều trong số đó. Cô ấy chưa bao giờ đến đỉnh Olympus hay Trại Con Lai.

“Tớ cũng đã nhìn thấy được rất nhiều thứ,” cô ấy thì thầm. “Ý tớ là không phải nhìn xuyên qua Màn Sương Mù. Lần này khác hẳn. Tớ đã đang vẽ các bức tranh, viết những dòng...”

“Bằng chữ Hy Lạp cổ,” tôi nói. “Cậu có biết chúng nói gì không?”

“Đó là những gì tớ muốn nói với cậu. Tớ đã hy vọng... ừm, nếu cậu đi nghỉ cùng với gia đình tớ, tớ hy vọng cậu có thể giúp tớ hiểu rõ điều gì đang xảy ra với tớ.”

Cô ấy nhìn tôi van nài. Da Rachel rám nắng vì đã ở biển trong vài ngày qua. Mũi cô đang lột da. Tôi vẫn chưa hết sốc khi cô ấy tự mình đến đây. Cô ấy đã buộc gia đình cắt ngắn kỳ nghỉ của họ, đồng ý theo học ở một ngôi trường đáng ghét, và bay trực thăng vào một trận chiến quái vật chỉ để gặp tôi. Với cách của chính mình, cô ấy cũng dũng cảm không kém gì so với Annabeth.

Nhưng sẽ xảy ra với cô ấy với những cảnh mộng đó thật sự khiến tôi sợ chết khiếp. Có thể đó là điều đã xảy ra với những người có khả năng nhìn qua Màn Sương Mù. Nhưng mẹ tôi chưa bao giờ nói bất cứ điều gì như thế. Và những lời của nữ thần Hestia về mẹ Luke lại vang lên trong đầu tôi: Bà May Castellan đã đi quá xa. Bà ấy đã cố nhìn thấy quá nhiều.

“Rachel,” tôi nói, “Tớ ước gì tớ biết. Có lẽ chúng ta nên hỏi bác Chiron...”

Cô ấy bé co rúm lại như bị điện giật. “Percy, có điều gì đó sắp xảy ra. Trò lừa bịp đó sẽ kết thúc trong cái chết.”

“Ý cậu là gì? Cái chết của ai cơ?”

“Tớ không biết.” Rachel nhìn quanh đầy sợ hãi. “Cậu không cảm thấy điều đó sao?”

“Đó có phải là thông điệp cậu muốn nói với tớ không?”

“Không phải.” Cô ấy ngập ngừng. “Tớ xin lỗi. Tớ nói những câu không đầu không đuôi như thế, nhưng ý nghĩ đó chợt đến trong đầu tớ. Thông điệp tớ đã viết trên bãi cát lại khác. Nó có cả tên cậu trong đó.”

“Perseus,” tôi nhớ lại. “Bằng chữ Hy Lạp cổ.”

Rachel gật đầu. “Tớ không biết ý nghĩa của nó là gì. Nhưng tớ biết là nó quan trọng. Cậu phải nghe nó. Nó nói: Perseus, ngươi không phải là người anh hùng.”

Tôi nhìn chằm chằm cô ấy như thể cô ấy vừa tát vào mặt tôi. “Cậu đã đi hàng ngàn dặm chỉ để nói với tớ rằng Tớ không phải là người anh hùng sao?”

“Điều đó rất quan trọng,” Rachel khăng khăng. “Nó sẽ tác động đến việc cậu làm.”

“Không phải người anh hùng của lời tiên tri?” tôi hỏi. “Không phải người anh hùng sẽ đánh bại Kronos sao? Ý cậu là sao?”

“Tớ... tớ xin lỗi, Percy. Đó là tất cả những gì tớ biết. Tớ phải nói với cậu vì...”

“Nào!” bác Chiron chậm rãi đi tới. “Đây ắt là cô Dare.

Tôi muốn hét lên bảo bác ấy đi chỗ khác, nhưng dĩ nhiên tôi đã không làm thế. Tôi cố kiểm soát cảm xúc của mình. Tôi cảm thấy như thể tôi có một cơn bão giận dữ khác đang xoáy tròn quanh tôi.

“Bác Chiron – đây là Rachel Dare,” tôi nói. “Rachel – đây là thầy giáo của tớ, bác Chiron.”

“Cháu chào bác,” Rachel rầu rĩ nói. Cô ấy trông chẳng ngạc nhiên chút nào khi nhìn thấy bác Chiron là một nhân mã.

“Cháu không ngủ, quý cô Dare,” bác ấy nhận ra. “Và cháu lại là con người nữa?”

“Cháu là con người,” cô ấy công nhận, như thể đó là một ý nghĩ thật phiền muộn vậy. “Chú phi công ngủ ngay khi máy bay bay ngang qua con sông. Cháu không hiểu sao cháu không ngủ. Cháu chỉ biết cháu phải đến đây, để cảnh báo cho Percy.”

“Cảnh báo Percy?”

Tôi đỡ lời. “Cô ấy nhìn thấy nhiều thứ. Viết những dòng chữ và vẽ các bức tranh.”

Bác Chiron nhướn mày. “Thật vậy sao? Kể cho bác nghe nào.”

Cô ấy kể cho bác ấy những điều mà cô ấy đã nói với tôi.

Bác Chiron vuốt râu. “Quý cô Dare này... có lẽ chúng ta nên nói chuyện.”

