Quan Trừng

Chương 21

Sau khi Trúc Hàn đến chùa Tây Minh, mỗi ngày của chàng đều trôi qua giống nhau, mọi chuyện không nằm ngoài quy trình mặt trời mọc thì làm bài tập lúc sáng sớm rồi ăn cơm, sau đó dịch kinh văn đến trưa rồi lại ăn cơm. Buổi chiều cũng làm bạn với kinh văn, tối đến làm bài tập buổi tối, nếu mệt quá thì sẽ quay về phòng nghỉ ngơi.

Trong đêm có quỷ Âm Ma La lén lút vào chùa, không tham tài mà chỉ “háo sắc”. Hai người gần như chỉ thành thật ngủ chung với nhau, nàng có vài lần trêu chọc chàng loạn lên. Ở trong chùa cổ lạnh lùng tiểu hòa thượng kiềm chế bản thân, cương quyết giữ vững tia lý trí cuối cùng, không chịu hùa theo. Mặc dù A Âm hành động càn rỡ nhưng trong lòng cũng tỉnh táo, hai người chỉ nhỏ giọng thì thầm, đâu thể làm chuyện gì khác. Mà dù có làm cũng phải đưa tiểu hòa thượng ra ngoài.

Gần đây ngoại ô thành Trường An xảy ra chuyện lạ, người dân trong thôn làng đều thấy khó hiểu, tại sao dạo gần đây đều có người chết lúc chập tối? Các linh hồn bị A Âm đưa đến Địa phủ cũng muốn hỏi thăm chuyện này, thôn dân thì hoang mang, mặt trời vừa lặn thì đa số đều không thể tập trung làm việc. Diêm Vương nhắc nhở A Âm, không thể ngày nào cũng câu hồn đi trùng giờ được, phải kéo giãn khoảng cách ra. A Âm nghe nhưng vẫn chẳng có gì thay đổi. Trời tối Trúc Hàn sẽ trở về phòng nghỉ ngơi, nàng nhất định phải đến chùa Tây Minh, làm gì có thời gian làm việc.

Chỉ có Trúc Hàn không biết, ban này mỗi lúc chàng nhăn mày dịch kinh văn đều có một con quỷ Âm Ma La ngồi trên xà nhà nhìn lén.

Ban ngày nàng ở trong chùa nhìn lén chàng đến mệt thì đi nghỉ, mặt trời lặn sẽ đến vùng ngoại ô bắt quỷ hồn đưa đến Âm Ti rồi lại về chùa Tây Minh. Đã hơn nửa tháng nay Quỷ Sứ không nhìn thấy mặt nàng, ngày hôm đó hắn đến chùa Tây Minh “bắt” nàng đang ngồi trên xà nhà.

A Âm nhìn thấy quỷ da xanh thì nhướng mày: “Đã lâu rồi ta không nhìn thấy dáng vẻ này của ngươi, đúng là xấu nhức mắt.”

Quỷ Sứ thấy bốn bề vắng lặng liền biến trở lại: “A Âm cô nương còn nhớ ta là ai, đúng là rất vinh hạnh.”

“Đừng xem nhẹ bản thân mình, không có con quỷ nào xanh hơn ngươi đâu.”

Hắn tức tối, nghiêng đầu không nhìn nàng nữa, miệng làu bàu, “Đã bao lâu rồi ngươi không về rừng? Dạo này quán rượu buôn bán không tốt, chúng ta đã thỏa thuận là ngươi đi giúp ta kéo khách, dạy ta kiếm nhiều tiền, quỷ Âm Ma La đều không giữ chữ tín vậy sao? Còn nữa, bây giờ đêm hôm ngươi cũng đến chùa, chùa có âm khí cho ngươi hút à? Những ngày gần đây rừng nóng lên, người vứt xác cũng ít, ta tìm thấy một chỗ ở phía Tây thành…”

Quỷ Sứ lẩm bẩm một mình, bỗng cảm thấy xung quanh yên tĩnh đáng sợ, quay đầu lại thì không thấy người đâu nữa.

