Quỷ Cái Vận Đồ Prada (The Devil Wears Prada)

Chương 8

“Đừng quay lại nhìn,” James thì thào, môi không động đậy. “Tôi nghĩ là chếch sau lưng chị tôi vừa phát hiện ra Reese Witherspoon.”

Tất nhiên là tôi quay phắt lại. James nói đúng: Reese đứng đó với ly sâm banh, đang ngả đầu ra sau cười. James phát ngượng vì sự tò mò của tôi, nhưng tôi không thế làm khác: Reese là một trong những nữ diễn viên mà tôi yêu thích nhất.

“James cưng, rất vui mừng vì anh đã đến dự buổi liên hoan nhỏ của tôi,” một người đàn ông mảnh mai xinh xắn vừa đến sau lưng chúng tôi thỏ thẻ. “Cậu đem ai tới cùng thế này?” Hai người hôn nhau.

“Marshall Madden, vua của sắc màu, xin giới thiệu với anh Andrea Sachs. Andrea hiện nay là...”

“... trợ lý mới của Miranda,” Marshall nói nốt câu và mỉm cười với tôi. “Tôi đã nghe hết mọi chuyện về cô rồi, bé con ạ. Chào mừng cô trong vòng tay gia đình. Hy vọng cô sẽ còn đến chơi. Tôi hứa là chúng ta sẽ cùng nhau làm gì đó cho... phong cách của cô.” Ông ta âu yếm xoa đầu tôi, nâng ngọn tóc để so sánh màu với chân tóc. “Đúng rồi, thêm một chút màu mật ong nữa thì cô sẽ là siêu mẫu mới. Cô bảo James cho cô số điện của tôi nhé. Hôm nào kiếm được vài phút rảnh rỗi thì cô cứ qua chỗ tôi, okay? Nhưng chắc là cô bé bận lắm!” Ông nói trong khi lượn qua phía Reese.

James thở dài và đắm đuối ngó theo ông. “Một bậc thầy,” anh thì thào. “Người xuất sắc nhất. Vĩ đại nhất. Đàn ông nhất. Nói thế vẫn còn quá ít. Thật tuyệt vời.” Anh mê muội nói. Nhưng – đàn ông nhất? Buồn cười thật. Trước đó nghe ai xài chữ ấy thì chắc tôi nghĩ đến Shaquille O’Neal nhảy lên ném bóng vào rổ – chứ không phải một thợ nhuộm tóc!

“Ông ấy thật tuyệt với, tôi cũng nghĩ như anh. Anh đã có gì với ông ấy chưa?” Có vẻ như đó sẽ là một đôi lứa tương xứng: trợ lý biên tập thẩm mỹ của Runway đi với nghệ sĩ làm tóc đắt nhất thế giới.

“Đừng có mơ hão. Ông ấy từ bốn năm nay chỉ có một bạn trai duy nhất. Không thể tin nổi. Bốn năm liền! Từ bao giờ dân gay có giá như bọn này lại chung thủy thế? Thật không công bằng.”

“Ơ kìa. Thế dân dị tính có giá mà chung thủy thì tốt hay sao? Nhưng, bạn trai tôi chung thủy thì okay.” Tôi rít một hơi thuốc thật dài và thổi mấy vòng khói khá tròn.

“Thôi đi Andy, chị hãy công nhận là cũng bõ công đi cùng tôi tới đây, đúng không? Hay đây không phải là dạ hội hoành tráng nhất mọi thời?” Anh mỉm cười nói.

Sau khi Alex bỏ buổi hẹn, tôi quyết định đi cùng James, chủ yếu vì anh cứ bám nhằng nhằng không dứt ra được. Trí tưởng tượng của tôi phong phú đến mấy cũng không nghĩ ra là một cuốn sách về màu tóc lại có thể hay ho được, nhưng bây giờ phải thú nhận là tôi bị ngạc nhiên một cách dễ chịu. Khi Johnny Depp đến chỗ James chào hỏi, tôi giật mình vì anh ta không những chỉ nói ra được một câu có chấm phẩy tử tế mà còn biết kể tiếu lâm dí dỏm. Và sướng nhất là được thấy Gisele Bỳndchen, người mẫu hot nhất trong giới người mẫu hiện tại, hóa ra chỉ là một người bé tẹo. Dĩ nhiên tôi sẽ còn sướng hơn nếu cô ta béo phục phịch hay mặt đầy trứng cá khiến các thợ sửa ảnh phải tút hàng tiếng đồng hồ, nhưng thật ra được chứng kiến cô ta lùn tịt là tôi đã hài lòng lắm rồi. Tóm lại là cho đến lúc này thì buổi tối hôm nay khá ổn.

