Phúc Vũ Phiên Vân

Chương 40



Tiếng động khi truyền đến tai của Lãng Phiên Vân chỉ còn vô cùng yếu ớt, nhưng chàng vẫn nhận ra đó là tiếng va chạm giữa hai loại binh khí vọng đến từ bờ nam trống không của đảo. Nếu không phải chàng đang đứng nơi kín gió, cho dù đôi tai có nhạy cảm đến đâu cũng không thể nghe thấy âm thanh thoang thoảng ấy trong những tiếng ầm ầm của sóng vỗ bờ.



Lãng Phiên Vân giật mình, bờ nam Nộ Giao đảo địa thế hiểm trở, chỉ có một vọng lâu quan sát thủy triều. Không biết là ai đã đột nhập lên đảo, ra tay với người của mình mà không để phát ra báo động?



Tiếng giao chiến nhanh chóng lặng đi. Lãng Phiên Vân biết có chuyện chẳng lành, tung người lên, lao vút về phía bờ nam.



Chẳng mấy chốc chàng đã đến nơi, một vọng lâu cao chừng ba trượng đơn độc lặng im, không thấy động tĩnh gì, bốn bề cũng không phát giác thấy bất kỳ âm thanh nào.



Lãng Phiên Vân vận khí nhảy lên, hệt như một con chim đáp nhẹ nhàng xuống vọng lâu. Cảnh tượng đập vào mắt khiến trái tim từ lâu vốn tĩnh lặng của chàng cũng bất giác nổi giận lôi đình. Truyện "Phúc Vũ Phiên Vân "



Ba đệ tử gác lầu của Nộ Giao Bang nằm vật dưới đất, máu tươi nhuốm đỏ vọng đài, hẳn là đã gặp phải độc thủ của kẻ địch.



Chàng lia nhanh mắt nhìn quanh, phát hiện chiếc bàn ở giữa lầu có đặt một phong thư ngay ngắn, một góc phong thư còn được chèn bởi một cái chặn giấy bằng đồng, điêu khắc hoa văn tinh tế.



Trên phong thư viết bằng mực đỏ mấy chữ “Thượng Quan Bang chủ đại giám”, góc dưới bên trái có chú một dòng chữ nhỏ: “Đại Minh Cấm vệ Thống lĩnh Lăng Nghiêm gửi”.



Lãng Phiên Vân đưa ánh mắt về phía mặt hồ đen ngòm, sóng nổi càng dữ hơn. “Phần phật!”.



Tiếng gió đập vào buồm từ phía xa truyền tới, đây là tiếng buồm bắt đầu khởi hành. Lãng Phiên Vân lấy lại vẻ bình tĩnh, đưa mắt nhìn xác của ba huynh đệ Nộ Giao Bang đang nằm dưới đất, ánh mắt hiện rõ vẻ bi thương tột độ.



“Keng!”.



Phúc Vũ Kiếm hóa ra hàng vạn đóa hoa. Lúc trở lại bao, chiếc bàn đá bên cạnh phong thư đã thêm một hàng chữ: “Người kẻ địch muốn là Lãng Phiên Vân, ta sẽ để cho chúng được toại nguyện”.



“Tang!”.



Lãng Phiên Vân đưa tay rung chuông đồng báo động, rồi lao vút người lên không như một con chim ưng, hướng về chiếc thuyền đặc chế của Nộ Giao Bang đang neo bên cạnh bờ đá. Chân khẽ dùng lực, sợi dây thừng cột con thuyền lập tức đứt tung, chiếc thuyền lao vút đi với tốc độ chóng mặt, như thể mười mấy trạo phu lực lưỡng đang gấp rút khua chèo.



Chỉ một thoáng chàng đã lẫn vào bóng đêm đen kịt trên Động Đình hồ.



Hóa ra góc kho dựng một chiếc trướng rất lớn, trên trướng thêu đầy những hoa văn, điểm xuyết bằng các vật trang trí mô phỏng đủ các loài động thực vật, nếu không phải là đá quý thì cũng là được làm từ vàng thật, lộng lẫy vô cùng, song lại cũng vô cùng mộc mạc.



Hàn Bách thầm than: Chiếc trướng quái lạ sặc mùi tà khí, chủ nhân của nó e chẳng phải hạng thiện tâm gì, nơi đây quả không thích hợp để ở lại lâu.



