Chương 21:
"Bên ngoài tình huống thế nào?" Khương Hằng lại hỏi, "Bọn chúng sẽ đánh vào sao?"
Hạng Châu nghĩ nghĩ, nói: "Không dễ giải quyết a. Sau này ta lưu lại......"
Liền vào giờ phút này, bên ngoài truyền đến tiếng bước chân.
Hạng Châu mang lên khăn che mặt, đang muốn đứng dậy, Khương Hằng lại vội vàng ấn y xuống một chút, ý bảo an tâm.
Hắn đã ở trong cung Tấn hiều năm, nghe được ra đó là tiếng bước chân của ai, quả nhiên, không bao lâu Triệu Kiệt xuất hiện ở ngoài cửa.
Một khắc Triệu Kiệt thấy Hạng Châu, lập tức đưa tay ấn ở trên thân kiếm, nhưng thực mau đợi đến khi gã nhận ra là Hạng Châu, lại thả tay xuống.
"Lại là ngươi hả người câm?" Hạng Châu ngữ khí nhẹ nhàng, Khương Hằng lại nghe ra ý khác.
Khương Hằng mờ mịt nói: "Các ngươi quen nhau?"
Triệu Kiệt không có trả lời, nhìn Khương Hằng một cái, ngón tay ngoéo một cái, phảng phất như không hề có đem Hạng Châu đặt ở trong mắt.
Khương Hằng cảnh giác nhìn gã, nó không trả lời, chỉ thấy gã mặc một thân đen xì, cao hơn Hạng Châu, tay trái cầm một cái móc sắc bén, có thể phanh ngực mổ bụng người ta bất cứ khi nào, tựa như lệ quỷ truy hồn trong đêm.
Thích khách lại nói: “Y không giao cho ngươi thứ gì quan trọng chứ?” Đồng thời thăm dò món đồ được bọc trong bao vải vàng, viền ngoài như kim tỉ mà Khương Hằng đang giấu trong ngực. Nơi vốn nên là lông mày trên mặt gã trơ trụi, vừa hé mắt đã thấy tròng trắng dã vô thần, cứ như người chết. Gã cất giọng thâm trầm: “Anh bạn nhỏ, y có sai ngươi giao cái gì cho ai không?”
Khương Hằng lại lùi ra phía sau, lưng đụng phải cây, không còn đường lui nữa.
“Muốn tới vậy cơ à,” Khương Hằng lạnh lùng nói, “sao không tự mình đi đòi thiên tử? Hoá ra ngươi cũng sợ ai đó hả?”
Dường như thích khách kia không mảy may ngờ được Khương Hằng chỉ cỡ thiếu niên mà lại già đời thế, chẳng những không sợ gã, mà còn hết sức xem thường.
“Ha ha,” thích khách nói, “thú vị đấy. Còn nhỏ mà đã làm thái sử, quả nhiên đáng gờm.”
Khương Hằng nói: “Dù là cái gì, ta cũng sẽ không đưa cho ngươi, ngươi có gan thì cứ ra tay cướp đoạt, thậm chí giết ta cũng không sao cả.”
Sau đó, Khương Hằng lại tiến một bước về phía thích khách, hạ thấp giọng nói: “Nơi này chỉ có hai ta, người trong thiên hạ sẽ không biết đâu. Cướp nó đi, đưa cho chủ nhân của ngươi, giao cho quốc vương ấy, dù là quân chủ nước nào cũng có thể kế thừa thiên hạ chính thống, ngươi cũng sẽ lập được đại công, đúng không nào?”
Khương Hằng nhướn mày, thần bí nói: “Chỉ là không có ta tự tay trao di chiếu của thiên tử, ngươi cảm thấy như thế có được không? Chỉ sợ lại kéo các nước khác tới chinh phạt, rơi vào kết cục mất nước?”