“Nói thế thì có lẽ hơi quá lời,” tôi đáp và vươn người tới trước để quan sát một người đàn ông đẹp trai đang lui vào góc đằng sau bàn để sách. “Nhưng cho đến giờ thì mọi thứ đúng là không tồi tệ như tôi tưởng. Sau một ngày như hôm nay thì bất cứ cú lên giây cót nào tôi cũng thích.”

Sau cú xuất hiện bất thình lình và ra đi cũng bất thình lình của sếp, Emily thông báo tối nay lần đầu tiên tôi có nhiệm vụ đem cuốn SÁCH đến nhà Miranda. Cuốn SÁCH này là một tập hợp các trang bản thảo của tạp chí Runway, đóng lại to như cuốn danh mục điện thoại. Theo lời Emily kể lại thì công việc biên tập và xuất bản chỉ thực sự bắt đầu khi Miranda đã về nhà. Các chuyên viên đồ họa và biên tập viên phải liên lạc suốt ngày với bà vì đều đặn mỗi giờ một lần bà tung hê mọi thứ và bắt làm lại từ đầu. Chỉ đến tối, khi bà bắt đầu chơi với hai đứa trẻ thì các cộng tác viên khác mới chính thức bắt tay vào việc. Lúc đó mọi đề nghị thay đổi được thực thi, các bài báo được Miranda duyệt và đánh dấu bằng chữ MP to tướng trên bản thảo được hoàn tất. Sau đó biên tập viên gửi tất cả các dự thảo cho trợ lý nghệ thuật để lùa bài viết và tranh ảnh qua một chiếc máy dán chất dẻo lên mặt sau từng trang và in vào SÁCH. Khi mọi việc đã xong, cuốn SÁCH được nộp cho Miranda ở nhà để đọc kiểm tra. Thông thường thì Miranda nhận được cuốn SÁCH vào khoảng từ tám đến mười một giờ tối, tùy thuộc vào công đoạn sản xuất. Hôm sau bà đem SÁCH đến văn phòng để ban biên tập kiểm tra lại từ đầu đến cuối một lần nữa.

Khi biết là tôi vẫn muốn cùng James đi dạ hội, Emily nói giọng cay cú: “Chắc chị biết là chị chưa được ra khỏi đây trước khi hoàn thành cuốn SÁCH chứ?”

Tôi trố mắt. Còn James nom như sắp lấy đà lao vào bóp cổ Emily.

“Thế đấy, tôi buộc phải nói rằng đó là một phần công việc của chị mà tôi may mắn không phải làm nữa. Việc này đôi khi kéo dài rất, rất lâu, nhưng tối nào Miranda cũng muốn được thấy cuốn SÁCH, chị biết đấy. Sếp làm việc ở nhà. Hôm nay thì tôi ở lại lâu hơn và chỉ dẫn cho chị mọi việc, nhưng từ mai trở đi thì chị tự làm hết.”

“Okay, cám ơn chị. Liệu bao giờ sẽ xong nhỉ?”

“Sao mà biết được. Mỗi tối mỗi khác. Chị có thể sang phòng nghệ thuật hỏi xem sao.”

May mà SÁCH hôm nay xong khá sớm, khoảng tám rưỡi. Sau khi nhận nó từ tay trợ lý nghệ thuật mệt rũ rượi, chúng tôi cùng nhau đi xuống phố 59. Emily vác một núi quần áo vừa giặt là bọc trong bao nylon, cô giải thích cho tôi biết là việc nộp SÁCH luôn đi kèm với vận chuyển quần áo. Mỗi sáng Miranda đem quần áo bẩn tới văn phòng, một người trong bọn tôi (từ hôm nay trở đi chính là tôi) gọi điện cho bên giặt là, họ đến ngay và hôm sau trả quần áo đã giặt là xong. Chúng tôi treo chúng vào tủ ở sảnh, đợi tới lúc chuyển tiếp cho Yuri hay tự đem đến nhà Miranda. Công việc của tôi quả là ngày càng đòi hỏi nhiều chất xám hơn!

“Chào Rich!” Emily thân mật gọi người phụ trách đội xem đang phì phèo tẩu thuốc mà tôi đã làm quen hôm đầu. “Đây là Andrea, từ hôm nay tối nào chị ấy cũng đi nộp SÁCH. Ông lo cho chị ấy luôn có một ô tô tử tế nhé.”