“Bác Chiron,” tôi buột miệng thốt ra. Tôi đột nhiên nhớ lại hình ảnh khủng khiếp ở Trại Con Lai vào những năm 1990, và tiếng thét của bà May Castellan phát ra từ căn gác xép đó. “Bác... bác sẽ giúp Rachel, đúng không? Ý cháu là, bác sẽ cảnh báo cô ấy rằng cô ấy phải thật cẩn thận với những chuyện như thế này. Không được đi quá xa.”

Đuôi bác ve vẩy như nó vẫn thường làm khi bác ấy lo lắng. “Đúng thế, Percy. Bác sẽ cố hết sức để tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra và đưa cho quý cô Dare đây những lời khuyên hữu ích, nhưng việc này sẽ phải mất một ít thời gian. Trong khi chờ đợi, cháu nên nghỉ ngơi đi. Chúng ta đã đưa xe của cha mẹ cháu đến nơi an toàn. Kẻ thù hiện dường như không có động tĩnh gì. Chúng ta đã lắp đặt các giường ngủ trong Tòa nhà Empire State. Hãy ngủ một lát

“Mọi người đều bảo cháu đi ngủ,” tôi càu nhàu. “Cháu không cần ngủ.”

Bác Chiron cố mỉm cười. “Gần đây cháu có nhìn lại chính mình chưa, Percy?”

Tôi liếc nhìn xuống áo quần tôi, hiện đều bị cháy xém, bị thiêu trụi, bị cắt và xé rách từ các cuộc chiến không ngớt vào đêm qua của tôi. “Cháu trông như xác chết vậy,” tôi thừa nhận. “Nhưng bác nghĩ là cháu có thể ngủ sau những gì đã xảy ra sao?”

“Cháu có thể không bị thương trong trận chiến,” bác Chiron quở trách tôi, “nhưng điều đó sẽ chỉ làm cho cơ thể cháu nhanh mệt mỏi hơn. Bác nhớ Achilles. Bất cứ khi nào chàng trai đó không chiến đấu, cậu ta đều ngủ. Cậu ta phải ngủ hai mươi lần một ngày. Cháu, Percy, cũng nên nghỉ ngơi đi. Cháu là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta.”

Tôi muốn than phiền rằng tôi không phải là hy vọng duy nhất của mọi người. Theo như Rachel, tôi thậm chí không phải là một anh hùng. Nhưng cái nhìn trong mắt bác Chiron thể hiện rõ một điều rằng bác ấy sẽ không muốn có câu trả lời “không” từ tôi.

“Chắc rồi,” tôi cằn nhằn. “Hai người cứ nói chuyện đi ạ.”

Tôi lê bước về phía Tòa nhà Empire State. Khi tôi ngoái đầu nhìn lại, Rachel và bác Chiron vừa đi vừa trò chuyện một cách nghiêm chỉnh, như thể họ đang thảo luận cho việc chuẩn bị lễ tang vậy.

Tôi tìm thấy một chiếc giường còn trống ở trong sảnh, chắc chắn rằng tôi sẽ không bao giờ có thể ngủ được. Một giây sau, hai mắt tôi nhắm tịt lại.

Trong các giấc mơ của tôi, tôi đã quay trở lại khu vườn của thần Hades. Vua của những người chết đang đi tới đi lui, đang lấy tay ôm chặt vào hai bên tai trong khi Nico lẽo đẽo theo sau ông ta, hai tay cậu ta vung vẩy lên xuống.

“Cha phải làm thế!” Nico cứ khăng khăng.

Nữ thần Demeter và nữ thần Persephone ngồi phía sau họ ở bàn ăn sáng. Cả hai nữ thần trông rất buồn chán. Nữ thần Demeter đổ ngũ cốc làm từ lúa mỳ nguyên chất vào bốn cái bát lớn. Nữ thần Persephone đang dùng phép thay đổi các kiểu cắm hoa ở trên bàn, biến các bông hoa đã nở màu đỏ sang màu vàng đến các hoa điểm màu lấm chấm.

“Ta không phải làm bất cứ điều gì!” Đôi mắt thần Hades rực sáng. “Ta là một vị thần!”

“Cha à,” Nico nói, “nếu đỉnh Olympus bị thất thủ, thì sự an toàn cho chính cung điện của cha cũng chẳng quan trọng nữa. Vì cha cũng sẽ dần biến mất.”

“Ta không phải là người thuộc đỉnh Olympus!” ông ta gầm gừ. “Gia đình ta đã thể hiện điều đó khá là rõ.”

“Cha thuộc về nơi đó,” Nico nói. “Dù cha có thích hay không thích.”

“Con đã thấy họ làm gì với mẹ con rồi đó,” thần Hades nói. “Zeus đã giết cô ấy. Và con muốn cha giúp họ sao? Họ hoàn toàn xứng đáng với những gì mà họ sẽ phải nhận!”

Nữ thần Persephone thở dài. Bà ấy dùng hai ngón tay bước đi về phía bên kia bàn, lơ đãng biến đồ dùng bằng bạc trở thành những bông hoa hồng. “Liệu chúng ta có thể làm ơn không nhắc đến người phụ nữ đó không?”

“Con biết điều gì sẽ giúp thằng bé này không?” Nữ thần Demeter đăm chiêu. “Làm ruộng.”

Nữ thần Persephone đảo mắt. “Mẹ...”

“Sáu tháng phía sau máy cày. Sẽ hình thành một tính cách tuyệt vời.”