Sắc mặt thích khách khẽ biến, Khương Hằng chỉ buông nhẹ vài câu đã gãi đúng chỗ ngứa. Cái các nước chư hầu muốn là quyền kế thừa biểu tượng thiên tử chính thống, truy ngược mấy đời thì nước nào cũng có quan hệ thông gia với vương thất cả. Ai cũng muốn kim tỉ, có nó rồi có thể hiệu lệnh các nước chư hầu trên danh nghĩa.
Nhưng nếu không có di mệnh lâm chung của Cơ Tuần thì lại là việc khác, vì đó là đồ ăn cướp. Dĩ nhiên sẽ bị các nước chư hầu tạm thời dẹp bỏ thành kiến, liên minh thảo phạt.
Thích khách kia rõ ràng đã được dặn dò cẩn thận trước khi đến, nhất thời cũng không chắc chắn chủ ý có phải ra tay cướp đoạt trắng trợn hay không.
Nhưng chỉ một khắc ngắn ngủi vậy thôi, sự việc đã không còn do gã định đoạt. Một luồng gió mạnh ập tới trong nháy mắt, Khương Hằng lập tức lui lại, trốn sau cái cây, chỉ thấy một cái bóng kéo theo vệt máu lóe lên như chớp, bổ nhào vào mặt thích khách!
“Ngươi tới muộn rồi.” Giọng nói vô tình của Hạng Châu cất lên, mang theo một luồng sát khí ập vào mặt!
Con mắt Khương Hằng lập tức phản chiếu bông tuyết trắng trời, chỉ thấy thích khách mặt mày tàn độc kia quả quyết xoay người một cái, để lộ móc câu trong tay. Hạng Châu đạp một chân lên vách tường, chạy tiếp hai bước lấy đà lao ra, vung kiếm!
Tiếng kim loại va chạm leng keng, Hạng Châu lắc cổ tay một phát, chuỗi hạt trên tay bắn như mưa hoa đầy trời! Thích khách kia lùi lại, phi thân ra sau tường, gã giơ tay lên, Hạng Châu đạp một chân trên tường.
Chỉ kịp thấy một con dao găm lấp lánh lao vội về phía Khương Hằng đang nấp sau cây!
Chỉ trong giây lát, Hạng Châu đã tới trước nó, tay không chặn đường dao bay về phía Khương Hằng, chớp mắt qua đi, bàn tay hắn đã đầm đìa máu, dao găm vô cùng sắc bén, đâm xuyên bàn tay của hắn, bị xương cản lại.
Khương Hằng kêu to một tiếng, ngay sau đó là tiếng cười dồ dại của thích khách kia, gã cũng biến mất luôn sau bức tường.
Hạng Châu không đuổi theo nữa mà dừng bước lại.
Khương Hằng chạy ra khỏi chỗ cái cây, Hạng Châu cau chặt hàng mày, nhổ dao găm trên tay, ném xuống đất.
Khương Hằng lập tức xé vạt áo, muốn băng bó cho hắn, Hạng Châu lại giơ một tay giữ vai Khương Hằng, bảo: “Ám sát thất bại, chỉ đâm Thân Trác được một nhát kiếm, không biết đã chết chưa. Ta cũng quá coi thường thái tử Linh rồi, quân Ung cũng đến nữa! Lúc trước tuyệt đối không ngờ bọn chúng tới nhanh như vậy, đi thôi!”
“Cảnh Thự đâu rồi?” Khương Hằng nâng cánh tay Hạng Châu lên, vòng một tay quanh eo hắn. Hạng Châu thất tha thất thểu, hít thở nặng nề, nói: “Ra khỏi thành tìm nó, ra cổng Tây, thồi còi làm tín hiệu…”
“Chú chảy nhiều máu quá!” Khương Hằng nói lớn.
Toàn bộ vai, dưới sườn Hạng Châu đều trúng tên, máu chảy dọc theo trang phục đi đêm của hắn, thấm đẫm nửa thân hình mảnh khảnh, giọt máu tím đen rơi trên nền tuyết, tay lại thêm vết thương mới, máu đỏ tươi không ngừng nhỏ giọt.
