*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.Tiết Nhẫn là một tu sĩ Nguyên Anh hậu kỳ, bắt nạt một Phật tu Nguyên Anh sơ kỳ thật sự chẳng có gì vẻ vang.
Bởi vậy, trước khi ra tay, Tiết Nhẫn thầm nghĩ mình chỉ dùng năm phần lực thôi, dạy cho đối phương một bài học để hắn biết điều im lặng hơn. Dù sao ai cũng công nhận là Phật tu không giỏi đấu pháp, ngay cả khi họ vốn có sự khắc chế với Ma tu, nhưng đó cũng chỉ là trong trường hợp tu vi hai người chênh lệch không lớn.
Tạ Chinh Hồng vừa nhìn là đã biết mới phá Đan thành Anh chưa được bao lâu, lại còn không xuất thân từ tông môn đứng đắn, là một tên Phật tu nửa vời còn chưa quy y, nếu thực sự bắt nạt hắn, cuối cùng lại phải tìm người khác, đúng là phiền phức.
Vậy nên Tiết Nhẫn không dùng chiêu Huyết Ma Thủ nổi danh của mình, mà móc từ trong túi ra một thanh trường kiếm đỏ như máu, đâm về phía Tạ Chinh Hồng.
Hoàng Oanh thấy thế thì định nói gì đó, nhưng khi ngẩng đầu nhìn thấy bộ dáng khí định thần nhàn
(Dáng vẻ bình tĩnh, nhàn nhã) của Tạ Chinh Hồng, lời lại không nói ra khỏi miệng. Tiết Nhẫn không dùng tay mà dùng kiếm, chứng tỏ trong lòng hắn đã có kế hoạch.
Chỉ thấy tầng tầng kiếm quang vung ra từ trường kiếm trong tay Tiết Nhẫn, dường như hội tụ thành một dòng suối bạc, liên miên không dứt, những vệt sáng bắn ra bốn phía.
Hai bàn tay hướng ra ngoài của Tạ Chinh Hồng lật lên, đầu ngón tay đối nhau, lòng bàn tay hướng lên trời, hổ khẩu tạo thành hình tròn, chính là chiêu Thiên Vương Thác Tháp trong Đại Từ Đại Bi Thiên Diệp Thủ. Một chưởng này vừa đánh ra, linh khí xung quanh nhanh chóng hội tụ, như thể tạo thành một lớp bao tay mỏng bọc lấy hai tay hắn.
(Hổ khẩu là kẽ giữa ngón cái và ngón trỏ)Dòng suối kiếm quang màu bạc bị hai bàn tay chặn được, như thể gặp phải một tấm màn chắn, không thể tiến tới nửa bước.
Hai tay Tạ Chinh Hồng xoay vào trong, lòng bàn tay hướng xuống dưới, phá âm nhả khí, “Đi.”
Dòng kiếm quang bị ngăn cản kia lập tức quay đầu, vọt về phía Tiết Nhẫn ở đối diện.
Tiết Nhẫn cầm trường kiếm trong tay, chém ngang bổ dọc, bổ dòng kiếm quang kia thành thất linh bát lạc.
“Hay!” HOàng Oanh nhịn không được lớn tiếng khen ngợi.
Tiết Nhẫn nghe vậy, trong lòng càng nén giận, cái câu “Hay” đó rốt cuộc là khen ai, còn cần phải nói sao?
Hắn giơ ngang kiếm trước ngực, miệng đọc thầm vài câu, sau đó vung kiếm về phía trước, thứ bay ra không phải là kiếm quang nữa mà là cả thanh kiếm, dùng pháp lực điều khiển khống chế phi kiếm. Thời gian đọc thầm càng dài, thanh kiếm đang bay lúc cao lúc thấp kia bỗng được bao quanh bởi một chút kiếm quang, xoay tròn một vòng, kiếm quang nháy mắt liền biến mất không thấy đâu.