Nico bước ra phía trước cha của cậu ta, buộc thần Hades phải đối mặt với cậu ta. “Mẹ con hiểu rất rõ về gia đình. Đó là lý do tại sao bà ấy đã không muốn để chúng con ra đi. Cha không thể từ bỏ gia đình mình chỉ vì họ đã làm điều gì xấu với cha. Cha cũng đã làm nhiều điều xấu đối với họ.”

“Maria đã chết!” thần Hades nhắc cậu ta.

“Nhưng cha không thể tự tách chính mình ra khỏi các vị thần khác!”

“Ta đã làm rất rõ điều đó trong hàng ngàn năm nay rồi.”

“Và điều đó có làm cha cảm thấy tốt hơn chút nào không?” Nico nhấn mạnh. “Rốt cuộc lời nguyền với Oracle đó có giúp được gì cho cha không? ệc giữ mãi hận thù là một sai lầm chí tử. Chị Bianca đã cảnh báo con về điều đó và chị ấy đã đúng.”

“Với các á thần thì đúng thế! Ta là người bất tử, có mọi quyền lực! Ta sẽ không giúp các vị thần khác nếu họ có cầu xin ta, nếu Percy Jackson có tự mình đến cầu xin...”

“Cha cũng chỉ là một người bị ruồng bỏ giống như con mà thôi!” Nico hét lớn. “Cha hãy ngừng việc giận dữ vì chuyện đã qua và hãy làm điều gì đó có ích dù chỉ một lần. Đó là cách duy nhất họ sẽ tôn trọng cha!”

Một ngọn lửa màu đen xuất hiện trong lòng bàn tay thần Hades.

“Cha cứ làm đi,” Nico nói. “Làm cho con nổ tung đi. Đó chẳng phải là những gì mà các vị thần khác mong đợi từ cha sao. Hãy chứng minh là họ đã đúng đi.”

“Đúng thế, làm ơn đi,” nữ thần Demeter than phiền. “Hãy làm cho nó im miệng đi.”

Nữ thần Persephone thở dài. “Ồ, em không biết. Em thà tham gia vào cuộc chiến còn hơn là cứ ngồi đây ăn hết bát ngũ cốc này đến bát ngũ cốc khác. Điều này thật buồn chán.”

Thần Hades gầm lên đầy giận dữ. Quả cầu lửa từ tay ông ta phóng thẳng đến cái cây bằng bạc ở ngay bên cạnh Nico, làm nó tan chảy thành vũng kim loại lỏng.

Và giấc mơ của tôi lại thay đổi.

Tôi đang đứng bên ngoài trụ sở Liên Hiệp quốc, cách Tòa nhà Empire State một dặm về phía đông bắc. Đội quân thần Titan đã cắm trại bao quanh khu liên hợp của tổ chức quốc tế này. Các cột cờ được treo các chiến lợi phẩm khủng khiếp – những chiếc mũ sắt và các mảnh áo giáp của các trại viên bị đánh bại. Dọc theo Đại lộ Một, các tên khổng lồ mài sắc các lưỡi rìu của chúng. Các con telkhine sửa sang lại vũ khí tại các lò rèn tạm thời.

Kronos đi tới đi lui ở đỉnh của tòa nhà, lưỡi hái vung vẩy trong tay khiến những tên vệ sĩ dracaenae tránh xa khỏi đường đi của hắn. Ethan Nakamura và Prometheus đứng gần đó, nhưng ngoài tầm vung vẩy của lưỡi hái. Ethan đang mân mê các dây đeo khiên còn riêng Prometheus vẫn bình thản và điềm tĩnh trong bộ tuxedo như mọi khi.

“Ta ghét nơi này,” Kronos cau có. “Liên Hiệp Quốc. Như thể loài người luôn đoàn kết với nhau ấy. Hãy nhắc ta kéo sập tòa nhà này sau khi chúng ta tiêu diệt hoàn toàn đỉnh Olympus.”

“Vâng, thưa ngài.” Prometheus mỉm cười như thể sự tức giận của ông chủ gã khiến gã cảm thấy thích thú. “Liệu chúng ta có phá luôn các chuồng ngựa trong Central Park không? Tôi biết ngài cảm thấy khó chịu như thế nào với loài ngựa mà.”

“Dẹp ngay trò nói kháy ấy đi, Prometheus! Cái lũ nhân mã đáng nguyền rủa đó sẽ cảm thấy hối tiếc vì chúng dám chọc gậy bánh xe. Ta sẽ quăng chúng làm mồi cho lũ chó ngao địa ngục, bắt đầu với thằng con trai đó của ta – cái thằng Chiron yếu đuối đó.”

Prometheus nhún vai. “Cái tên yếu đuối đó đã tiêu diệt toàn bộ đoàn quân telkhine với các mũi tên của cậu ta đấy.”

Kronos vung lưỡi hái và phạt ngang một cột cờ gần đó. Quốc kỳ Brazil đầy màu sắc đổ ụp xuống đám quân bên dưới, đè bẹp một con dracaenae.

“Chúng ta sẽ tiêu diệt chúng!” Kronos rống lên. “Giờ là lúc thả drakon ra. Nakamura – mày sẽ làm điều đó.”

“Vâ... âng, thưa ngài. Vào lúc mặt trời lặn ạ?”

“Không,” Kronos nói. “Ngay bây giờ. Bọn bảo vệ Olympus hiện đều bị thương nặng. Chúng sẽ không nghĩ ta sẽ lại tấn công nhanh chóng như thế này. Ngoài ra, chúng ta đều biết rằng chúng sẽ không thể nào đánh bại được con rồng này.”

Ethan trông khá bối rối. “Nhưng thưa ngài?”