“Con chim mập chết tiệt! Không muốn nghe ta nói thì ta đi vậy!”

Nước Già Tất của quỷ giới xảy ra bạo động, Quỷ Sứ và Chướng Nguyệt định đi xem thử tình hình ra sao, nói không chừng có thể vớ được chỗ tốt, họ quyết định mai sẽ lên đường. Họ vốn định gọi nàng đi cùng nhưng nghĩ A Âm chỉ quan tâm đến tiểu hòa thượng nên thôi.

Đến mười lăm tháng Giêng, đêm Thượng Nguyên.

A Âm chưa bao giờ thấy đèn đuốc trong thành Trường An sáng bừng đến vậy.

Không phải mười lăm tháng Giêng là đêm trăng tròn à? Sao nàng không nhìn thấy ánh sáng trong trẻo lạnh lùng trong trí nhớ mà khắp phố đều là những chiếc đèn cán dài, nhìn đâu đâu cũng thấy màu da cam ấm áp.

Nàng cảm nhận được bầu không khí nóng bỏng vô hình, tốc độ lướt qua cũng bị dòng người làm chậm lại, nàng đến chùa Tây Minh muộn hơn ngày thường nửa canh giờ. A Âm thấp giọng chửi mắng bằng tiếng quỷ, chỉ cảm thấy hôm nay dân chúng Trường An có phần điên dại. Nàng chạy vào phòng nhưng không thấy tiểu hòa thượng đâu, lúc này mới nhận ra hôm nay chùa Tây Minh hơi kỳ lạ, nhất là so với đường lớn náo nhiệt thì càng lạnh lẽo hoang vu.

May là trong chùa không thắp những ngọn đèn nóng rực ấy, nàng hóa thành khói bay khắp nơi tìm chàng nhưng chỉ thấy mấy hòa thượng già đang ngồi tụng kinh trong chùa. A Âm thầm cảm thán những hòa thượng già này đúng là sùng đạo, giờ này vẫn chưa đi ngủ, nàng đi mãi mà không gặp một tăng lữ trẻ tuổi nào.

Đến cửa sau chùa Tây Minh, giữa lúc hốt hoảng nàng ngửi thấy mùi hương quen thuộc, nhất định là Trúc Hàn. Nàng hóa thành người nhẹ nhàng đẩy cánh cửa nhỏ kia ra, tiểu tăng mặc trang phục màu đen đứng im không nhúc nhích ngoài đầu nhìn nàng, mày hơi nhăn lại.

Nàng nghiêng đầu, cười rực rỡ, “Chàng lại nhíu mày.”

Tiểu hòa thượng chắp tay, hôm nay chàng khoác áo cà sa màu chàm, hỏi nàng với vẻ nghiêm túc, “Đã hẹn rồi mà sao hôm nay nàng đến trễ?”

Giọng nói mang theo sự dịu dàng oán trách mà bản thân chàng không kìm nén được, A Âm vừa nghe đã rung động. Bất kể là đường Chu Tước ồn ào nhộn nhịp thế nào, tiểu hòa thượng của nàng vẫn đợi nàng ở ngõ hẻm vắng lặng, bất kể ai nhìn thấy cảnh tượng này cũng cảm thán một câu ngoan quá.

Nàng nghiêm mặt mở miệng, giọng nói không có vẻ nhường nhịn mà thậm chí còn có phần xảo trá.

“Chúng ta hẹn lúc nào? Hẹn làm gì? Ngày nào cũng đúng giờ đó ta mới đến tìm chàng, nhưng không hề hứa bao lâu sẽ đến, ta không được bận một số việc khác sao?”

Tiểu hòa thượng nghe thấy những lời này thì nhíu mày sâu hơn, hẻm nhỏ sau chùa Tây Minh không có người đến, xung quanh tối đen im ắng.

Chàng thở dài, buông bàn tay chắp trước ngực xuống, giãn mày, “Ta quên khi đó nàng ngủ thiếp đi, là ta sai.”