Tạ Chinh Hồng trong lòng phát lạnh, biết không thể tùy tiện đi lên tiến công, cổ tay lật lại, lấy Chân Ngôn Bảo Phiến từ trong túi trữ vật ra.
(Cái quạt ghi chân ngôn vợ ảnh làm cho đó)Chất liệu làm nên chiếc quạt này cũng không có gì đáng nói, mấu chốt là ở lời chân ngôn của Phật Tổ mà Văn Xuân Tương đã viết trên đó.
Khi Tạ Chinh Hồng lấy cây quạt ra, bốn chữ to “Chư Ác Mạc Tác”
(Chớ làm việc ác) xuất hiện, kiếm quang đang ẩn giấu bị bốn chữ lớn mang kim quang lập lòe chiếu vào, nháy mắt liền hiện ra. Khóe mắt Tạ Chinh Hồng cong cong, Tam Phương ấn từ trong tay áo bay ra, Tam Phương ấn biến thành kích thước khổng lồ như một ngọn núi nhỏ với tốc độ mắt thường có thể thấy được, mãnh liệt đè xuống thanh phi kiếm!
Tiết Nhẫn lập tức nhận thấy không xong, Phương ấn kia nhìn qua không phải thứ tầm thường, muốn ngăn cản phi kiếm thì cũng dễ thôi, có điều không ngờ tên Phật tu đối diện kia lại không chủ động phá hủy thi pháp của hắn, mà không biết dùng thứ gì khiến cho những kiếm quang ẩn giấu của hắn đều hiện hình. Cây quạt trên tay và con dấu đó đều không tầm thường, không thể khinh địch được.
Nhưng để khống chế đồng thời hai món bảo vật như thế, ắt hẳn đối phương sẽ tiêu hao Chân Nguyên rất nhanh, chỉ cần chống đỡ qua một lúc, con dấu kia sẽ bị phi kiếm của mình chém đứt! Nghĩ vậy, Tiết Nhẫn liền bắt đầu nghiêm túc hơn. Hắn nhẹ nhàng vung tay áo, đánh ra vài luồng mây mù màu đỏ, mây mù nhanh chóng quấn lấy Tam Phương ấn như con rắn, càng siết càng chặt, Tam Phương ấn cũng ngày càng nhỏ. Cùng lúc đó, phi kiếm lại lần nữa phát ra kiếm quang, vọt về phía Tạ Chinh Hồng với tốc độ sét đánh không kịp bưng tai.
Tạ Chinh Hồng lại dùng quạt chống đỡ, bốn chữ “Chúng Thiện Phụng Hành”
(Phải làm việc thiện) nhẹ nhàng chặn lại, ngăn cản cả kiếm quang lẫn phi kiếm, hắn lập tức ném cây quạt về phía trước, cây quạt hóa thành một quyển trục khổng lồ, mười sáu chữ chân ngôn hiện ra, chiếu sáng gần nửa vùng trời.
Trong tay Tạ Chinh Hồng không biết từ bao giờ đã xuất hiện một thanh trường kiếm đen tuyền, cả người lẫn kiếm nhanh như gió, trong nháy mắt, chiêu thức đã biến ảo mấy chục lần, như bôn lôi trục điện
(nhanh như sét như điện) đâm đến trước mặt Tiết Nhẫn.
Tiết Nhẫn chỉ cảm thấy trước mắt đều là hư ảnh của kiếm quang, thân thể phản ứng trước cả ý thức, hai bàn tay đỏ như máu giao nhau, chặn lại một kiếm vừa đâm tới!
Trong chớp nhoáng, Tạ Chinh Hồng lại dừng lại, trường kiếm trong tay biến mất, hắn khẽ mỉm cười, một tay hướng hành lễ với Tiết Nhẫn, “A Di Đà Phật, đa tạ Tiết đạo hữu chỉ giáo.”