“Ta không đi nổi nữa,” Hạng Châu hít thở nặng nề, “con…”
Hắn vốn muốn Khương Hằng tự mình trốn trước, nhưng bốn phương tám hướng đều là quân binh hỗn loạn, Khương Hằng không có khả năng tự vệ, nếu bị đuổi kịp, nhất định sẽ bị tên loạn bắn chết trên tuyết. Cho dù bản thân sức cùng lực kiệt, nếu thật sự phải ra tay, hắn vẫn có thể miễn cưỡng chiến đấu tiếp với mấy binh sĩ tầm thường.
Khương Hằng ngắt lời Hạng Châu, bảo: “Phải tìm thuốc, cầm máu cho chú trước đã.”
Hạng Châu nói: “Không có gì đáng ngại… Không có gì đáng ngại… Nơi đó có chiếc xe… Nhìn thấy chưa?”
Khương Hằng nhìn thấy một chiếc xe chở củi nhỏ, vội đỡ Hạng Châu đi qua, cho hắn nằm trên xe, sau đó quấn dây thừng trước người mình, giật mấy phát rồi kéo.
Hạng Châu rên một tiếng, đầu ngả xuống, vắt kiệt chút sức lực cuối cùng.
“Sẽ ổn thôi.” Khương Hằng sốt ruột nói, “Tới hiệu thuốc trước đã.”
Hạng Châu run giọng: “Rời thành trước… Mười ngày trước, ta đã đưa thư cho tiên sinh, người cũng sắp tới rồi, chỉ cần người tới kịp…”
“Ai cơ?” Khương Hằng quay đầu lại hỏi.
Sắc mặt Hạng Châu tái nhợt, trên xe gỗ toàn máu của hắn, thuận theo càng xe chảy xuống, để lại hai vệt máu trên tuyết.
Chiến mã xông qua, Khương Hằng suýt bị xô đổ, lập tức quay lại chắn trước Hạng Châu.
Người tới là một kỵ binh Ung mặc giáp đen, y cưỡi ngựa lao nhanh, đuổi theo hai lính bộ binh nước Lương, xoay đao phóng ra chém chết người ngay tại chỗ.
Kỵ binh cao ngạo trên ngựa, đầu đội mũ giáp, quay đầu nhìn về phía Khương Hằng và Hạng Châu đang nằm trên xe.
“Dẫn hắn qua đây.” Hạng Châu thấp giọng nói, trong tay chụp một đồng tiền.
Đây là lần đầu tiên trong đời Khương Hằng cảm thấy mình cách cái chết gần như vậy.
Kỵ binh kia có vẻ vẫn đang do dự, có nên giết đứa nhóc này không, nhưng mà phương xa lại gióng trống gọi quân Ung toàn thành quay về, kỵ binh bèn quay ngựa bỏ đi.
Khắp nơi trong thành đều đang nổi lửa, đâu đâu cũng có quân Lương và quân Trịnh đi cướp. Sau khi bọn chúng vào thành, mệnh lệnh đầu tiên nhận được là tranh đoạt thiên tử, nhưng thiên tử lại đốt một mồi lửa thiêu cháy điện chính. Quân Trịnh như đàn sói, thấy không trục lợi được nữa, bắt đầu lùi về kiếm món hời khác, xông vào tông miếu tranh cướp chín đỉnh đồng khổng lồ tượng trưng cho vương quyền.
Thế nhưng thái tế đã sớm chuẩn bị, cùng lúc đó, một mồi lửa cũng thiêu rụi luôn tông miếu.
Trước hành vi đồng quy vu tận quá sức thảm khốc, tông miếu đời đời tộc Tấn bị biến thành một ngọn đuốc. Trong ngọn lửa tàn độc, đỉnh đồng chảy thành nước, ngay lúc liên quân mở cửa tông miếu, nước đồng lập tức tuôn ra như biển cả thịnh nộ.
Nước đồng đỏ chói ôm theo thái tế đã sớm tan thành tro bụi, cùng ngọn lửa phẫn nộ của đám thần tử Tấn, từ trên đài cao trào xuống như trời phạt.