“Được thôi, Tóc đỏ ạ.” Ông lấy tẩu khỏi mồm và trở vể phía tôi. “Tôi sẽ chăm sóc Tóc vàng cẩn thận.”

“Tuyệt quá. À, hôm nay xin ông cho thêm một xe đi theo nhé. Nộp xong SÁCH thì Andrea và tôi đi hai ngả khác nhau.”

Hai chiếc Limousine to tướng đi ra. Người lái xe phục phịch của xe thứ nhất nhảy ra khỏi xe và mở cửa. Emily lên xe trước tôi, nói với lái xe: “Cho đến nhà Miranda Priestly” và lôi điện thoại di động ra. Anh ta gật đầu và cho xe chuyển bánh.

“Hôm nào cũng vẫn một lái xe ấy à?” Tôi ngạc nhiên vì không thấy lái xe hỏi địa chỉ.

Emily ra hiệu cho tôi im lặng trong khi nhắn tin cho người ở cùng nhà rồi mới trả lời: “Không, nhưng công ty không có nhiều lái xe. Tôi đã đi đến hai chục lần với mỗi người rồi, do đó họ đều biết đường cả.” Cô lại bấm số điện thoại tiếp. Tôi quay lại và thấy chiếc xe thứ hai không chở ai đi cách sau một đoạn.

Chúng tôi dừng trước một ngôi nhà có bảo vệ, đặc trưng cho đại lộ Fifth Avenue: vỉa hè sạch bóng, bao lơn chỉn chu, tiền sảnh sáng dịu và thân thiện. Một người mặc áo đuôi tôm và đội mũ ra mở cửa xe và Emily bước xuống. Tôi ngạc nhiên vì nghĩ rằng chúng tôi chỉ đơn giản trao cho bảo vệ cuốn SÁCH và áo quần. Nếu tôi không nhầm – ở cái thành phố kỳ lạ này thì ai mà dám chắc – thì đó chính là công việc của những người canh cửa. Nhưng Emily đã lấy một túi da Louis Vuitton đựng chìa khóa trong chiếc túi Gucci của cô ra và dúi vào tay tôi.

“Tôi đợi ở đây. Chị đưa đồ lên gác, Penthouse A. Mở khóa cửa và đặt quyển SÁCH lên bàn con ở hàng lang, quần áo thì treo lên móc bên cạnh tủ, nhớ không treo vào tủ, mà cạnh tủ. Rồi đi ra. Bất kỳ trường hợp nào cũng không được gõ cửa hay nhấn chuông, sếp không muốn bị quấy quả. Ra vào lặng lẽ, chớ gây ồn ào!” Cô đưa tôi túi chìa khóa và lại quay ra bấm điện thoại đi động. Okay, tôi làm xong ngay. Một quyển sách và máy thứ áo quần chứ có gì mà vẽ chuyện.

Người gác thang máy mỉm cười thân thiện và lặng lẽ ấn nút “Penthouse” sau khi quay chìa khóa. Trông ông như một bà lão ốm yếu, buồn bã buông tay chấp nhận mọi ngang trái của số phận.

“Tôi đợi chị ở đây,” ông cúi đầu nói. “Chị chỉ cần một phút là cùng.”

Khu tiền sảnh trải thảm màu vang chát, dày đến nỗi tôi suýt nữa trẹo mắt cá khi móc gót giày vào. Trên tường dán giấy màu kem có sọc nhỏ li ti. Cánh cửa lò xo trước mặt tôi có chữ Penthouse B; tôi quay lại và nhận ra Penthouse A. Tôi phải hết sức tự chủ để không nhấn chuông khi nhớ đến lời cảnh báo của Emily và đút chìa khóa vào ổ. Trước khi kịp vuốt tóc cho gọn hay tự hỏi đằng sau cánh cửa có gì thì tôi đã bước vào một hành lang rộng, sáng sủa và ngửi thấy mùi sườn cừu thơm phức. Rồi tôi thấy Miranda, đang lịch thiệp đưa dĩa lên miệng, bên phải và bên trái bà là hai đứa nhỏ tóc đen đang chành chọe, chúng giống nhau như hai giọt nước, bên đối diện là một người đàn ông cao to với nét mặt đanh, tóc trắng như cước và mũi sư tử đang đọc báo.

“Mẹ ơi, mẹ nói em không được tự tiện vào phòng con và dùng quần bò của con, em không nghe lời con gì cả,” một trong hai đứa ngúng nguẩy nói với Miranda. Bà đặt dĩa xuống và uống một ngụm San Pellegrino với một lát chanh, đặt trên mặt bàn, phía trái!