Đang định rời đi, đột nhiên đầu óc choáng váng, gần như ngã gục xuống đất. Hàn Bách cố gắng gượng dậy.



Cần phải biết rằng, những người luyện võ, nếu như để cho mình ‘tự do’ ngất đi, cho dù một ngày nào đó có thể hồi phục lại được thì công lực cũng đã bị giảm sút rất nhiều.



Phải một lúc lâu sau, thần trí của Hàn Bách mới trở lại bình thường, song lại cảm thấy cơ thể đã suy yếu không còn chút sức lực nào.



Chàng thật không ngờ, cây tiêu của Liễu Dao Chi chỉ khẽ phất một cái mà lại có thể gây ra nội thương lớn đến như vậy. Kinh mạch nửa người đang vô cùng đau đớn, điều lo lắng nhất là cơn đau ấy dường như đang lan rộng ra, nếu như không lập tức vận công trị thương đả thông kinh mạch, rất có thể nửa người sẽ bị tê liệt.




Hàn Bách đảo mắt nhìn xung quanh, trong bụng bỗng thở dài. Nhà kho này phải rộng đến sáu bảy trăm thước vuông, thế nhưng chiếc trướng khổng lồ kia đã chiếm mất đến một phần ba diện tích, các nơi còn lại đều sạch sẽ trống tênh, ngay cả một thường khách của nhà kho là chuột cũng không thấy xuất hiện.



Bỗng tiếng bước chân nhẹ nhàng từ ngoài vọng vào.



Hàn Bách giật mình, định vận công nhảy lên, nào ngờ chân khí trong cơ thể đã cạn kiệt, phân tán khắp nơi không thể tập trung lại được.



“Két két!”.



Tiếng cửa kho mở ra.



Chàng không còn lựa chọn nào khác, bò quanh chiếc trướng một vòng. Đến trước cửa trướng, Hàn Bách cắm đầu chui ngay vào trong. Cho dù trong trướng lúc đó có là cạm bẫy hay sơn cùng thủy tận, chàng cũng không suy tính được gì hơn nữa.



Chiếc trướng khổng lồ xếp đầy những đệm lông cừu ấm áp, trang trí lộng lẫy, giữa trướng kê một chiếc trường kỷ, mấy đĩa hoa quả tươi tỏa hương thơm hấp dẫn, bốn góc trướng gấp chỉnh tề những lớp chăn dày cộp, những chiếc gối hình vuông, hình tròn ngay ngắn như quân sĩ xếp hàng, cảm giác thật ấm áp dễ chịu.



Cửa mở ra, ánh đèn lồng chiếu vào trong trướng.



Hàn Bách rạp mình nấp sau một tấm thảm dày, ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy dưới ánh đèn lồng hai bóng nữ nhân thon thả đang chuẩn bị bước vào.



Hàn Bách hốt hoảng tìm một đống chăn xếp ở góc trướng, chui người vào trong. Lưng gác trên tấm thảm mềm mại, phía trên phủ một chiếc chăn dày, mũi ngửi thấy mùi hương từ chiếc chăn. Cảm giác dễ chịu ấy khiến chàng phải tự khen mình đã tìm đúng chỗ ẩn nấp liệu thương, chỉ cần cầu nguyện cho hai nữ nhân kia đừng chọn góc chăn chàng núp để làm nơi nghỉ qua đêm nay, như thế thì quá tốt rồi!



Bầu trời đầy sao.



Tần Mộng Dao rảo bước đi vào rừng liễu.



Trọn cuộc đời dâng hiến cho kiếm đạo, điều làm cho nàng có thể động lòng thật không phải là nhiều.



Sinh tử đối với nàng chẳng qua chỉ là hai đầu khác nhau của cùng một con đường. Giữa sinh và tử là một quãng đường ngắn ngủi, bất cứ cái gì cũng sẽ phải đi qua, và cuối cùng cũng đều phải tan biến không để lại dấu vết.



Chỉ có kiếm đạo mới là vĩnh cửu. Nhưng ‘Kiếm’ hoàn toàn không phải là mục đích, mà chỉ là một thứ phương pháp, một cách để có thể giải được câu đố vĩnh hằng giữa sinh và tử. Nàng biết, những nhân vật kiệt xuất võ lâm ở mỗi thế hệ, cho dù sớm hay muộn, nhanh hay chậm, cuối cùng cũng không thể tránh khỏi quay về con đường kiếm tìm sự vĩnh cửu ấy. Bằng không, làm sao có thể vượt qua ngàn vạn chúng sinh để trở thành nhân vật trác việt lưu truyền thiên cổ?