“Không phải chuyện của ngươi, Nakamura. Cứ làm theo lệnh của ta. Ta muốn Olympus ở trong tình trạng đổ nát khi Typhon đến được New York. Ta sẽ đập tan toàn bộ lũ thần đó!”

“Nhưng, thưa ngài,” Ethan nói. “Sự tái sinh của ngài.”

Kronos chỉ tay về phía Ethan và cậu á thần đó đông cứng lại.

“Trông ta,” Kronos rít lên, “giống như cần tái sinh lắm sao?”

Ethan không đáp. Thật khó để đáp lại khi bạn bị làm cho bất động về

Kronos búng ngón tay và Ethan ngã quy .

“Nhanh thôi,” vị thần Titan gầm gừ, “cơ thể này sẽ không còn cần thiết nữa. Ta sẽ không nghỉ ngơi khi chiến thắng đã gần kề. Giờ thì đi đi!”

Ethan luống cuống chạy đi.

“Điều đó thật nguy hiểm, thưa ngài,” Prometheus cảnh báo. “Không nên vội vàng.”

“Vội vàng ư? Sau ba ngàn năm thối rữa dưới đáy vực thẳm Tartarus, ngươi bảo ta vội vàng sao? Ta sẽ chém cái thằng oắt con Percy Jackson đó ra thành hàng ngàn mảnh.”

“Ngài đã đánh với thằng nhóc đó ba lần rồi,” Prometheus chỉ rõ. “Và ngài còn luôn nói rằng đánh nhau với con người là không xứng đáng với phẩm cách một Titan. Tôi tự hỏi liệu vật chủ con người của ngài có đang ảnh hưởng và làm yếu đi sự phán đoán của ngài không.”

Kronos quay đôi mắt vàng vào Prometheus. “Ngươi gọi ta là kẻ yếu ớt ư?”

“Không, thưa ngài. Tôi chỉ muốn nói...”

“Phải chăng lòng trung thành của ngươi đang bị chia cắt?” Kronos hỏi. “Có lẽ ngươi đang nhớ những người bạn cũ, các thần. Ngươi có muốn gia nhập với bọn chúng không?”

Prometheus tái mặt. “Tôi trót lỡ lời, thưa ngài. Mệnh lệnh của ngài sẽ được thực hiện ngay.” Gã ta quay về phía các đội quân phía dưới và hét lớn: “SẴN SÀNG CHIẾN Đ́U!”

Cả đội quân reo hò đầy kích động.

Ở đâu đó phía sau khu liên hợp của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, một tiếng gầm giận dữ làm rung chuyển cả thành phố – âm thanh thức dậy của một con drakon. m thanh đó khủng khiếp đến nỗi làm tôi giật mình tỉnh giấc, và tôi nhận ra mình vẫn có thể nghe thấy nó dù ở cách nơi đó đến hai dặm.

Grover đứng kế bên tôi, trông khá sợ hãi. “Đó là gì thế?”

“Chúng đang đến,” tôi nói với cậu ấy. “Và chúng ta đang gặp rắc rối.

Nhà thần Hephaestus hết sạch lửa Hy Lạp. Nhà thần Apollo và các Thợ Săn đang tìm kiếm thêm các mũi tên. Hầu hết bọn tôi đều đã ăn bánh thánh và uống rượu thần quá nhiều đến nỗi không ai trong chúng tôi dám ăn hay uống thêm chút nào nữa.

Chúng tôi chỉ có mười sáu trại viên, mười lăm Thợ Săn và một nửa tá các thần rừng còn lại có thể tiếp tục chiến đấu. Số còn lại phải tạm lánh trên đỉnh Olympus. Đội quân Ngựa Pony Thích Tiệc Tùng cố chấn chỉnh lại đội ngũ, nhưng họ lảo đảo và cười khúc khích và tất cả họ đều có mùi bia xá xị. Các nhân mã ở Texas cụng đầu các nhân mã đến từ Colorado. Chi hội Missouri đang tranh cãi với Chi hội Illinois. Có khả năng là toàn bộ đội quân nhân mã sẽ kết thúc với việc đánh lẫn nhau thay vì đánh với kẻ thù.

Bác Chiron đi nước kiệu đến với Rachel ở trên lưng. Tôi cảm thấy một sự cắn rứt phiền muộn, vì bác Chiron hiếm khi cho bất cứ ai cưỡi trên lưng bác ấy, và với con người thì không bao giờ.

“Bạn cháu đây có một vài hiểu biết thật hữu ích, Percy,” bác ấy nói.

Rachel đỏ mặt. “Chỉ là một vài điều cháu đã thấy được trong đầu mà thôi.”

“Một con drakon,” bác Chiron nói. “Chính xác hơn là con drakon Lydian. Là loài cổ xưa nhất và nguy hiểm nhất.”

Tôi nhìn chằm chằm vào cô ấy. “Sao cậu biết điều đó?”

“Tớ không biết,” Rachel thừa nhận. “Nhưng con drakon này có số mệnh thật đặc biệt. Nó phải được giết bởi một người con của thần Ares.”

Annabeth khoanh tay. “Sao cậu có thể biết được điều đó?”

“Tôi chỉ nhìn thấy điều đó. Tôi không thể giải thích.”

“Ừm, hãy hy vọng là cậu sai,” tôi nói. “Vì chúng ta thiếu các con của thần Ares...” Một ý nghĩ khủng khiếp xuất hiện trong đầu tôi, và tôi nguyền rủa bằng tiếng Hy Lạp cổ.

“Gì thế?” Annabeth hỏi.