“Caroline, Cassidy, đủ rồi. Mẹ không muốn nghe thêm câu nào nữa. Tomas, đưa món thạch bạc hà vào đi,” bà gọi. Lập tức một người đàn ông tiến vào, chắc là đầu bếp, bưng trên tay một khay bạc tinh xảo với chiếc bát con bằng bạc.

Tôi chợt nhận ra là tôi đã đứng đực ra đến ba mươi giây để quan sát họ ăn. Họ chưa thấy tôi. Nhưng trong khi rón rén đi tiếp thì tôi cảm thấy rõ tia nhìn trên lưng. Thiếu chút nữa thì tôi cất tiếng chào, nhưng sực nhớ lần gặp mặt Miranda mới đây tôi đã lắp bắp và xử sự ngu ngốc ra sao nên tôi ngậm ngay miệng. Cái bàn con đâu nhỉ, à, đây rồi. Đặt SÁCH lên đó. Okay, xong rồi, giờ đến lượt quần áo. Tôi ngơ ngác nhìn quanh, nhưng lúng túng đến nỗi không tìm ra cái móc để treo đâu cả. Bàn ăn lặng hẳn đi, và tôi cảm thấy rõ họ đang quan sát mình. Nhưng không ai hé môi lấy một tiếng. Không chào hỏi. Ngay cả hai cô bé cũng chẳng có vẻ ngạc nhiên khi một phụ nữ lạ hoắc đứng giữa nhà. Rốt cuộc tôi cũng phát hiện ra một chiếc tủ quần áo nhỏ sau cửa. Tôi cẩn thận treo quần áo lên thanh ngang.

“Không treo vào tủ, Emily,” Miranda từ tốn và chậm rãi nói. “Treo vào cái móc riêng cho chỗ quần áo này.”

“Ồ, à, xin chào!” Đồ ngu! Im mồm đi! Bà ấy không cần câu trả lời, hãy làm những gì bà ấy nói. Nhưng tôi không nhịn được. Thật vô lý khi không người nào chào tôi hay hỏi tôi là ai. Và bà ta gọi tôi là Emily! Miranda thích đùa chăng? Hay mù? Bà ta thực sự không biết rằng tôi đâu phải Emily, người đã làm cho bà hơn một năm nay? “Miranda, tôi là Andrea, trợ lý mới của bà.”

Im lặng. Một sự im lặng bao trùm lên tất cả, khó chịu, vô biên, choáng ngợp và đè nén.

Tôi biết là nói tiếp thì chẳng khác gì vác xẻng tự đào huyệt mình, nhưng tôi không thể đừng. “Xin lỗi là tôi đã sơ suất. Tôi treo đồ lên móc như bà nói rồi đi ngay.” Đừng dông dài! Bà ấy đâu cần đếm xỉa mi đang làm gì. Làm nhanh rồi biến đi. “Vâng, chúc ăn ngon. Hân hạnh được làm quen với mọi người.” Tôi quay ra. Thật khó tin là tôi không những chỉ mở miệng nói mà còn toàn thốt ra những lời ngu xuẩn. Hân hạnh được làm quen à? Có ai trong bọn họ nói một lời nào với tôi đâu cơ chứ?

“Emily!” Tôi nghe tiếng gọi sau lưng khi tay đã đặt lên tay nắm cửa. “Emily, đừng để chuyện đó xảy ra lần nữa! Chúng tôi không muốn bị quấy rầy.” Cánh cửa như tự mở ra, tôi đã ra đến tiền sảnh. Toàn bộ sự việc diễn ra chưa đầy một phút, nhưng tôi thấy mệt rũ ra như vừa bơi hết một chiều dài bể bơi thi đấu Olympic mà không một lần lấy hơi.

Tôi thả phịch người xuống chiếc ghế băng ngoài sảnh và hít một hơi thật sâu. Mụ già chết tiệt! Gọi tôi lần đầu là Emily thì cứ cho là nhầm lẫn, nhưng lần thứ hai đích thực là có chủ ý. Còn có cách nào hạ thấp và khinh rẻ một người tốt hơn là gọi sai tên, sau khi không thèm nhận mặt người đó trong nhà mình? Đã đành là tôi thuộc vào hình thái sinh tồn thấp nhất ở Runway – Emily không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để chứng tỏ cho tôi rõ điều đó – nhưng cớ gì mà cả Miranda cũng phải rắc muối vào vết thương ấy?