Đó chính là cõi Niết bàn của Võ đạo!



Song cũng không một ai biết, điều đó sẽ xảy ra khi nào? Liệu có xảy ra hay không? Và nếu xảy ra rồi thì sẽ như thế nào?



Tuyệt đại Đại sư Bát Sư Ba của Mông Cổ hàng trăm năm trước đã ngậm cười ra đi trong tư thế một ngón tay chạm đất ở trong thiền phòng của Bồ Đạt La cung. Vô thượng tông sư Lệnh Đông Lai đã tan biến trong Thập tuyệt quan mật that. Truyền Ưng đại hiệp kỳ tài thiên hạ lại lao mình vào không trung từ trên vách đá cheo leo ngàn trượng.



Các bậc cao nhân tuyệt thế đều đã tan biến vào hư vô!



Tần Mộng Dao thật hy vọng họ có thể trở lại trần thế và nói cho nàng biết, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì với họ.



Thế nhưng, ‘vô tri’ vẫn là thiết luật của cuộc đời. Không biết sinh, cũng không biết tử!



Bàng Ban cũng đang mò mẫm trên con đường ấy.



Bàng Ban hai mươi năm trước đã sớm nhìn thấu hư hoặc của nhân thế, bằng không lão ta sẽ không thoái ẩn hai mươi năm, tiềm tu tâm đạo Chủng ma đại pháp, thậm chí còn gạt bỏ cả Ngôn Tĩnh Am, gạt bỏ cả yêu và hận vốn đã và đang làm thế nhân điên đảo cuồng si, liệu ai có thể thực sự hiểu được lão ta đang làm gì?



Có lẽ chỉ có một mình Lãng Phiên Vân mới có thể hiểu được Bàng Ban.



Thế gian chỉ có hai con người siêu trác này mới có thể làm nàng động lòng.



Tần Mộng Dao bước đi nhanh hơn, cánh rừng liễu như đang lùi dần về phía sau.



Đoạn đường đã hết, ‘Liễu Tâm Hồ’ nổi tiếng bên cạnh rừng liễu đã hiện ra trước mắt nàng.



Một con thuyền nhỏ chầm chậm từ đằng xa lướt tới.



Một người đàn ông sừng sững như núi đá, dáng vững như bàn thạch ngồi cuối đuôi thuyền, hai tay khua nhẹ mái chèo theo một tiết tấu đều đặn, mái chèo gỗ đập vào trong nước phát ra những âm thanh nghe thật êm dịu.



Bầu trời đầy sao, mặt hồ phẳng lặng. Khung cảnh thật yên ả, hiền hòa.



Tâm cảnh Tần Mộng Dao trong sáng như gương, không mảy may vương chút trần niệm, lặng nhìn Ma Sư độc chiếm bảo tọa Đệ nhất thiên hạ suốt sáu mươi năm qua đang dần tiến đến.



Bàng Ban nhìn cô gái xinh đẹp đứng lặng lẽ bên bờ hồ, tà áo nhẹ tung bay trong gió, tóc dài khẽ phất phơ, dáng trông như tiên nữ, bỗng nhớ đến cảnh lần đầu tiên hẹn gặp Ngôn Tĩnh Am, trong lòng chợt thoáng hiện một chút trầm tư.



Tần Mộng Dao khẽ khom người: “Mộng Dao thay mặt gia sư có lời hỏi thăm đến Ma Sư!”.



Bàng Ban chăm chú nhìn Tần Mộng Dao, giọng dịu dàng: “Đêm khuya du hồ, vui càng thêm vui, Mộng Dao cô nương, xin mời!”.



Tần Mộng Dao mỉm cười, thân người khẽ động đã đứng trên mũi thuyền.



Bàng Ban khẽ cười, cũng không biết làm thế nào mà con thuyền bỗng vụt tăng tốc, lao vút như một mũi tên vào giữa lòng hồ. Truyện "Phúc Vũ Phiên Vân "



Tần Mộng Dao tựa vào một bên mạn thuyền, đưa tay xuống nước, một cảm giác mát lạnh êm dịu từ bàn tay truyền lên.



Không biết vì sao nàng bỗng nghĩ tới Động Đình hồ.