“Gián điệp,” tôi nói với cô ấy. “Kronos đã nói, chúng ta biết chúng sẽ không thể nào đánh bại được con drakon này’. Tên gián điệp vẫn đang tiếp tục thông tin cho hắn. Kronos biết nhà thần Ares không ở đây với chúng ta. Hắn ta cố tình chọn một con quái vật mà chúng ta không thể giết.”

Thalia quắc mắt. “Nếu tên phản bội ấy rơi phải tay tớ, hắn sẽ phải cực kỳ hối hận. Hay chúng ta cử thêm người đưa tin về trại...”

“Bác đã làm điều đó,” bác Chiron ngắt lời. “Blackjack đang trên đường đi đến đó. Nhưng nếu Silena không thể thuyết phục được Clarisse, thì bác không biết liệu Blackjack có thể...”

Một tiếng gầm vang lên làm cả mặt đất rung chuyển. Nó nghe rất gần.

“Rachel,” tôi nói, “đi vào bên trong tòa nhà đi.”

“Tớ muốn ở lại.”

Một bóng đen che kín cả mặt trời. Phía bên kia đường, con drakon trượt xuống từ một bên cạnh của một tòa nhà cao chọc trời. Nó gầm lên và một ngàn cánh cửa sổ bị vỡ tan.

“Tớ nghĩ lại,” Rachel nói lý nhí, “tớ sẽ vào bên trong.”

Hãy để tôi giải thích: có những con được gọi là rồng, và rồi cũng có những con được gọi là drakon.

Drakon già hơn loài rồng một vài thiên niên kỷ, và to lớn hơn rất nhiều. Nó trông giống loài rắn khổng lồ. Phần lớn không có cánh. Phần lớn trong số chúng không phun lửa (mặc dầu có một vài con lại có thể làm điều đó). Tất cả đều có nọc độc. Tất cả đều vô cùng mạnh, với những chiếc vảy còn cứng hơn cả titan. Đôi mắt chúng có thể khiến bạn bị tê liệt – không phải kiểu tê liệt của Medusa biến-bạn-thành-đá, mà là kiểu tê liệt ôi-thánh-thần-tôi-ơi-con-rắn-bự-đó-sắp-ăn-tôi, điều đó cũng thật là tệ.

Chúng tôi có các lớp học chiến đấu với drakon khi còn ở trại, nhưng bạn chẳng thể nào chuẩn bị cho chính mình khi đối đầu với một con rắn dài sáu mươi mét và có cơ thể to như một chiếc xe buýt trường học đang trượt xuống cạnh của một tòa nhà. Đôi mắt vàng của nó giống như hai chiếc đèn pha và cái miệng nó đầy những chiếc răng sắc như dao cạo đủ to để nhai ngấu nghiến các con vo

Nó làm tôi thoáng nhớ đến con lợn bay.

Trong lúc đó, đội quân đối phương rầm rập tiến xuống Đại lộ Năm. Chúng tôi đã cố hết sức để đẩy các chiếc xe ra khỏi lối đi, để giữ cho con người được an toàn, nhưng điều đó hiện giúp cho kẻ thù của chúng tôi dễ dàng tiến gần hơn. Đội quân Ngựa Pony Thích Tiệc Tùng phe phẩy đuôi đầy lo lắng. Bác Chiron chạy tới chạy lui lên các hàng nhân mã, hét lên những lời khích lệ họ hãy chống cự mạnh mẽ và nghĩ về chiến thắng cùng bia xá xị, nhưng tôi đoán bất cứ giây phút nào họ đều có thể sẽ sợ hãi và bỏ chạy.

“Tớ sẽ lo vụ con drakon.” Giọng tôi vang lên đầy sợ hãi. Rồi tôi hét lớn hơn nữa. “TỚ SẼ LO VỤ CON DRAKON! Những người khác, giữ vững hàng ngũ chống lại kẻ thù!”

Annabeth đứng cạnh tôi. Cô ấy đã kéo mũ sắt hình con cú xuống thấp hơn che phủ cả mặt cô ấy, nhưng tôi có thể nói là đôi mắt cô ấy ửng đỏ.

“Cậu giúp tớ nhé?” tôi đề nghị.

“Đó là những gì tớ sẽ làm,” cô ấy nói đầy đau khổ. “Tớ luôn giúp những người bạn của mình mà.”

Tôi cảm giác như tôi là một thằng cực kỳ ngốc. Tôi muốn kéo cô ấy sang một bên và giải thích với cô ấy rằng tôi không liên quan gì đến việc Rachel đến đây, rằng đó không phải là ý của tôi, nhưng chúng tôi không có nhiều thời gian.

“Cậu hãy tàng hình,” tôi nói. “Cậu hãy tìm các điểm yếu ở lớp vảy của nó trong khi tớ đánh lạc hướng nó. Nhớ cẩn thận nhé.”

Tôi huýt sáo. “O’Leary, đi nào!”

“GU GU!” Con chó của tôi nhảy qua phía trên một hàng nhân mã và trao cho tôi cái hôn ướt át, đầy mùi bánh pizza pepperoni.

Tôi rút kiếm ra và chúng tôi lao về phía con quái vật.

Con drakon như một tòa nhà ba tầng ở phía trên chúng tôi, đang trườn sang một bên dọc theo tòa nhà như thể nó đang đánh giá quân chúng tôi. Mỗi khi nó nhìn, các nhân mã đều cứng người vì sợ hãi

Từ phía bắc, đội quân kẻ thù đã tràn vào bên trong đội quân Ngựa Pony Thích Tiệc Tùng và các hàng rào phòng vệ của chúng tôi bị phá vỡ. Con drakon lao vọt tới, nuốt trọn ba nhân mã của California trước khi tôi thậm chí có thể tiến đến gần hơn.