Có lẽ tôi sẽ ngồi đó suốt đêm và tưởng tượng ra cảnh bắn một loạt đại bác vào cánh cửa đề chữ “Penthouse A” nếu như không có tiếng đằng hắng của ông già gác thang máy ốm yếu đang kiên nhẫn chờ.

“Xin lỗi ông,” tôi nói khi vào thang máy.

“Không sao,” ông nói như gió thoảng trong khi mắt vẫn cắm xuống mặt sàn lát gỗ, “dần dần sẽ khá hơn.”

“Gì cơ ạ? Xin lỗi, cháu không nghe rõ ông nói gì…”

“Không có gì, không có gì. Ta đến nơi rồi. Chúc chị buổi tối tốt lành.” Cửa thang máy mở, tôi ra chỗ Emily đang nói to vào điện thoại. Cô tắt máy khi thấy tôi.

“Thế nào? Không có vấn đề gì chứ?”

Nếu không đoán trước là đằng nào cũng bị nghe chửi thì tôi đã kể cho cô nghe những gì đã xảy ra. Tiếc rằng cô không phải là một đồng nghiệp đồng cảm, được như thế thì chúng tôi sẽ là một nhóm ăn ý. Quên luôn chuyện này đi.

“Mọi việc ổn cả. Không có vấn đề gì. Họ đang ăn tối, tôi làm mọi việc chính xác như chị dặn.”

“Tốt. Vậy thì từ hôm nay tối nào chị cũng làm như thế. Xong xuôi thì chị bảo xe đưa về nhà là hết việc. À, chúc chị vui vẻ ở dạ hội hôm nay của Marshall. Tôi cũng thích tới đó lắm, nhưng hôm nay lại có hẹn đắp sáp tẩy lông để mặc bikini, không bỏ được – chị có tin là chẳng còn buổi hẹn nào trống trong hai tháng tới không? Bây giờ đang giữa mùa đông và mọi người đều đi nghỉ đông mới đúng chứ? Tôi không hiểu tại sao toàn bộ đàn bà New York lại đi đắp sáp vào lúc này. Biết làm sao được, phải sống với lũ thôi.”

Đầu tôi như vỡ bung ra vì nghe Emily nói hươu vượn, chẳng thèm để ý tôi có lắng nghe hoặc trả lời. Nếu biết trước là cô không dứt lời lảm nhảm chuyện đắp sáp thì tôi thà nghe chửi vì quấy bữa tối của Miranda còn hơn.

“Chà, đúng là không may. Bây giờ tôi phải đi đây. Tôi hẹn James lúc chín giờ mà bây giờ đã quá mười phút rồi. Mai gặp lại nhé.”

“À, chuyện ngày mai nữa. Bây giờ đã quen việc rồi, chị sẽ bắt đầu làm việc vào bảy giờ, còn tôi đến lúc tám giờ. Miranda đã được thông báo. Trợ lý chính đi làm muộn hơn, vì phải làm việc nặng hơn.” Tôi chỉ muốn vặn cổ cô ta lập tức. “Sáng sớm chị làm những việc thông thường như tôi đã nói. Khi cần thì gọi điện cho tôi, nhưng chắc chị cũng đã thạo việc rồi đấy. Bye,” cô leo lên ghế sau của chiếc ô tô thứ hai vẫn đợi trước nhà.

“Bye!” Tôi toác miệng cười giả dối. Lái xe định ra mở cửa nhưng tôi nói cứ để tôi tự làm. “Cho tôi đến Plaza.”

James đợi tôi ở bậc tam cấp bên ngoài, mặc dù trời lạnh đến năm độ là ít. Anh chàng đã về nhà thay đồ và trông gày teo tóp trong chiếc quần da đen và áo pull trắng, nhưng nó tôn nước da rám nâu nhân tạo cực gợi cảm giữa mùa đông. Trong chiếc váy GAP mini tôi còn thua xa.

“Chào Andy! Chị đã nộp SÁCH ổn thỏa rồi chứ?” Trong khi xếp hàng gửi áo khoác ngoài, người đầu tiên tôi nhìn thấy là Brad Pitt.

“Tôi có nhìn đúng không nhỉ, Brad Pitt ở đây?”

“Đúng thế, Marshall làm đầu cho Jennifer mà. Nghĩa là cô ta cũng phải có mặt ở đâu đó. Lần sau thì chị nên tin là đi theo tôi sẽ không uổng công. Ta uống chút gì đi.”