Khi Lãng Phiên Vân đưa tay vào nước, phải chăng cũng có cảm giác giống như nàng bây giờ?



Bàng Ban thu hai mái chèo, để mặc cho con thuyền nhỏ tự trôi, ngẩng đầu lên nhìn những vì sao lấp lánh điểm xuyết trên bầu trời đêm, than thở: “Tĩnh Am phải chăng vẫn còn thích nghe mưa như ngày nào?”.



Tần Mộng Dao khẽ rùng mình, rút bàn tay dưới nước lên, nhìn những giọt nước chảy xuống từ đầu ngón tay, khẽ nói: “Mỗi lần buổi đêm có mưa, Mộng Dao đều cùng sư phụ cả đêm không ngủ, ra ‘Thưởng nguyệt đình’ phía sau núi để nghe mưa”.




Bàng Ban lặng người một hồi, thu ánh mắt về, nhìn về phía Mộng Dao đang đắm chìm nhìn ngắm những giọt nước trên tay, giọng lo lắng: “Đêm mưa rất lạnh, mà sau núi lại có gió lớn tạt làm ướt quần áo, Tĩnh Am không sợ bị cảm lạnh sao?”. Đoạn lại lắc đầu: “Ta quả là đã hồ đồ mất rồi! Tĩnh Am là cao thủ cỡ nào trong thiên hạ, một chút hàn khí thì có ảnh hưởng gì đến nàng...!”. Dừng một lát, đột nhiên lão chau mày: “Nhưng tại sao ta không thể xóa bỏ được ấn tượng về cơ thể yếu đuối của nàng?”.



Tần Mộng Dao nhấc tay lên, áp vào cạnh môi, khẽ đưa lưỡi nhấm mấy giọt nước còn sót lại, trong mắt hiện rõ vẻ quan tâm, khẽ nói: “Tôi rất hiểu cách nghĩ của Ma Sư, bởi vì tôi cũng có cảm giác như thế. Bây giờ nghĩ lại, có lẽ bởi sư phụ có vẻ đẹp thiên bẩm, lại đa sầu đa cảm, dịu dàng ôn hòa, nên luôn khiến cho người khác có cảm giác thể chất của người yếu ớt, nhưng thực ra sư phụ cũng khỏe như bất cứ ai, không hề đau ốm gì”.



Bàng Ban nhắm mắt lặng im, vẻ như đang chìm sâu vào một thế giới khác.



Tần Mộng Dao ngẩng lên quan sát sắc mặt của Bàng Ban, một vẻ mặt tràn đầy mê lực nam tính, khiến lòng nàng bỗng gợn lên như cơn sóng.



Cuối cùng, nàng đã gặp được Bàng Ban!



Bàng Ban khẽ mở mắt ra, ánh mắt như điện phát ra bốn phía, lướt qua khuôn mặt xinh đẹp của Tần Mộng Dao, nhìn ra cánh rừng liễu bên bờ, khẽ than lên một tiếng.



Tần Mộng Dao hỏi: “Hôm nay vì sao Ma Sư đã đến rồi lại bỏ đi?”.



Vẻ dịu dàng trìu mến lại hiện lên trong đôi mắt đã nhìn thấu thế tình của Bàng Ban, lão mỉm cười, vẻ như nhớ lại một điều gì đó, khẽ nói: “Hai mươi ba năm trước, sau khi ta và Tĩnh Am đứng tranh cãi mười ngày ở Từ Hàng Tịnh Trai, trở về cung ta lại suy nghĩ dằn vặt thêm hai năm một trăm bảy mươi hai ngày, cuối cùng đưa ra điều kiện thoái ẩn hai mươi năm với Tĩnh Am... ài!”. Nói đến đây, Bàng Ban dừng lại một lúc, nhìn lên bầu trời đầy sao, ánh mắt thoáng hiện vẻ đau đớn.



Dường như lão đã phải trả một cái giá rất đắt khi đưa ra điều kiện ấy, và đã mang nợ, một món nợ tình cảm sâu nặng với Ngôn Tĩnh Am.



Trái tim vốn luôn tĩnh lặng của Tần Mộng Dao lại dậy lên những đợt sóng dữ. Tuy Ngôn Tĩnh Am không hề giấu giếm chuyện trong lòng, nhưng về những điều kiện trao đổi với Bàng Ban để lão ta thoái ẩn hai mươi năm, Ngôn Tĩnh Am vẫn luôn giấu nàng, tất trong đó hẳn có điều vô cùng khó nói.