Thi thể, máu tươi, tàn lửa… Lửa bừng Lạc Dương bắt đầu từ điện chính, tông miếu lan khắp hoàng cung, nuốt chửng cả đội quân xông vào. Binh sĩ đã giải tán, người dân đã trốn khỏi Lạc Dương, chỉ còn mấy trăm lão thần oanh liệt tuẫn quốc.
Ngày hôm đó, hàng ngàn hàng vạn bách tính Lạc Dương rời nhà di tản, từ vùng ngoại ô xa xa ngắm nhìn thiên tử của họ chôn thân trong biển lửa.
Khương Hằng nhặt được một thanh kiếm, ôm dây kéo xe ở bắc thành, gian nan bước chân, khói đặc hun cho nó không ngừng ho khan.
“Có người đuổi theo.” Khương Hằng run giọng.
Nó đã ra khỏi cổng thành phía bắc, Hạng Châu hôn mê, tay còn lại nắm thật chặt một cái còi trúc.
Hẻm Linh Sơn, hơn mười binh sĩ hiệp lực kê chuông đồng vương đô lên đỉnh vách đá, năm ấy rơi mấy trận tuyết lớn, tuyết ngập đến đầu gối, đỉnh núi đọng tuyết đã đến cực hạn.
Binh sĩ nói: “Cảnh đại nhân, quân Lương đã vào thành rồi, chúng tôi phải đi thôi, vợ con vẫn còn ở trong thành.”
“Đi đi,” Cảnh Thự không ngừng thở dốc, thành Lạc Dương xa xa bừng bừng ánh lửa, “tất cả hãy đi đi.”
“Không có cột đụng,” binh sĩ lại nói, “làm sao đây?”
Cảnh Thự không trả lời.
Các binh sĩ đồng loạt hành lễ với Cảnh Thự, sau đó rời đi. Cảnh Thự cúi đầu nhìn bức huyết thư cuối cùng của Triệu Kiệt, thả trôi trong gió lạnh, huyết thư theo gió bay đi, rơi trên nền tuyết trong hẻm Linh Sơn. Sau vài tiếng chuông, tất cả đã kết thúc, tuyên cáo với cả thiên hạ, Đại Tấn đã diệt vong.
Cậu không biết hoàng cung đã nổi lửa hay chưa, trong đêm tối không nhìn rõ được gì, vài lần cậu muốn quẳng chuông đồng đó rồi về. Nhưng một câu hứa hẹn của Hạng Châu đã chống đỡ cậu.
Đó là lời hắn nói với Cảnh Thự khi trèo qua tường thành lúc mới tới Lạc Dương, trời vừa chạng vạng tối.
“Ta sẽ bảo vệ thằng bé,” Hạng Châu nói với Cảnh Thự, “nhất định đấy.”
Có lẽ là xuất phát từ niềm tin xưa nay đối với Hạng Châu, có lẽ là cậu hiểu trên đời này vẫn còn một người giữ vững lời hứa với Chiêu phu nhân. Nếu không thì hắn đâu cần tốn công lặn lội ngàn dặm xa xôi, lên đường tiến vào Lạc Dương.
Nguyên nhân chỉ có một, Hạng Châu sợ thành phá rồi mà Khương Hằng vẫn cứ ở lại trong thành chờ mẹ, bỏ mạng oan uổng giữa đám loạn quân.
Nhất định phải sống sót đi ra. Cảnh Thự thầm nghĩ.
Quân Lương và quân Trịnh đã xông phá cổng thành, quân Ung cấp tốc hành quân xuôi nam với thế sét đánh không kịp che tai, gây bất ngờ cho tất cả mọi người. Thậm chí Triệu Kiệt còn không nhận được bất kỳ tin tức nào về việc quân Ung xuất quan, nguyên nhân chỉ có một – căn bản bọn chúng không định để cho bất kỳ ai biết.
Hai mươi năm rồi quân Ung chưa ra khỏi Ngọc Bích Quan, mục đích đã quá rõ ràng, Trấp Tông phải thừa dịp liên minh bốn nước chưa thành mà tập kết, đánh nhanh thắng nhanh, chặn đứng tất cả bọn họ ở Lạc Dương, sau đó diệt sạch.