“Hay lắm!” Hai mắt Hoàng Oanh sáng lấp lánh, “Chiêu Đạt Ma kiếm pháp của đạo hữu quả là tinh túy, thực sự rất lợi hại.”
“Hoàng đạo hữu quá khen.” Tạ Chinh Hồng nhẹ nhàng gật đầu trả lời, “Nếu không phải Tiết đạo hữu không dùng đến Huyết Ma Thủ, e rằng ngay cả thức mở đầu bần tăng cũng không dùng được.”
“Không đâu.” Tiết Nhẫn xua tay, ngạo khí không hề giảm mà ngược lại còn tăng, “Ngươi thật sự rất lợi hại, nếu không nhờ Huyết Ma Thủ, ta căn bản đánh không lại ngươi.” Nhưng nếu dùng Huyết Ma Thủ để chống lại một Phật tu Nguyên Anh sơ kỳ thì cũng thực sự quá mất mặt.
Tiết Nhẫn luôn rất nhẫn nại với kẻ mạnh, hoặc phải nói, phần lớn Ma tu đều như vậy.
Nếu Tạ Chinh Hồng đã thể hiện thực lực của mình, vậy những lời hắn đã nói lúc trước đương nhiên không tính nữa.
“Văn đạo hữu quả thực rất lợi hại, ta chưa từng gặp Phật tu nào có thể đánh với Tiết Nhẫn đến mức đó đâu.” Hoàng Oanh cười nhéo Tiết Nhẫn một cái, “Lúc trước Tiết Nhẫn đã thất lễ nhiều rồi, đạo hữu đừng trách nhé.”
“Đâu có.” Tạ Chinh Hồng khiêm tốn đáp, “Khi đến di phủ, mong hai vị chiếu cố nhiều hơn.”
“Ừm, chúng ta bàn bạc một chút để chuẩn bị trước khi đến di phủ thôi.” Tiết Nhẫn bị nhéo một cái, chẳng những không tức giận mà trái lại còn rất vui sướng vì biểu hiện thân mật của Hoàng Oanh. Song lòng hiếu kỳ với Phật tu tên Văn An này lại tăng lên. Tuy nói ở Tà Dương đại thế giới cao thủ nhiều như mây, nhưng bởi vì ở đây có tới ba vị Ma Hoàng, Ma Tôn cũng không ít, cho nên không gian sinh tồn của Phật tu cũng không nhiều. Mặc dù Tạ Chinh Hồng chỉ mới là Phật tu kỳ Nguyên Anh, nhưng sức chiến đấu gần như có thể so với Phật tu kỳ Xuất Khiếu. Người như thế, dù đến đâu cũng đều được hoan nghênh, thực sự không cần chọn gia nhập một nhóm gồm một Ma tu và một Yêu tu như hắn và Hoàng Oanh!
Có điều chuyện trước mắt của tiểu hoàng điểu khá là trọng yếu, có chuyện gì thì để sau hẵng nói vậy.
Hai người Tiết Nhẫn và Hoàng Oanh đã bao trọn toàn bộ Hạo Nhiên tửu lâu, cũng đã đặt sẵn không ít rượu và đồ ăn ngon. Hai người họ cứ băn khoăn không biết Tạ Chinh Hồng là Phật tu thì có ăn được mấy thứ này không, ai ngờ Tạ Chinh Hồng vốn chẳng hề để ý.
“Không phải Phật tu không được ăn mặn sao?” Tiết Nhẫn nhịn không được hỏi.
“Thỉnh thoảng mới ăn thì không sao.” Tạ Chinh Hồng nghiêm túc nói, “Bần tăng cũng không tu theo Đại Thừa Bồ Tát đạo.”
“Phì, chỉ có Phật tu theo Bồ Tát đạo một lòng muốn độ người thì mới không ăn thịt thôi, Phật tu có thể ăn “Tam tịnh nhục”.” Hoàng Oanh cười giải thích, “Sao ngươi là Ma tu mà còn không hiểu biết về Phật tu nhiều bằng ta thế?”