Giờ đây Bàng Ban dường như lại muốn nói ra những ủy khuất trong đó, làm sao nàng không khỏi thấy lạnh người?



Bàng Ban đã lấy lại vẻ bình thản: “Tĩnh Am hồi thư cho ta, chỉ nói có hai câu, đó là ‘Tôi sẽ gửi ngài một đồ nhi, nhưng cũng sẽ bồi dưỡng một đồ nhi khác để khắc chế ngài’. Vì thế khi Dạ Vũ nói cho ta biết cô nương sẽ xuất hiện ở gần đây, tuy ta đã bảo Dạ Vũ hẹn gặp cô nương vào lúc canh ba ở rừng liễu, nhưng sau cùng lại không nhịn được việc nhìn thấy một Tần Mộng Dao được chính tay Tĩnh Am đào tạo, xem rốt cuộc cô nương là một nhân vật như thế nào?”. Nói đoạn lại lắc đầu gượng cười: “Trong thiên hạ, e rằng chỉ có Tĩnh Am mới có thể khiến ta mất đi kiên nhẫn mà thôi!”.



Tần Mộng Dao ngạc nhiên: “Thì ra Ma Sư lại có thâm ý như vậy, vậy mà tôi không hề hay biết!”.



Bàng Ban thở dài: “Đây chính là chỗ cao minh của Tĩnh Am, thế mới gọi là vô tung khả tầm. Thực ra tâm pháp cao nhất của Từ Hàng Tịnh Trai chính là ở trong một chữ ‘Tĩnh’, nếu như tâm mà có chướng ngại, thì liệu còn có thể ‘tĩnh đến cực chí’ được không?”. Nói đến đây, tinh quang trong mắt lão chợt loang loáng phát ra, chăm chú nhìn vào tận đáy mắt của Tần Mộng Dao, chậm rãi: “Hôm nay ta đến đây, vốn dĩ cho rằng Hàn Bách là người đầu tiên cảm nhận thấy ta đến, bởi trong người hắn có Ma chủng của Xích Tôn Tín, rất nhạy cảm đối với ta. Nào ngờ cô nương mới là người đầu tiên biết được ta xuất hiện, có thể thấy kiếm đạo của cô nương đã đạt đến cảnh giới ‘Kiếm tâm minh thông’ trong ‘Từ Hàng kiếm điển’ rồi. Tĩnh Am à Tĩnh Am! Bàng Ban ta thật phục nàng sát đất!”.



Tần Mộng Dao mượn động tác cúi đầu xuống để che đi vẻ kinh hãi trong lòng mình. Không phải vì phán đoán chính xác của Bàng Ban đối với võ công của nàng, mà bởi vì Bàng Ban có thể đưa ra một thông điệp tâm linh vượt qua cả sự lý giải của người thường để liên kết cảm ứng giữa ba người họ, và điều càng khiến nàng kinh hãi hơn là lão ta lại có thể chỉ dùng một phương thức tinh thần giao cảm duy nhất mà vẫn có thể đoán biết được từng phản ứng trong lòng mỗi người, đó mới là công lực cao thâm nhất.



Đạo tâm Chủng ma đại pháp của Bàng Ban quả là đã sâu xa không thể lường, thần bí không thể đoán, đã vượt qua mọi quy tắc thông thường, dường như không thể ứng phó nổi.



Theo như lời Bàng Ban vừa nói, khi Ngôn Tĩnh Am thu nhận nàng làm đồ đệ, trước đó đã có quyết định đào tạo nàng để đối phó với Bàng Ban.



Bàng Ban ha hả cười, ánh mắt lộ rõ vẻ tán thưởng, nói sang chuyện khác: “Không ngờ Phạm Lương Cực ấy lại nhạy bén đến thế, thật không hổ là Đạo trung chi vương”.



Tần Mộng Dao cũng mỉm cười: “Nếu ông ta không phải có cái vốn thiên phú ấy thì đã bị người ta bắt đi ngồi tù từ lâu rồi”.