Con O’Leary phóng lên giữa không trung – một bóng đen màu đen với hàm răng và móng vuốt gây chết người. Bình thường, một con chó ngao địa ngục đang tấn công là một hình ảnh cực kỳ đáng sợ, nhưng khi ở bên cạnh con drakon, con O’Leary trông giống như búp bê chúc ngủ ngon của một đứa trẻ.

Những chiếc móng của nó cào trên lớp vảy của con drakon, nhưng hoàn toàn vô hại. Nó cắn cổ con quái vật nhưng cũng chẳng để lại lấy một vết lõm. Tuy nhiên, sức nặng của nó đủ húc con drakon đó văng ra khỏi cạnh của tòa nhà. Nó vụng về rơi xuống và đâm sầm xuống vỉa hè – con chó ngao địa ngục và con rắn quấn lấy và đánh lẫn nhau. Con drakon cố đớp lấy con O’Leary nhưng nó ở quá gần với miệng con rắn. Chất độc được phun ra khắp nơi, khiến một vài nhân mã cũng như một vài con quái vật tan chảy thành bụi, nhưng con O’Leary nhảy quanh đầu con rắn, vừa cào vừa cắn nó.

“YAAAH!” Tôi đâm thanh Thủy Triều vào sâu trong con mắt trái con quái vật. Ngọn đèn pha tắt ngúm. Con drakon rít lên và lùi lại để tấn công, nhưng tôi đã kịp lăn sang một bên.

Nó ngoạm một mảnh vỉa hè có kích thước của một cái hồ bơi. Nó quay về phía tôi với con mắt còn lành nhưng tôi chỉ tập trung nhìn vào hàm răng của nó, làm thế tôi mới không bị nó làm cho tê liệt. Con O’Leary đã làm tốt công việc khiến cho con quái vật đó bị xao lãng. Nó nhảy lên đầu con rắn, cào và gầm lên như một mái tóc giả đen cực kỳ giận dữ.

Phần còn lại của cuộc chiến cũng không diễn ra tốt đẹp. Các nhân mã hoảng sợ trước sự tấn công dữ dội của các tên khổng lồ và ma quỷ. Thỉnh thoảng lại có một chiếc áo phông màu cam của trại xuất hiện trong cuộc chiến, nhưng rồi lại nhanh chóng biến mất. Các mũi tên kêu xé tai trong không khí. Lửa liên tục bùng lên ở cả hai bên chiến tuyến, nhưng trận đánh đang di chuyển ngang qua con đường tiến đến lối vào Tòa nhà Empire State. Chúng tôi đang mất dần mặt trận.

Đột nhiên Annabeth trở lại nguyên hình trên lưng con drakon. Mũ tàng hình tuột khỏi đầu khi cô ấy đâm con dao đồng của mình vào khe hở giữa các lớp vảy

Con drakon gầm lên. Nó bắt đầu cuộn người lại, hất Annabeth rơi xuống khỏi người nó.

Tôi chạy đến ngay khi cô ấy vừa chạm đất. Tôi kéo cô ấy ra khỏi khi con rắn cuộn người lại, nghiến nát một cái cột đèn ngay nơi cô ấy vừa mới ở.

“Cảm ơn,” cô ấy nói.

“Tớ đã bảo cậu phải cẩn thận kia mà!”

“Ừm, được rồi... CÚI XUỐNG!”

Đến lượt cô ấy cứu tôi. Cô ấy túm lấy tôi khi hàm răng con quái vật táp một phát phía trên đầu tôi. Con O’Leary lao cả người vào mặt con drakon để thu hút sự chú ý của nó và hai chúng tôi lăn ra xa.

Trong lúc đó, phe chúng tôi đã rút về các cửa của Tòa nhà Empire State. Toàn bộ quân địch đang bao vây lấy họ.

Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Không có một ai đến giúp đỡ. Annabeth và tôi sẽ phải rút lui trước khi chúng tôi bị cắt đứt với đỉnh Olympus.

Rồi tôi nghe thấy âm thanh ầm ầm ở phía nam vọng đến. Đó không phải âm thanh bạn thường nghe ở New York, nhưng tôi đã nhận ra nó ngay lập tức: tiếng bánh xe ngựa.

Một cô gái hét lớn, “VÌ TH̀N ARES!”

Mười hai cỗ xe ngựa xông thẳng vào giữa chiến trường. Mỗi xe đều cắm một lá cờ đỏ thêu hình đầu lợn rừng hoang dã. Mỗi xe đều sử dụng một nhóm ngựa xương với những bờm lửa làm vật kéo xe. Một đội gồm ba mươi chiến binh đầy sức sống, áo giáp sáng bóng và ánh mắt đầy căm thù, cùng lúc chĩa các cây giáo trong tay họ xuống – tạo thành một bức tường tử thần tua tủa.

“Những đứa con của thần Ares!” Annabeth nói với sự ngạc nhiên. “Sao Rachel lại biết được?”

Tôi không có câu trả lời. Nhưng dẫn đầu là cô gái trong bộ áo giáp đỏ quen thuộc, khuôn mặt cô ta được che phủ bởi chiếc mũ sắt hình đầu lợn rừng. Cô ta giương cao một cây giáo với các tia điện kêu tanh tách. Clarisse đích thân đến giải cứu. Trong lúc nửa số xe ngựa tấn công đội quân quái vật, Clarisse dẫnu xe khác đi thẳng đến chỗ con drakon.