A Âm vừa nghĩ đã biết tối nay tiểu hòa thượng khoác áo cà sa, chân cũng đi đôi giày mới. Thành Trường An nhộn nhịp như vậy, trong chùa cũng không có bóng dáng chúng tăng, hiển nhiên là chàng muốn hẹn nàng đi ra ngoài.

Nàng phất tay áo đi trước, cũng không quay đầu lại, “Đúng là giận dỗi vô cớ mà, ta ngày ngày đến tìm chàng, thế mà còn bị chàng quở trách.”

Nhưng thật ra nàng đang cười thầm trong bụng.

Tiểu hòa thượng theo sát thiếu nữ hôm nay mặc trang phục màu lam, định kéo ống tay áo nàng nhưng hình như nàng mọc mắt ở sau, ra sức né tránh. Chàng sốt ruột ấp úng nói, “Ta không có…”

A Âm đi rất nhanh, “Người xuất gia không được nói dối, chàng có.”

Mắt thấy sắp ra khỏi ngõ hẻm, rẽ vào đường lớn, chàng ôm eo nàng từ phía sau, vùi đầu vào cổ A Âm, những sợi tóc mới nhú đâm vào lỗ tai nàng. A Âm có nén cười, nghe chàng nói, “A Âm ta biết sai rồi, ta không trách nàng nữa.”

Thấy nàng không nói gì, Trúc Hàn nói tiếp, “Là do ta quá ngu ngốc… Ta ôm A Âm một cái, A Âm đừng giận ta nữa.”

Vào giờ khắc này, trong tầm mắt A Âm bỗng xuất hiện pháo hoa không biết ở đầu đường phía nào bay thẳng lên trời, trong khoảnh khắc rực rỡ ngắn ngủi ấy, nàng bỗng thấy trái tim mềm nhũn.

Thấy người qua đường liếc nhìn, A Âm đè nén tình cảm, gỡ bàn tay đang ôm eo mình ra, “Buông ra nào, có người.”

Trong lòng chàng cũng lo bị người khác nhìn thấy nhưng không thể phủ nhận rằng chàng càng lo nàng càng không vui. Hoặc có lẽ ánh đèn đêm Thượng Nguyên quá sáng khiến chàng cũng say theo, chàng lắc đầu cọ bên tai khiến nàng ngứa ngáy, “Không buông.”

Nàng bị chàng đánh bại hoàn toàn, kiễng chân cắn một cái vào cổ chàng rồi nói lớn, “Được rồi, ta không giận, chàng mau buông ra nào.”

Quỷ Âm Ma La đâu để tâm mình có bị người khác nhìn hay không, nàng đã từng một mình ra vào thành Trường An, không biết bị bao người liếc mắt thèm nhỏ dãi, cũng không hề cảm thấy khó chịu. Bây giờ nàng làm vậy là lo lắng mặt mũi của tiểu hoà thượng.

Nàng không quan trọng, thế nào cũng được, nhưng ở trên người Trúc Hàn thì mọi “không” đều biến thành “có” vô tận.

Vừa mới ra đường lớn, A Âm phủ tấm vải sa màu trắng lên đầu, Trúc Hàn nhìn thấy thì bỗng nhớ đến lần ở phủ họ Trần, chàng hơi nghẹn lời.

“Sao lại phủ sa?”

Nàng che rất kín, chỉ để lộ mỗi đôi mắt.

A Âm cười gian xảo, “Dung mạo của ta thế này, sao có thể để những tên đàn ông xấu xa trong thành Trường An dòm ngó. Ta chỉ cho mình Quan Trừng ngắm thôi.”

Chàng đỏ mặt, có nghệ nhân đeo mặt nạ đi cà kheo lướt qua người, kéo theo những tiếng hoan hô nhiệt liệt.

Nàng nghe không rõ, chàng nói, “Lần trước ở phủ họ Trần, ta không hề chê nàng.”

A Âm cười trộm, đôi mắt giảo hoạt như mèo con, “Ừm.”