Bàng Ban lẳng lặng nhìn nàng, khẽ nói: “Mộng Dao cô nương không phải không biết sư tôn của ‘Độc Hành Đạo’ Phạm Lương Cực là ‘Khí vương’ Lăng Độ Hư, trăm năm trước đã cùng Truyền Ưng cùng xông vào ‘Kinh Ưng cung’ đấy chứ? Khi ấy người làm ông ta bị trọng thương là Tư Hán Phi còn cho rằng tính mệnh ông ta không giữ được lâu, nào ngờ Tiên thiên khí công của Lăng Độ Hư đã đạt đến hóa cảnh, có thể làm cho lục phủ ngũ tạng đã rách nát vẫn tái hợp lại như cũ, chỉ có điều từ đó mất đi giọng nói mà thôi”.



Tần Mộng Dao vẫn giữ vẻ mặt bình tĩnh, song trong lòng lại một lần nữa bùng dậy những con sóng dữ dội.



Trước đó, nàng cho rằng mình là một trong số ít người biết được nguồn gốc sâu xa của Phạm Lương Cực, mà sở dĩ nàng và Ngôn Tĩnh Am có thể biết được bí mật này cũng chính bởi quan hệ mật thiết giữa Từ Hàng Tịnh Trai và Tịnh Niệm Thiền Tông.



Những năm cuối đời, Lăng Độ Hư chính là sống ở Tịnh Niệm Thiền Tông, tro cốt của ông còn được đưa vào ‘Tiên hiền các’, nơi thờ phụng những bậc tiền bối của Tịnh Niệm Thiền Tông.



Vậy mà Bàng Ban tùy khẩu đã có thể nói ra được bí mật sâu xa ấy, chứng tỏ thế lực lão ta không đâu là không có, ngay cả một vùng tịnh thổ võ lâm tuyệt cách với thế giới bên ngoài như Tịnh Niệm Thiền Tông cũng không thể tránh khỏi.



Điều càng khiến nàng kinh hãi hơn nữa là Bàng Ban còn biết được nàng đã từng nghe nói đến chuyện này.



Năm mười sáu tuổi, Ngôn Tĩnh Am sai nàng một mình đến Tịnh Niệm Thiền Tông ở tận Thanh Hải để gặp Liễu Tận Thiền chủ, gửi bức thư do chính tay bà viết. Trong ba năm sau đó, Liễu Tận Thiền chủ không những đích thân chỉ dạy võ công, mà còn để nàng đọc hết mọi võ thuật tàng thư và các bút tích tâm đắc của các đời sư tổ trong Tông. Vì thế, tuy nàng danh là truyền nhân của Từ Hàng Tịnh Trai, trên mình thực ra đã mang tinh hoa võ thuật của cả hai thánh địa võ lâm, nào ngờ chỉ mấy câu nói của Bàng Ban đã có thể chỉ ra mối quan hệ giữa nàng và Tịnh Niệm Thiền tông.



Từ đó có thể biết, Bàng Ban không lúc nào bớt quan tâm tới Ngôn Tĩnh Am!



Tần Mộng Dao nhìn lên ánh mắt rừng rực của Bàng Ban, khẽ mỉm cười không nói.



Bàng Ban ngẩn người ra, nói như than: “Trời ơi! Vì sao khí chất của hai người lại giống Tĩnh Am đến vậy! Một động, một tĩnh, nếu đem hai người hợp lại là đã thành một Ngôn Tĩnh Am hiển hiện trước mắt”.



Tầm Mộng Dao mắt ánh lên: “Rốt cuộc sư tỷ của tôi hiện giờ ở đâu?”.



Gót hồng của Băng Vân đặt trên con đường ngoằn nghèo thông tới đỉnh núi, đi qua một bãi đá mênh mông lô nhô cột đá, ở trên có khắc ‘Gia tại sơn trung, vân thâm bất hà xứ’. Cuối cùng, đỉnh nhọn của ‘Tàng điển tháp’, nơi cao nhất trong Từ Hàng Tĩnh trai đã hiện ra sau vô tận núi rừng.



Nhà đã ở trước mắt!



Từ Hàng Tĩnh Trai trong đêm lại càng giống với một vùng tiên cảnh thoát trần. Nhà trong núi cao, mây dày không không tỏ lối!



Nàng rời nơi này vừa đầy mười năm, song không mảy may cảm thấy ngôi nhà mà nàng đã xa cách biền biệt ấy có chút gì lạ lẫm.



Từ Hàng Tĩnh Trai vẫn giống như xưa, vẫn giống như những gì mà nàng nhìn thấy trong mơ.