Con rắn chồm lên và hất con O’Leary xuống khỏi người nó. Cô chó cưng tội nghiệp của tôi đánh mạnh vào một bên của tòa nhà với tiếng kêu ăng ẳng đầy đau đớn. Tôi chạy lại giúp nó, nhưng con rắn đã tập trung vào một đe dọa mới. Dù chỉ còn một mắt, cái nhìn của nó cũng đủ khiến hai người đánh xe ngựa phải tê liệt. Hai chiếc xe chuyển hướng đâm sầm vào một dãy xe hơi. Bốn chiếc còn lại vẫn tiếp tục phóng đến. Con quái vật nhe nanh ra để tấn công và có được một miệng đầy giáo bằng đồng celestial.

“XIIIIIIIÌ!” nó rít lên, chắc chắn theo ngôn ngữ của con drakon là ỐIIIIII!

“Các anh em nhà thần Ares, hãy theo tôi!” Clarisse hét lớn. Giọng cô ta nghe the thé hơn bình thường, nhưng tôi đoán điều đó cũng chẳng có gì khi ngạc nhiên dựa vào mục tiêu mà cô ta đang chiến đấu.

Bên kia đường, sự xuất hiện của sáu cỗ chiến xa mang đến cho đội quân Ngựa Pony Thích Tiệc Tùng niềm hy vọng mới. Họ tập hợp lại ở các cửa của Tòa nhà Empire State, và đội quân kẻ thù ngay lập tức bị quật ngã trong hoang mang.

Trong lúc đó, các chiến xa của do Clarisse dẫn đầu vây quanh con drakon. Các cây giáo gãy khi vừa chạm vào da con quái vật. Những con ngựa xương phun lửa và hí vang. Thêm hai chiến xa nữa lật nhào, nhưng các chiến binh trên xe chỉ đơn giản nhảy lên, rút kiếm ra, và chiến đấu. Họ chém mạnh vào các khe nứt giữa các miếng vảy của con vật. Họ né tránh những lần phun chất độc của con rắn như thể họ đã được huấn luyện điều này trong suốt cuộc đời họ, và điều đó là một điều tất yếu.

Không ai có thể nghi ngờ về lòng dũng cảm của các trại viên nhà thần Ares. Clarisse luôn ở ngay phía trước, đâm cây giáo của cô ta vào mặt con drakon, cố để đâm nốt mắt còn lại của nó. Nhưng khi tôi quan sát, mọi việc trở nên xấu đi. Chỉ một cú đớp, con drakon vươn cổ nuốt gọn một trại viên nhà thần Ares. Nó quật văng sang một bên người thứ hai và phun nọc độc vào nạn nhân thứ ba, người đang rút lui trong đau đớn, áo giáp của cậu ta đang tan chảy.

“Chúng ta phải giúp họ một tay,” Annabeth nói.

Cô ấy nói đúng. Nãy giờ, tôi chỉ biết đứng đó trầm trồ thán phục. Con O’Leary cố đứng dậy nhưng lại kêu ăng ẳng lần nữa. Một trong các bàn chân của nó đang chảy máu.

“Lùi lại, bé yêu,” tôi bảo nó. “Mày đã làm đủ rồi.”

Annabeth và tôi nhảy lên lưng con quái vật và chạy thẳng lên đầu nó, cố kéo sự chú ý của nó khỏi Clarisse.

Các anh em nhà cô ấy ném lao, hầu hết đều bị gãy, nhưng có một vài cây nằm ở trong răng của con quái vật. Nó đớp đớp hai hàm của nó vào với nhau cho đến khi miệng của nó là một đống máu xanh lục, bọt chất độc màu vàng và các vũ khí đã bị nhai vụn.

“Cậu có thể làm điều đó!” Tôi hét về phía Clarisse. “Một người con của thần Ares có số mệnh giết được nó!”

Qua chiếc mũ sắt chiến trận, tôi chỉ có thể nhìn thấy được đôi mắt của cô ta – nhưng tôi có thể nói có điều gì đó sai lầm ở đây. Đôi mắt màu xanh dương của cô ta đầy ắp sự sợ hãi. Clarisse chưa bao giờ sợ quá như thế. Và mắt cô ta không có màu xanh dương.

“VÌ TH̀N ARES!” cô ta hét lên, bằng cái giọng the thé kỳ lạ đó. Cô ta chĩa thẳng cây giáo và tấn công con drakon.

“Không,” tôi thì thào. “ĐỢI ĐÃ!”

Nhưng con quái vật đã nhìn xuống cô ta – hầu như với sự khinh miệt – và phun chất độc vào thẳng mặt cô ta.

Cô ta kêu thét lên và rơi xuống.

“Clarisse!” Annabeth nhảy xuống khỏi lưng con quái vật và chạy đến giúp cô ta trong khi các trại viên nhà thần Ares khác cố bảo vệ cho người đứng đầu nhà của họ. Tôi đâm mạnh thanh Thủy Triều vào giữa hai lớp vảy của con quái vật và khiến nó chuyển sự chú ý của nó về phía tôi.

Tôi bị nó ném bay khỏi người nó, nhưng tôi đã đáp xuống được trên đôi chân của mình. “NÀO, ĐẾN ĐY, con sâu ngu ngốc kia! Nhìn tao này!”