Sau Brad Pitt là Reese Witherspoon rồi đến Johnny Depp, đến một giờ đêm thì tôi đã cạn bốn ly và hăng hái tán gẫu với một trợ lý thời trang của tạp chí Vogue. Chúng tôi tranh luận về tẩy lông bằng sáp để mặc đồ tắm hai mảnh. Rất say sưa, tôi hoàn toàn không phiền lòng tí nào. Ơn Chúa, tôi nghĩ bụng trong khi rẽ đám đông đi tìm James và mỉm cười hú họa về phía Jennifer Aniston, bữa dạ hội này khá ổn đây. Nhưng tôi đã khá chếnh choáng và chưa đầy sáu tiếng nữa lại phải xuất hiện ở văn phòng rồi, về đến nhà cũng đã nửa đêm. Tôi phát hiện ra James đang mải tán tỉnh một thợ nhuộm tóc của Marshall. Vừa định lẳng lặng chuồn thì tôi cảm thấy một bàn tay đặt lên ngang eo.

“Ê,” anh chàng đẹp trai mà tôi vừa nãy thấy trong góc gần bàn sách gọi. Tôi chờ câu xin lỗi, chắc là anh ta nhầm tôi với bạn gái mình từ phía sau. Nhưng anh ta cười trơ tráo: “Chị có vẻ không nhiều lời lắm nhỉ?”

“Thế hả, tôi đoán là anh cũng chỉ nói được chữ ê thôi, đúng không?” Andy, ngậm mồm lại đi! Tôi thầm trách mình. Một chàng trai như trong mộng đột nhiên bắt chuyện với mi ở dạ hội toàn nhân vật quan trọng, còn mi thì phản công ngay. Nhưng có vẻ như anh chàng không lấy đó làm bận tâm, thậm chí còn ngoác miệng cười to hơn.

“Xin lỗi,” tôi khẽ nói và nhìn xuống ly rượu gần cạn của mình. “Ta bắt đầu lại cho tử tế đi, tên tôi là Andrea.” Tôi đưa tay ra bắt, anh chàng muốn gì ở tôi nhỉ?

“Bắt đầu như thế cũng chẳng dở đâu. Tôi là Christian. Rất vui được làm quen chị.” Anh vuốt lọn tóc nâu rủ xuống mắt trái và uống một ngụm trong chai Budweise. Trông anh ta quen quen, nhưng tôi không nhớ từ đâu.

“Bud à?” Tôi hỏi và chỉ vào tay anh. “Tôi không ngờ là người ta xài thứ đồ cao cấp này ở một dạ hội như hôm nay.”

Anh cười khùng khục. “Chị quen nghĩ gì nói nấy, đúng không?” Chắc tôi trông lúng túng lắm, vì anh ta vừa cười vừa nói tiếp: “Không sao, không sao, thế là tốt. Và cũng hiếm nữa. Nhất là trong ngành này. Chị biết không, đơn giản là tôi không thể chịu được cảnh uống bằng ống hút từ một chai sâm banh con con. Mất cả vẻ đàn ông. Thế là tay phục vụ bar phải chạy đi kiếm đâu đó trong bếp cho tôi chai bia này.” Lại một lọn tóc nữa rủ vào trán, nhưng anh vừa gạt lên thì tóc lại xõa xuống. Anh lấy bao thuốc từ túi áo khoác thể thao đen ra mời tôi. Tôi lấy một điếu và làm rơi ngay trước mũi giày anh ta, nhưng nhờ đó mà tôi có dịp thẩm định anh chàng từ dưới lên: giày lười Gucci màu đen cực hot, quần bò Diesel trễ cạp hơi loe, mài đúng chỗ và gấu hơi sờn, thắt lưng đen, hình như cũng đồ Gucci, T-shirt vải cotton trắng đơn giản, chỉ có con mắt trong nghề sành điệu mới nhận ra là của Armani hay Hugo Boss, chắc chỉ mặc lên để khoe nước da rám nâu tuyệt đẹp. Chiếc áo khoác đen trông rất đắt tiền, cắt đẹp, có thể may đo cũng nên, bó khít thân hình cao lớn trung bình nhưng sexy trên trung bình. Song đôi mắt xanh dương mới thực sự nổi bất. Xanh nước biển, tôi nghĩ bụng, hay xanh chai? Độ cao và toàn bộ thân hình hơi giống Alex, tuy nhiên ở đẳng cấp trội hơn. Ngang tàng hơn một chút, điển trai hơn một chút. Và già hơn hẳn, chừng ba mươi tuổi. Chắc cũng thuộc loại ma lanh.