Bên tai vang lên những tiếng thét to đứt quãng, không biết Trúc Hàn nhìn thấy sạp hàng gì mà gương mặt bỗng xuất hiện nụ cười, chen vào giữa đám người ồn ào. Nhìn xung quanh rải rác đèn lồng, không hiểu sao A Âm bỗng thấy nóng lòng. Quỷ bình thường e ngại đuốc lửa, không ngờ con quỷ sống mấy trăm năm như nàng đứng ở nơi đèn đuốc sáng trưng cũng hơi khó chịu.

Không kịp nghĩ nhiều, Trúc Hàn đã cầm trong tay cái ống nhỏ cuốn bằng lá xanh, gương mặt hơi ửng đỏ, quay lại chỗ đưa cho nàng. A Âm nhìn kỹ, nhận ra là một nắm đậu nành.

“Họ nói là đã rang qua gia vị đặc chế từ rau xanh, nàng nếm thử xem.”

Nàng cười cầm một viên bỏ vào miệng, nhấm nháp tạo thành âm thanh giòn tan, khẽ gật đầu, “Ngon.”

Thấy tiểu hòa thượng hơi thẹn thùng, nàng đẩy tới, “Chàng cũng nếm thử xem. Quan Trừng ngốc, chàng cứ nhìn ta làm gì.”

***

Hai người xuôi theo dòng người vừa đi vừa nhìn ngắm, bởi vì nàng là quỷ nên Trúc Hàn dùng giọng nói êm tai giảng giải cho nàng nghe về phong tục liên quan đến đêm Thượng Nguyên.

“Thả đèn đêm Thượng Nguyên cũng không phải phong tục truyền thống của nước ta mà xuất xứ từ Phật giáo ở Tây Vực. Hàng năm cứ đến mùng một tháng Giêng, nhà chùa đều bày biện đèn cây đèn lồng, sau đến Trung Nguyên thì có phần thay đổi. Nếu đi đến đường lớn gần chùa Đại Hưng Thiện sẽ thấy phần lớn đèn hoa đăng là do tăng lữ làm ra, không được khéo léo rực rỡ như bên này.”

Chàng nghiêm túc giảng giải, A Âm chăm chú lắng nghe, nàng thích nhất là giọng điệu không chút hoang mang của chàng, nghe vào khiến lòng nàng xốn xang.

Thấy có một đám người tụ tập lại, chàng chỉ vào đó cười nói, “Đó là trò chơi kéo co, đã có từ thời Nam Bắc Triều, nghe nói Thánh nhân cũng từng tranh tài kéo co ở cung Hưng Khánh.”

A Âm không mấy hứng thú với chuyện trong thế tục nhưng chỉ vì chuyện này mà đôi gò má tiểu hòa thượng hơi ửng hồng, bộc lộ ra dáng vẻ sôi nổi của thiếu niên hiếm thấy, nàng cũng cười.

Cách đó không xa, ở trên đài cao có nhóm thiếu nữ của giáo phường đang múa, đội hình múa nhìn hơi quái dị, họ cài hoa giống nhau, gương mặt có má lúm đồng tiền, đuôi lông mày màu đỏ thì vẽ xéo. Bên cạnh có sênh, trống, đàn không và các loại nhạc khí đệm tấu, cảnh tượng tạo nhã cao quý, tràn ngập phong thái của Đại Đường.

Lần này A Âm chủ động hỏi trước, “Bọn họ đang làm gì thế?”

Tiểu hòa thượng nhìn sang, cười nhạt nói, “Múa chữ, chính là múa xếp hình chữ, chữ mà chúng ta đang nhìn thấy hiện giờ là chữ “An”, chắc chắn là định xếp chữ Thượng Nguyên An Khang.”

Nàng gật đầu: “Đẹp quá.”

Trúc Hàn đồng ý, “Đúng là rất đẹp.”

Xung quanh kẻ đến người đi, A Âm kéo ống tay áo chàng, nghiêng đầu hỏi, “Vậy A Âm thì sao?”

“A Âm…” Tiểu hòa thượng ngây ngẩn, xoay người đối mặt với nàng, dưới lớp vải lụa màu trắng, chỉ nhìn thấy gương mặt tinh nghịch, đôi mắt quyến rũ ẩn chứa tình cảm đang ngó chàng.