Trong một vài phút tiếp theo, tất cả những gì tôi nhìn thấy đều là răng. Tôi lùi lại, cúi người tránh đi chất độc, nhưng tôi không thể làm đau nó.

Ở rìa tầm nhìn, tôi nhìn thấy một cỗ xe bay đáp xuống Đại lộ Năm.

Rồi một người nào đó chạy về phía chúng tôi. Giọng của một cô gái, run rẩy với sự đau buồn, hét lớn, “KHÔNG! Nguyền rủa cậu, TẠI SAO?”

Tôi liều mạng liếc nhanh về phía đó, nhưng những gì nhìn thấy khiến tôi chẳng hiểu gì. Clarisse đang nằm trên mặt đất nơi cô ta ngã xuống. Áo giáp của cô ta bốc khói vì chất độc. Annabeth và các trại viên nhà thần Ares đang cố để cởi mũ sắt của cô ta ra. Và đang quỳ bên cạnh họ, khuôn mặt đầm đìa nước mắt, là một cô gái trong trang phục của trại. Đó là... Clarisse.

Đầu tôi quay mòng mòng. Sao tôi lại không nhận ra điều đó trước nhỉ? Cô gái trong bộ áo giáp của Clarisse mảnh mai hơn, lại không cao bằng. Nhưng sao lại có người muốn giả làm Clarisse cơ chứ?

Tôi quá sững sờ đến nỗi con drakon gần như đớp tôi thành hai khúc. Tôi cúi người và con quái vật đó vùi đầu nó vào trong một bức tường gạch.

“TẠI SAO?” Clarisse thật gặng hỏi, ôm chầm lấy Clarisse giả mạo trong tay, trong khi các trại viên khác cố gắng tháo chiếc mũ sắt đã bị chất độc ăn mòn.

Chris Rodriguez chạy bay đến từ cỗ xe bay. Cậu ta và Clarisse dùng nó đi từ trại, đuổi theo các trại viên nhà thần Ares, những người đã lầm khi đi theo một cô gái khác, vì nghĩ rằng đó là Clarisse. Nhưng chuyện này vẫn thật khó hiểu.

Con drakon rút được đầu ra khỏi bức tường và gầm lên đầy giận dữ.

“Coi chừng!” Chris cảnh báo.

Thay vì quay sang tôi, con drakon quay ngoắt sang hướng có tiếng Chris. Nó nhe nanh với một nhóm các á thần.

Clarisse thật ngước nhìn về phía con drakon. Khuôn mặt cô ta hoàn toàn chứa đựng sự căm thù. Tôi đã nhìn thấy cái nhìn dữ dội đó một lần trước đây. Cha cô ta, thần Ares cũng đã có nét mặt như thế khi tôi một chọi một với ông ta.

“MÀY MUỐN CHẾT?” Clarisse gào vào mặt con drakon. “ĐƯỢC THÔI, ĐẾN ĐY NÀO!”

Cô ta cầm lấy cây giáo của mình từ cô gái đang bị thương. Chẳng cần áo giáp hay khiên bảo vệ, cô ta lao đến tấn công

Tôi cố đến gần hơn để giúp, nhưng Clarisse nhanh hơn nhiều. Cô ta nhảy sang một bên khi con quái vật tấn công, đập tan mặt đường phía trước cô ta. Rồi cô ta nhảy lên đầu con quái vật. Khi nó vươn đầu lên, cô ta đã đâm mạnh cây giáo điện của mình vào bên trong con mắt lành lặn còn lại của nó với lực đủ mạnh làm cho cán giáo bị gãy, giải phóng toàn bộ sức mạnh ma thuật của vũ khí.

Một dòng điện tỏa ra khắp đầu con quái vật, khiến cả cơ thể nó run rẩy. Clarisse nhảy xuống, lăn tròn đầy an toàn đến cạnh vỉa hè khi khói bốc ra từ miệng con drakon. Thịt của con drakon tan biến đi, và những gì còn sót lại của nó là một đường hầm vảy trống rỗng.

Tất cả chúng tôi đều nhìn chằm chằm vào Clarisse với sự kính sợ. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ ai một mình hạ gục một con quái vật khổng lồ như thế. Nhưng Clarisse dường như không quan tâm đến điều đó. Cô ta chạy đến bên cô gái bị thương đã trộm bộ áo giáp của mình.

Cuối cùng, Annabeth cũng đã gỡ được chiếc nón sắt của cô gái ra. Tất cả chúng tôi đều tụ tập quanh cô ta – các trại viên nhà thần Ares, Chris, Clarisse, Annabeth và tôi. Trận chiến vẫn diễn ra ác liệt dọc theo Đại lộ Năm, nhưng trong khoảnh khắc ấy không có gì tồn tại ngoài một nhóm nhỏ chúng tôi và cô gái đang bị thương ấy.

Khuôn mặt của cô ấy, đã từng rất xinh đẹp, giờ bị đốt cháy trầm trọng bởi chất độc. Tôi có thể nói rằng dù có tốn bao nhiêu rượu thần hay bánh thánh đi nữa cũng sẽ không thể cứu được cô ấy.

Có điều gì đó sắp xảy ra. Những lời nói của Rachel vang lên trong tai tôi. Trò lừa bịp đó sẽ kết thúc trong cái chết.

Giờ tôi đã hiểu những gì cô ấy muốn nói, và tôi biết người anh hùng đã dẫn nhà thần Ares đến trận chiến.

Tôi nhìn xuống vào khuôn mặt đang lụi tàn của Silena Beauregard.
Bình Luận (0)
Comment