Đã mất cơ hội ăn chắc giành được thiên tử, người dân Lạc Dương sống hay chết bọn chúng cũng chẳng quan tâm, phái sứ giả đi trước thông báo là đã đạt mục đích. Lạc Dương trước mắt như cái lồng sắt, sinh linh bên trong, trên tới thiên tử, dưới tới súc sinh, không lối lên trời, không đường xuống đất, chờ đợi bọn họ là trận hỗn chiến tung trời lật đất. Tất cả mọi người đều sẽ bỏ mạng trong tòa thành này, chết dưới gót sắt của bốn nước Trung Nguyên.
Nhưng Triệu Kiệt đâu dễ đang buông tha cho chúng, dù chính mình táng thân nơi biển lửa, hắn cũng phải bắt liên quân trả một cái giá đau thê thảm.
Cổng bắc mở ra một con đường cho toàn quân, trên con đường này chỉ có mình Cảnh Thự trông coi chiếc chuông tang sáu trăm năm ròng của non sông Đại Tấn, sắp được gõ vang.
Khương Hằng lảo đảo kéo xe, mặt mũi đen sì.
“Toàn là người!” Khương Hằng quay đầu bảo Hạng Châu, “Chúng ta không qua nổi!”
Cổng tây mưa tên ngập trời, quân Trịnh mới đầu trở tay không kịp đã bình tĩnh lại, bắt đầu thu dọn binh tàn, đánh một trận giằng co với quân Ung. Đồng thời, quân Lương giết thẳng một đường vào từ cổng thành đông, máu tươi phủ kín đường lớn. Cổng nam lại là nơi quân Ung đột nhập, Khương Hằng trông thấy thùng lửa bay vào thành như sao băng.
Phương xa vang tiếng báo hiệu, lại thêm đội quân một nước chạy tới, quân kỳ chữ “Đại” tung bay trên lầu thành.
Thế nhưng nước Đại cũng không vào thành, hiển nhiên đã hạ quyết tâm, muốn mặc quân binh ba nước giao chiến trong thành, toàn bộ chôn thây trong biển lửa.
Khương Hằng gọi: “Hạng Châu! Hạng Châu! Đừng chết!”
Hạng Châu đã chìm sâu vào hôn mê, máu không còn chảy. Khương Hằng lay hắn, muốn ôm hắn lên, nhưng thân thể Hạng Châu quá nặng. Khương Hằng tránh đạn lửa, trông thấy cổng thành tây sụp đổ, trong khoảnh khắc nó chợt nhận ra nếu còn muốn rời thành thì nhất định sẽ bị chiến mã đạp chết trước.
Nó quay người kéo xe, dốc toàn lực chạy trốn, đằng xa lại có tiếng kèn lệnh, quân Ung tông sập nhà cửa, phóng về hướng cổng bắc.
Ba nước Trịnh, Lương, Ung nhận thức được hung hiểm, bắt đầu rút lui.
Khương Hằng theo dòng lũ kia, loạng choạng xông ra khỏi cổng bắc, chạy trốn lên núi.
Ngay sau đó, lại có viện binh mới đuổi tới, gia nhập chiến trường. Trong chớp mắt, ba nước binh bại như núi đổ, ngựa va đụng hí ầm lên. Khương Hằng liên tục tránh né, mắt lại rất sáng tỏ, phản chiếu hình ảnh Linh Sơn mênh mông ngoài thành.
Núi Linh tuyết tùng trắng xoá, cực kỳ tĩnh mịch, như có một vị thần cư trú trong thế giới kỳ ảo khôn lường, chờ người phàm bất lực đến cầu xin sự cứu rỗi vĩnh hằng từ núi tuyết.
Dân Lạc Dương chen lấn xô đẩy rời thành. Đại quân hai nước Dĩnh Đại đến cuối xông vào trong, lấy lý do truy kích tiêu diệt quân Ung, không phân trận doanh, cứ gặp binh sĩ là một kiếm chém hết.