Anh bật lửa ngay và ghé lại gần để điếu thuốc dễ bắt lửa hơn. “Có gì khiến chị đến những buổi dạ hội kiểu này, Andrea? Có phải chị là một trong những kẻ may mắn được Marshall Madden chăm sóc?”

“Được thế thì đã tốt. Nhưng cái gì chưa đến thì còn có thể đến, ông ta nói khá rõ là tôi có thể ghé qua làm tóc mà,” tôi cười và nhận ra mình đã ra sức gây ấn tượng cho anh chàng lạ mặt này. “Không, tôi làm việc ở Runway, một anh bạn đẹp trai đã kéo tôi đi cùng.”

“Tạp chí Runway, đúng không? Chỗ ấy hay đấy, dành cho những ai ưa roi vọt. Chị có thích ở đó không?”

Tôi chiếu cố là anh chàng ám chỉ công việc chứ không định nhấn mạnh chuyện roi vọt. Nhưng nghe có vẻ như anh ta biết mình nói gì. Có thể kinh nghiệm bản thân cho anh biết là nội bộ không hoành tráng như bên ngoài nhìn vào. Có nên kể cho anh chuyện kinh dị tối nay là tôi đã đi nộp SÁCH ra sao không nhỉ? Không, không, biết anh ta là người thế nào… Biết đâu anh ta cũng là người của Runway, trong một ban phòng xó xỉnh nào đó mà tôi chưa biết, hoặc ở một tờ báo khác của Elias Clark. Hay có khi, biết đâu đấy, là một trong những phóng viên lá cải mà Emily vẫn cẩn thận dặn tôi tránh xa: “Bọn ấy luôn xuất hiện bất ngờ. Có đủ mẹo để lừa mình và lượm tin tức về Miranda hoặc Runway. Nhớ chú ý.” Chứng hoang tưởng bị theo dõi ở Runway không rời tôi nửa bước.

“Cũng được,” tôi trả lời thật thản nhiên và lập lờ. “Ở đấy cũng lắm chuyện lạ đời. Tôi không quan tâm đến thời trang lắm, tôi thích viết bài hơn. Nhưng bước khởi đầu như thế cũng không dở. Còn anh làm gì?”

“Tôi làm nghề viết.”

”Thật à? Chắc là thú vị lắm.” Tôi hy vọng là nghe câu này không có vẻ khinh mạn lắm, nhưng quả thật tôi ngán đến tận cổ tất cả những kẻ ở New York tự gọi mình là văn sĩ hay diễn viên hay thi sĩ hay nghệ sĩ. Tôi đã viết báo tường ở đại học, tôi nghĩ bụng. Và hồi ở trường phổ thông, thậm chí một tiểu luận của tôi còn được đăng trên nguyệt san. Vì thế mà tôi cũng là nhà văn sao? “Anh viết gì?”

“Chủ yếu là sách văn học. Hiện giờ tôi đang viết tiểu thuyết lịch sử đầu tay.” Anh làm một ngụm bia nữa và lại cố gạt mớ tóc nhiễu sự rủ xuống trán.

Tiểu thuyết lịch sử đầu tay đồng nghĩa với việc anh đã viết vài cuốn tiểu thuyết khác ngoài đề tài lịch sử. Được đấy. “Về đề tài gì?”

Anh nghĩ một lát. “Một truyện về cuộc sống ở đất nước này trong Thế chiến thứ hai, theo cách nhìn của một cô gái trẻ. Tôi sắp hoàn tất phần thu thập tài liệu, còn phải đánh máy các bài phỏng vấn và mấy việc tương tự. Do vậy tôi chưa viết được nhiều, nhưng khởi đầu khá thuận lợi…”

Anh tiếp tục kể, nhưng tôi chỉ nghe nửa tai. Thôi xin bố kể in ít cho con nhờ. Truyện này tôi nhớ ra rồi, có một bài viết về nó trong tờ The New Yorker, bình luận về cuốn tiểu thuyết tương lai bắt cả văn giới phải nín thở ngóng đợi và nữ nhân vật chính trong đó được tả thực như một người hùng đầy ấn tượng. Thì ra tôi đang trò chuyện với Christian Collinsworth, một thần đồng văn học từng xuất phát từ thư viện đại học Yale ở lứa tuổi hai mươi. Cuốn sách đầu tiên của bố này được giới phê bình khen ngợi không tiếc lời như một trong những tác phẩm đỉnh cao của thế kỷ hai mươi. Kế đó là hai tiểu thuyết nữa mà quyển nào cũng trụ lâu trên danh mục sách bán chạy nhất. Bài báo trong The New Yorker kèm phần phỏng vấn tác giả gọi Christian “không chỉ là ngôi sao mới mọc” trong làng sách, mà còn là một người đàn ông với “ánh mắt và phong thái sát thủ cũng như đủ sức quyến rũ bẩm sinh, đủ bảo đảm thành công suốt đời trước phái yếu, ngay cả trong trường hợp vô tưởng là thành công văn học không còn nữa.”