(Tam tịnh nhục là ba thứ thịt thanh tịnh mà các vị Tỳ kheo thuộc Tiểu Thừa được phép thọ dụng, đó là: không nhìn thấy người ta giết, không nghe thấy người ta giết và không nghi là vì mình mà giết. Còn những nhà sư thuộc Đại Thừa thì không được ăn bất cứ loại thịt gì, các Phật tử Đại Thừa tại gia cũng không được ăn Tam tịnh nhục vào những ngày ăn chay.)Tiết Nhẫn xấu hổ, “Ta đâu có quen thuộc với Phật tu lắm đâu, bình thường có thể không gặp thì không gặp luôn, đỡ phải dây dưa lằng nhằng. Tam tịnh nhục là cái gì?”
“Đầu tiên là mắt không nhìn thấy người ta giết; thứ hai là tai không nghe thấy người ta giết; thứ ba là không nghi người ta giết vì mình.”
“Ồ, tức là thịt có sẵn trong tửu lâu thì ngươi đều có thể ăn được đúng không?”
“Đúng vậy.”
Tiết Nhẫn có thêm kiến thức, nói thầm một câu hòa thượng thật rách việc. Ăn thôi mà cũng bày vẽ ra đủ thứ quy củ loạn thất bát tao.
“Xem ra Tạ đạo hữu tu theo Phật pháp Tiểu Thừa, cũng không độ người.” Hoàng Oanh có vẻ rất hứng trí, hận không thể tìm hiểu hết mọi phương diện về Phật tu.
“Bần tăng không độ người, chỉ cầu chúng sinh tự độ.”
“Chúng sinh tự độ, chúng sinh tự độ.” Hoàng Oanh nhẩm lại hai lần, nụ cười càng thêm chân thành, “Đạo hữu quả là Phật pháp cao thâm.”
Tiết Nhẫn sờ sờ mũi, lẳng lặng nhìn Hoàng Oanh và Văn An trò chuyện về Phật tu. Vất vả lắm mới đợi được họ ăn xong, Hoàng Oanh rốt cuộc cũng tìm được chút cảm giác tồn tại, quyết tâm hỏi một chút về chuyện di phủ Phật tu.
Hoàng Oanh cười nói, “Đúng rồi nhỉ, chúng ta mải nói chuyện nên chủ đề lệch khỏi quỹ đạo mất rồi.” Việc này là do y đề nghị trước, chuyện về di phủ Phật tu dĩ nhiên phải do y mở miệng mới là thỏa đáng.
“Vị Phật tu đó tên là Minh Tâm thiền sư, là một Phật tu kỳ Hóa Thần sống ở hơn một ngàn năm trăm năm trước, đến từ Lạc Hà đại thế giới tiếp giáp nơi này. Những ghi chép hiện giờ chỉ nói sau khi ông ta đạt đến kỳ Hóa Thần thì liền ra ngoài du lịch, sau đó biến mất không thấy tung tích. Không ngờ di phủ của ông ta lại xuất hiện trong một bí cảnh ở thế giới này. Linh khí trong bí cảnh rất dồi dào, hơn nữa hầu như rất ít có tu sĩ xuất hiện ở đó, vậy thì có lẽ Minh Tâm thiền sư đã tự phong bế trong bí cảnh không ra ngoài, định tu luyện Pháp ấn trong thời gian bí cảnh phong bế, tránh để bị người khác quấy rầy. Không ngờ, vì bí cảnh phong bế mà ông ta đột phá thất bại, không thể không lưu lại truyền thừa trong bí cảnh cho đời sau. Bí cảnh kia mỗi trăm năm lại mở một lần, di phủ lại bị giấu kín, hơn một ngàn năm sau mới được phát hiện.” Nói tới đây, Hoàng Oanh không khỏi có chút tiếc hận.