Đại quân như thủy triều, cả thế giới của Khương Hằng đều theo đó mà an tĩnh lại, tưởng như gót sắt cuồn cuộn và chấn động núi rừng cách nhau cực xa.
“Hạng Châu?” Khương Hằng gọi, “Nghe thấy không?”
Hạng Châu nằm trên xe, một tay rũ trước càng xe, nhỏ máu, hắn không trả lời.
Khương Hằng không ngừng thở dốc, ngậm còi trong miệng, dùng sức thổi.
“Pít pít…” tiếng còi truyền đi, nhưng trong khoảnh khắc lại bị hỗn chiến nhấn chìm.
Dốc Linh Sơn cô quạnh, Cảnh Thự tháo Hắc Kiếm sau lưng xuống, mắt trông về phía gần mười vạn quân địch ào ạt tràn vào trong hẻm núi.
Quân Ung, quân Trịnh, quân Lương, binh lính ba nước đều đang điên cuồng giết chóc, tranh giành lối ra vào hẻm Linh Sơn, chuẩn bị chiếm giữ lối ra, sau đó quay ngược lại nghênh địch, liều mạng đánh một trận.
Khói đen Lạc Dương lấp kín chân trời, mặt trời đã mọc.
Cuối cùng cung điện vương đô hơn nghìn năm cháy trụi tới cùng, đổ sụp, tiếng vang rung động đất trời.
Cảnh Thự hít sâu lấy sức, nắm lấy Hắc Kiếm, hướng đầu cùn của kiếm về phía chuông cổ, vận sức dộng vào.
“Đang!”
Một kỷ nguyên mới bắt đầu, vạn vật thay da đổi thịt.
Tiếng chuông rung chấn đất trời, truyền đi tiếng kêu vĩ đại từ dãy núi ngàn xưa, thức tỉnh toàn bộ đại địa Thần Châu.
Binh sĩ đua nhau ngẩng đầu, nhìn lên cao.
“Đang!” Tiếng thứ hai chấn động, Cảnh Thự vận toàn bộ sức lực, đánh vang chuông cổ.
Dường như tướng Ung ý thức được điều gì, bỗng ngẩng đầu dậy, nhìn về phía hai ngọn núi cao nhất Linh Sơn!
“Đang!” Tiếng chuông thứ ba vang lên, như một luồng sức mạnh vô hình quét ngang.
Từ tận cùng dãy núi, rừng tùng ầm ầm reo vụn tuyết, đỉnh núi tụ băng lâu ngày. Ngay sau đó, Cảnh Thự chém một kiếm chặt đứt dây buộc chuông lớn, làm nó lăn từ trên đỉnh núi xuống!
Dư âm không ngừng vang vọng, bỗng bị một cơn rung chấn phá hủy đất trời phủ lấp.
Cảnh Thự thu kiếm ra sau lưng, đang định nhảy xuống vách núi đi tìm tung tích Khương Hằng, nhưng ngay chính giây phút ấy, cậu nghe thấy một tiếng còi yếu ớt vang lên giữa dư âm của tiếng chuông cổ trộn lẫn tuyết lở ngập trời.
Tiếng còi trong trẻo bỗng dưng im bặt.
Một cơn lạnh lẽo thấu xương từ đầu đến chân xâm chiếm Cảnh Thự, cậu run rẩy nhìn vào hẻm núi.
Khương Hằng kéo xe, vai bị dây thừng hằn thành vết, nó ngỡ ngàng quay đầu, nhìn lên đỉnh núi sụp đổ, tuyết lở thành một đường, gào thét nuốt chửng rừng tùng ven đường, đá lớn, cuốn lấy vô số vật thể khác, lăn ào vào hẻm núi.
Nó há hốc miệng, còi rơi trên mặt đất.
“Ca ca.” Khương Hằng biết, thời khắc cuối trong sinh mệnh của mình đã tới.
“Hằng Nhi!” Cảnh Thự gào lên.