“Wow, kinh khủng quá,” tôi nói, quá mệt mỏi để nghĩ ra một câu trả lời hóm hỉnh hay khôi hài hay lanh lợi. Nhà văn vĩ đại này có lý do gì để lãng phí thời gian với tôi cơ chứ? Có lẽ anh ta chỉ định giết thời gian trong khi đợi bạn gái đứng làm mẫu chụp ảnh với giá 10.000 dollar/ngày. Dính dáng gì đến mi hả Andrea? Tôi nghiêm khắc tự hỏi mình. Chớ quên là mi đã có một người bạn trai vô cùng đáng yêu và giàu lòng tương ái vè dễ thương. Chấm dứt được rồi đấy. Lập tức tôi thoái thác phải về nhà ngay bây giờ, và Christian lộ vẻ thích thú.

“Chị sợ tôi,” anh nhận xét với nụ cười giễu cợt.

“Sợ anh? Có lý do gì trên đời này khiến tôi sợ anh cơ chứ? Hay là…” tôi không thể không trêu ngược lại; chính anh ta gây ra tình huống đó.

Anh nắm cùi tay tôi và khéo léo xoay tôi ra phía cửa. “Nào, tôi đưa chị ra taxi.” Chưa kịp nói rằng tôi đủ tỉnh táo để tự tìm ra đường về nhà và rất vui được nói chuyện với anh nhưng anh đừng tưởng sẽ được cùng tôi về nhà thì tôi đã ra đến ngoài Plaza và đứng trên tấm thảm đỏ cạnh anh.

“Hai người cần taxi không?” Người canh cửa hỏi.

“Vâng, một xe cho cô này,” Christian đáp.

“Không, cám ơn, tôi có xe rồi,” tôi nói và trỏ sang dãy xe đang xếp hàng đợi trên phố 58 trước Nhà hát Paris.

Không nhìn anh nhưng tôi có cảm giác là anh lại mỉm cười. Nụ cười sát thủ. Anh đưa tôi ra xe, mở cửa và lịch thiệp khoát tay về phía ghế sau.

"Cảm ơn anh, Christian." tôi nói kiểu cách và chìa tay ra bắt để từ biệt. "Thực sự hân hạnh được làm quen anh."

"Tôi cũng thế, chào Andrea." Anh nắm tay tôi chìa ra nhưng không lắc mà áp môi lên. "Hy vọng là chúng ta sớm tái ngộ." Tôi đã thả người xuống ghế saumà không bị vấp chân hay luống cuống, tập trung tinh thần để không đỏ chín mặt mũi lên vì thẹn, tiếc rằng quá muọn. Anh đóng cửa rồi nhìn theo xe.

Con người thay đổi cũng lạ, cách đây hai tháng tôi chưa khi nào ngồi trong một chiếc xe Limousine, giờ thì gần như chuyện thường tình khi tôi có một lái xe đưa đi suốt sáu tiếng đồng hồ. Trước đây tôi chưa thực sự tiếp xúc với ai đó gọi là hơi hơi nổi tiếng, song hôm nay tôi đã sánh vai cạnh các nhân vật nổi tiếng của Hollywood, lại còn cho một trong số những chàng trai độc thân và rõ ràng cao giá nhất New York City hít tay - vâng, đúng thế, anh ấy đã hít tay tôi! Không, trò này chẳng có ý nghĩa gì cả, tôi nhắc đi nhắc lại để chính mình đừng quên, đó là một phần trong thế giới mà mi không có chỗ. Có thể nhìn từ bên ngoài thì rất hay, tôi nghĩ bụng, nhưng ở đó mi sẽ lạc vào ma trận ngay. Tuy nhiên tôi không thể rời mắt nhìn xuống tay và cố nhớ lại những chi tiết cuối cùng khi anh ta hôn lên đó, rồi thọc bàn tay tội lỗi ấy vào túi xách để lấy điện thoại ra. Tôi bấm số Alex và tự hỏi, nếu nói chuyện với anh thì nói chuyện gì bây giờ
Bình Luận (0)
Comment