Dù là tu sĩ thuộc đạo thống nào, mỗi khi bế tử quan đều là một lần đại kiếp sinh tử, thuận lợi thì tốt rồi, nhưng chỉ xảy ra chút vấn đề thôi thì kết cục sẽ là chết không có chỗ chôn. Có thể lưu lại đạo thống như Minh Tâm thiền sư cũng coi như tốt lắm rồi, còn vô số tu sĩ ngay cả một câu cũng chẳng lưu lại được, công pháp sáng tạo ra, linh thạch và pháp khí kiếm được đều phân tán khắp nơi, trở thành vật vô chủ. Ngay cả cơ hội chuyển thế đầu thai cũng không có!
“Phỏng đoán ban đầu là ông ta thân tử đạo tiêu khi đang tu luyện Pháp ấn ở kỳ Hợp Thể.” Hoàng Oanh dừng một chút, cười nói, “Nghe nói hơn một ngàn năm trước, ông ta tình cờ có được một viên đá, ẩn chứa dấu tích của một vị Phật tu đại năng thời Thượng Cổ. Vậy thì có lẽ sở dĩ ông ta vội vàng tu luyện Pháp ấn riêng như vậy là vì muốn thử cơ duyên lấy được từ viên đá kia. Có điều vận khí của ông ta không được tốt lắm, không thể thành công. Nhưng viên đá Pháp ấn kia hẳn là vẫn còn lưu lại trong di phủ của ông ta.”
“Đá Pháp ấn thực sự có thật sao?” Tiết Nhẫn nhíu mày nói.
“Đương nhiên. Nếu không có, sao có thể lôi kéo nhiều người tìm đến như vậy? Nhưng ta chẳng muốn tranh đá Pháp ấn với bọn họ làm gì cả, thứ đó chỉ có ích cho Phật tu thôi, nhưng có thể tìm được cơ duyên trong đó hay không thì phải xem bản thân mình.” Hoàng Oanh mỉm cười nhìn Tạ Chinh Hồng, “Nếu Văn đạo hữu muốn thì có thể tới đó thử xem.”
Đá Pháp ấn thường chỉ xuất hiện sau khi Phật tu đã tu được Pháp ấn hoặc tu luyện được Kim Thân, khá giống với Xá Lợi. Song Pháp ấn của Phật tu có tới mấy loại, đá Pháp ấn cũng thường không hoàn chỉnh, chỉ hấp thu được một chút thể ngộ của Pháp ấn mà thôi. Về điểm này, cũng giống với kiếm ý của Kiếm tu. Phật tu muốn tu luyện ra Pháp ấn thì có thể mượn dùng thể ngộ từ đá Pháp ấn, có điều độ nguy hiểm rất cao. Đá Pháp ấn có lực sát thương lớn thậm chí còn bộc phát uy lực nguyên bản khiến Phật tu bị trọng thương, bởi vậy nó là thứ mọi Phật tu đều muốn nhưng lại không dám tùy tiện dùng thử.
Những tông môn Phật tu đứng đắn có lịch sử lâu đời đều có cất giữ một ít đá Pháp ấn, vô cùng quen thuộc với uy lực của Pháp ấn ẩn chứa trong đá Pháp ấn, độ nguy hiểm cũng giảm đi rất nhiều. Thông thường chỉ những Phật tu có tu vi đạt đến cảnh giới nhất định mới có hi vọng tu luyện được Pháp ấn, có cơ hội tiếp cận tìm hiểu về đá Pháp ấn. Còn những loại đá Pháp ấn bên ngoài thì ít có Phật tu nào dám liều mạng dùng thử.
Nói tóm lại, đá Pháp ấn bên ngoài thường đều thuộc loại gân gà[1]
(nghĩa là làm một việc nào đó không có ý nghĩa, không có giá trị nhưng không làm thì tiếc). Phật tu nào lấy được nó, trừ phi rất tự tin vào bản thân, nếu không thì đều sẽ mang đến tông môn Phật tu để trao đổi lấy một ít công pháp pháp bảo linh tinh.