Trong chốc lát, Khương Hằng quay đầu, kéo xe, dồn hết sức lực xông vào hẻm núi, cố chạy thật xa khỏi Cảnh Thự, để cậu chặt đứt ý định tới cứu nó.
“Đừng xuống đây!” Khương Hằng vừa chạy vừa quay đầu điên cuồng gào thét, “Đừng tới đây! Huynh không cứu được đệ đâu…”
Cảnh Thự lao xuống vách núi, đâm vào một gốc cây tùng, mũi tên bốn phía như mưa rơi, trên đầu, trên thân toàn máu tươi, cậu lao về phía Khương Hằng.
“Đi đi! Đi!” Khương Hằng thấy không khuyên nổi Cảnh Thự, lập tức kéo xe, chạy hướng ngược lại, hô, “Đừng tới!”
Cảnh Thự: “…”
Cảnh Thự còn cách Khương Hằng nghìn bước, chỉ thấy Khương Hằng phóng về hướng tuyết lở để cậu bảo toàn tính mạng, thậm chí không quay đầu nhìn cậu lấy một cái.
Cảnh Thự cầm Hắc Kiếm trong tay, chém bốn phía, lội ngược dòng chảy, chỉ để thật nhanh đuổi tới bên cạnh Khương Hằng.
Thế nhưng, trong nháy mắt, cậu lại bị chiến mã chạy trốn đụng ngã trên đất, bị mũi tên lao như bay đâm thủng, mũi tên bất ngờ bay tới, găm cứng cậu trên một thân cây.
Cảnh Thự nắm mũi tên đâm xuyên bả vai, nhẫn nhịn cơn đau thấu tim, bẻ gãy nó.
Khương Hằng quay người, thấy vậy thì muốn chạy tới chỗ Cảnh Thự, tuyết lở cách nó còn chưa tới năm mươi bước, nó biết nó không thể chạy tới được.
Bọn họ chỉ có thể nhìn nhau từ xa.
Bờ môi Cảnh Thự run run, ánh mắt chứa chan tuyệt vọng.
Khương Hằng: “…”
Trong khoảnh khắc đó, tất cả âm thanh đều biến mất. Tuyết lở ập đến, chớp mắt nhấn chìm đỉnh đầu Khương Hằng.
Cảnh Thự nhắm hai mắt lại, nắm mũi tên rút ra, quỳ rạp xuống đất, lật tay hướng mũi tên vào trái tim mình.
Tuấn mã giày xéo, gần mười vạn quân lính hỗn loạn điên cuồng xông ra dưới trận tuyết lở, xô ngã Cảnh Thự lần nữa, lao ra khỏi hẻm núi.
Máu Cảnh Thự nhuộm đỏ đất tuyết, sau đó lại bị tuyết phủ dày thêm, tuyết bắt đầu ào xuống từ hai bên hẻm núi, âm thanh lớn như vạn tia sấm rền.
Năm Tấn Huệ Thiên Tử hai mươi chín.
Thiên tử Cơ Tuần băng hà, thiên hạ Đại Tấn diệt vong sau sáu trăm năm truyền thừa.
Mùng một tết năm ấy, năm nước Ung, Trịnh, Lương, Đại, Dĩnh giao chiến ở Lạc Dương, vương đô cháy rụi. Mười vạn liên quân chôn mình dưới tuyết lở trong hẻm Linh Sơn.
Thế gian tĩnh mịch, trên mặt đất tuyết nghìn dặm, bông tuyết nhỏ bé lại bắt đầu tuôn rơi êm ru, mà vài trượng sâu trong lòng tuyết thì chôn vùi chiến mã cùng với chủ nhân của chúng.
Vô số cành tùng gãy đoạn, tựa như bia mộ của mười vạn người vùi xác dưới lớp tuyết.
Dãy núi san phẳng, sấm động ngày đông, đất trời tương hợp.
Đợi một mùa xuân năm mới lại qua, băng tuyết tan chảy, cuối cùng hết thảy sẽ vùi sâu bên dưới lòng đất, đào rực tươi thắm như xưa.