“A Âm là cô nương Đại Đường đẹp nhất trong lòng ta.”

Bất kể xung quanh rộn ràng náo nhiệt, kèm theo đó là tiếng vui cười hoặc tiếng trẻ con khóc rống thì tiểu tăng mặc áo đen và thiếu nữ mặc áo lam vẫn bốn mắt nhìn nhau, dưới lớp tay áo, đầu ngón tay lén lút chạm vào nhau.

Một thoáng sau, nàng kéo chàng chạy, Trúc Hàn cảm thấy khó hiểu, giọng nói tràn ngập mờ mịt, “Sao lại chạy?”

Nàng không quay đầu lại, không cho chàng nhìn ánh mắt đang lóe lên vẻ nghịch ngợm xấu xa, “Ta nhìn thấy tăng nhân chùa Tây Minh đi đến, chàng không định chạy sao?”

Hai người chạy không ngừng, xuyên qua không biết bao người đang chầm chậm dạo phố, những ánh đèn màu cam dần bị bỏ lại phía sau. Lúc này trong thành Trường An đâu đâu cũng ngập tràn niềm vui, chỉ ngoại trừ nàng và chàng. Họ giống như những con người đang chạy trốn, không ngừng tách khỏi nơi ồn ào huyên náo, càng đi càng xa.

Chàng bỗng nhớ đến lần trước.

Khi ấy ở hành lang chùa Bàn Nhược, nàng cũng kéo chàng đi, không cho chàng quay đầu lại. Nhưng tâm trạng của bây giờ và khi đó hoàn toàn khác nhau.

“Đây là đâu?”

Đến một nơi không có người, A Âm mở miệng hỏi trước. Tiểu hòa thượng thở hổn hển, kéo nàng vào trong.

Chỗ này là một miếu Thành Hoàng bị bỏ hoang, dựa vào trí nhớ có thể đoán nó nằm ở một góc ở phía Tây thành.

“Một ngôi miếu Thành Hoàng bỏ hoang ở phía Tây thành.”

A Âm sử dụng pháp thuật gom củi khô bị vứt bỏ về một chỗ rồi nhóm lửa. Hai người chạy một lúc đã đổ mồ hôi, bây giờ chầm chậm ngồi thư giãn, ngược lại cảm thấy hơi lạnh.

Chàng trầm giọng nói, “A Âm, ta cảm thấy chúng ta không cần phải chạy xa như vậy.”

“Hử?”

“Hôm nay là ngày hội Thượng Nguyên, trên đường phố người người chen chúc kề vai, cho dù nhìn thấy…” Chàng đỏ mặt hỏi, “Nàng làm gì thế?”

“Chàng nói tiếp đi, ta đâu có chặn miệng chàng.”

Nhưng mỗi một cái giơ tay nhấc chân của nàng đều không thành thật, Trúc Hàn cảm thấy chắc chắn là nàng cố ý dẫn mình đến đây.

Đến lúc cuối cùng, chàng không ngừng rên rỉ, “A Âm… A Âm… A Âm…”

Nàng giữ chàng, dịu dàng đáp, “A Âm ở đây…”

Chàng nói, “A Âm ở trong lòng Quan Trừng.”

Mãi đến ngàn năm về sau, A Âm cũng không thể kháng cự lại những đêm đèn đuốc dịu dàng nhàn tản như thế.

Nàng luôn cảm thấy, mỗi người hoặc là mỗi sinh linh trên trời dưới đất đều có một quãng thời gian vui vẻ nhất. Mà với A Âm, đêm hoa đăng sáng rực như ban ngày ở Trường An chính là khoảng thời gian vui vẻ nhất trong những năm tháng dài dằng dặc ấy, cũng là đêm ở cạnh nhau vui vẻ nhất của nàng và Quan Trừng.

Trong mấy vạn ngày đêm sau này, dù là nụ cười hòa với nước mắt, ngọt ngào trộn lẫn đắng cay thì nàng đều nói “thời gian vui vẻ nhất của ta đã qua”.

Bình Luận (0)
Comment