Băng Vân đi nhanh hơn, chốc lát đã đến trước cửa lớn của Từ Hàng Tĩnh Trai.



Hai chiếc đèn lồng treo hai bên cửa, lấp lánh ánh nến màu vàng kim trong làn sương mờ ảo, như đang tỏa sáng nghênh đón nàng trở về.



Băng Vân đưa bàn tay ngọc định kéo chiếc vòng cửa khắc đầy những hoa văn, bỗng rùng mình dừng lại, mắt hiện lên vẻ rối bời khó có thể hình dung, thốt lên bi thương: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Vì sao lại có nhiều người ở đây như vậy? Sư phụ! Băng Vân của sư phụ đã trở về rồi!”.



Cánh cửa tầng thứ nhất trong ‘Thất trùng môn’ nổi tiếng thiên hạ của Từ Hàng Tĩnh Trai đã mở ra, tiếp đến là tầng thứ hai, thứ ba...



Tầng tầng lớp lớp sơn môn dần hiện ra trước mắt Băng Vân, dường như mở ra con dường dẫn đến một thế giới khác, cũng giống như một đào nguyên bí mật tránh né hiện thực tàn khốc, cuối cùng cũng đã hiện ra.



Cánh cửa tầng cuối cùng rộng mở, Băng Vân nhìn vào mà lòng càng rối bời. Trên quảng trường lớn thông thường chỉ có một vài con chim nhảy nhót hôm nay lại toàn là nhưng nữ ni tu hành trong Từ Hàng Tĩnh Trai.



Trên tay mỗi người đều xách một chiếc đèn lồng, vẻ mặt nghiêm trang, toàn quảng trường đắm trong một màu hồng rực.




Băng Vân từng nghĩ đến hàng nghìn hàng vạn khung cảnh khi nàng trở về Từ Hàng Tĩnh Trai, song chưa bao giờ hình dung nổi một cảnh tượng thế này.



Một ngọn lửa bốc lên trong lồng ngực, như tụ lại phát lên thành tiếng: “Sư Phụ! Tiểu Vân đã trở về đây!”. Nàng lao nhanh như một mũi tên, nháy mắt vượt qua tầng cửa thứ bảy.



Khi bóng dáng uyển chuyển như tiên nữ của nàng vút qua tầng cửa cuối cùng, chúng ni đều lùi cả sang hai bên, để lộ ra một con đường được dẫn thẳng đến cửa lớn của điện chính trong Từ Hàng Tĩnh Trai, ‘Từ Hàng Điện’.



Cánh cửa đang đóng chặt, hai nữ ni trung tuổi vẻ mặt trang nghiêm như tượng đứng yên lặng hai bên.



Một trong hai người đó là Vấn Thiên Ni, địa vị chỉ sau có Ngôn Tĩnh Am ở Từ Hàng Tĩnh Trai này. Năm Băng Vân mới mười hai tuổi bà đã bế quan tu đạo, không ngờ hôm nay khi trở về bước vào cửa, nàng vẫn trông thấy dáng vẻ ấy. Mười sáu năm tuế nguyệt không hề để lại một dấu vết nào trên khuôn mặt của bà.



Băng Vân khẽ khom người, song vẫn không dừng lại, bước đi nhanh hơn, gót son đã đặt lên nền đá quảng trường, một cảm giác lạnh như băng từ bàn chân truyền lên.



Vấn Thiên Ni bình thản nhìn nàng, vẻ mặt không vui mừng cũng không đau khổ.



Băng Vân dừng lại trước mặt Vấn Thiên Ni, miệng khẽ động đậy, song lại nói không ra lời. Truyện "Phúc Vũ Phiên Vân "



Vấn Thiên Ni khẽ tuyên một câu phật hiệu, nói nhỏ: “Tiểu Vân, con hãy vào đi! Đừng để sư phụ con phải chờ lâu!”.



Trong mắt Băng Vân như hiện lên một đám mây u ám, nhìn về phía cánh cửa đóng chặt, khẽ nói: “Sư phụ...!”. Rồi đưa tay đẩy cửa.



“Két!”.



Cánh cửa hé ra một khe hẹp, ánh nến ấm áp lọt qua. Băng Vân tựa mặt vào cánh cửa gỗ, một mùi hương quen thuộc xông lên mũi. Còn nhớ năm xưa, có một lần chơi trò trốn tìm với Ngôn Tĩnh Am nàng cũng đã từng trốn sau cánh cửa này, đã ngửi mùi thơm quen thuộc ấy.



Băng Vân khẽ ngã người về phía cửa, dùng thân người đẩy cánh cửa rộng ra chút ít, im lặng lách vào.



Đại điện hình chữ nhật rộng lớn trải dài trước mắt, cuối điện là một bức tượng Phật bằng đá cao hai trượng ngồi xếp vòng tròn, tay bắt quyết Liên hoa pháp ấn.



Giữa điện kê một chiếc giường đá trắng, Ngôn Tĩnh Am trong bộ váy áo trắng như tuyết, lặng im nằm đó, đầu hướng về phía tượng Phật.



Toàn thân Băng Vân run lên cầm cập, mãi một lúc sau mới kiềm chế được bản thân, trên mặt lộ rõ thần sắc không dám tin vào mắt mình, bước từng bước lững thững đến trước giường nơi Ngôn Tĩnh Am đang nằm yên lặng.



Sư phụ, người đã ra đi rồi sao?



Vì sao sư phụ không đợi Băng Vân thêm một chút nữa? Cuối cùng nàng cũng đến bên chiếc giường đá.



Ngôn Tĩnh Am hai mắt nhắm nghiền, vẻ mặt vẫn thanh tú như xưa, nhưng sự sống đã không còn nữa!



Hai chân Băng Vân mềm ra, gục quỳ xuống đất. Ngôn Tĩnh Am đã chết!



Sư Phụ!



Người phải biết rằng, Băng Vân không hề oán trách gì người!



Chỉ có tiểu Băng Vân của người mới hiểu rõ được sự vĩ đại của người, mới có thể hiểu được những hy sinh mà người đã làm cho Võ lâm và chúng sinh thiên hạ!



Chỉ có sư phụ mới đẩy đại họa lùi lại được hai mươi năm!



Giọng bình lặng của Vấn Thiên Ni từ phía sau vang lên: “Ngôn Trai chủ đã qua đời từ bảy ngày trước. Trước khi chết người đã tin chắc trong vòng mười ngày thế nào con cũng trở về, vì thế người muốn đợi để gặp mặt con lần cuối, rồi mới hỏa táng và rắc tro cốt ở bốn phía của ‘Thưởng vũ đình’. Cuối cùng thì con đã trở về rồi!”.



Băng Vân đã lấy lại vẻ bình tĩnh, ánh mắt lẳng lặng nhìn sang khuôn mặt không vướng chút bụi trần của Vấn Thiên Ni



Vấn Thiên Ni lấy từ trong người ra một phong thư, nói: “Ngôn Trai chủ có ba bức di thư, một cho con, một gửi cho người sư muội mà con chưa từng gặp mặt, bức cuối cùng là gửi cho Bàng Ban”. Rồi đưa bức thư cho nàng.



Băng Vân nhận thư, ghì sát trước ngực, nước mắt ròng ròng tuôi rơi.



Vấn Thiên Ni lùi lại sau ba bước, chợt khom người trang nghiêm: “Cấn Trai chủ, xin nhận một lễ của chúng ni trong Thiên Đại Trai này!”.



Cấn Băng Vân như không hề nghe thấy lời của Vấn Thiên Ni, hoàn toàn chưa biết mình đã trở thành lãnh tụ của một trong hai đại thánh địa võ lâm. Nàng khẽ đi đến trước di thể trông như đang yên ngủ của Ngôn Tĩnh Am, lặng lẽ, chăm chú ngắm nhìn di dung sư phụ.



Ngôn Tĩnh Am vẻ mặt vẫn ung dung hiền hậu, khoé miệng vẫn như đang nở nụ cười. Ngôn Tĩnh Am làm sao mà chết được!



Nhưng đây lại là một hiện thực tàn khốc ngay trước mắt.



Giọng của Vấn Thiên Ni lại một lần nữa vang lên: “Trai chủ vì sao không bóc thư ra xem, lẽ nào Trai chủ không muốn biết những di ngôn trước lúc lâm chung của tiên Trai chủ sao?”.



Cấn Băng Vân nhìn Vấn Thiên Ni, khuôn mặt xinh xắn đầy nước mắt bỗng thoáng hiện một nụ cười có thể khiến trái tim nhân gian vỡ vụn, khẽ ngơ ngác hỏi: “Thư gì?”


Bình Luận (0)
Comment