Thứ này hầu như chỉ xuất hiện tại đại thế giới. Tạ Chinh Hồng cũng mới chỉ nghe về sự tồn tại của nó sau khi đến Tà Dương đại thế giới.
Khi Tạ Chinh Hồng nghe thấy cái tên đá Pháp ấn, theo bản năng liền muốn sờ lên trán mình.
Chắc là không trùng hợp như vậy đâu.
Chủ nhân của di phủ Hướng Nguyệt là người đến từ đại thế giới, nếu thực sự có đá Pháp ấn thì điều này cũng nằm trong dự đoán. Có điều Tạ Chinh Hồng bị viên đá kia đập vào nhưng bây giờ cũng chẳng phát hiện dấu hiệu kỳ quái gì, không khỏi cảm thấy mình nghĩ nhiều rồi.
Nếu Văn Xuân Tương có ở đây, chắc hẳn sẽ cười nhạo Tạ Chinh Hồng vài câu.
Cái thứ nghịch thiên như Khí Vận hương mà Tạ Chinh Hồng còn lấy được thì một viên đá Pháp ấn có là gì?
Có Khí Vận hương hỗ trợ, khí vận vốn có của Tạ Chinh Hồng đã mạnh ngang ngửa tán tiên, tùy tiện đi mua đồ có khi còn mua được toàn là thiên tài địa bảo.
Đương nhiên, bản lĩnh chọc vào rắc rối của hắn cũng không phải thứ người bình thường có thể so được.
Ngay cả một Ma Hoàng như Văn Xuân Tương mà còn ứng phó không kịp, nếu đổi lại là người bình thường thì chắc dù có đoạt xá mấy chục lần cũng không đủ. Hiện giờ Văn Xuân Tương xui xẻo đang tạm thời không thể ở cạnh Tạ Chinh Hồng, vận khí bị áp chế trước đây liền lập tức trào ra.
Viên đá vụn đập trúng Tạ Chinh Hồng, đúng thật là một viên đá Pháp ấn.
Song uy lực của Pháp ấn ẩn chứa trong đó không nhiều lắm, hơn nữa hiện giờ Tạ Chinh Hồng mới chỉ là tu sĩ kỳ Nguyên Anh, ban đầu sẽ không bị tác động nhiều, sau này mới dần dần bộc phát.
“Di phủ của Minh Tâm thiền sư sắp xuất thế rồi, hiện tại không có nhiều người biết được tin tức về đá Pháp ấn, vả lại nếu biết thì cũng sẽ cố gắng giấu đi, nhưng mà có lẽ cũng chẳng giấu giếm được bao lâu đâu. May mà tình trạng của Tà Dương đại thế giới chúng ta khá đặc biệt, những Phật tu quá lợi hại sẽ không đến đây, nếu không e rằng chúng ta còn chẳng vào được di phủ này.” Hoàng Oanh cười nói.
Tiết Nhẫn vô cùng tự hào, “Không sai, ở thế giới này Ma tu làm chủ. Nếu không phải mấy vị Ma Hoàng Ma Tôn của chúng ta đều không phải loại người thích tranh đấu hỗn loạn, đám tu sĩ Tiên đạo kia sao còn có thể an ổn như thế chứ? Mấy hôm trước ta có nghe nói một tán tiên tam kiếp đánh nhau với Vạn Thánh Ma Hoàng, mới đánh được có nửa tháng đã quăng kiếm không đánh nổi nữa.”
Ở Tà Dương đại thế giới, thế lực của Ma tu luôn lớn hơn Tiên tu, nhưng bởi vì hai vị Ma Hoàng đứng đầu, một người thì không thích quản việc, một người thì rất quản việc, gần như không ai dám phản kháng. Ma Hoàng hạ lệnh bắt đám Ma tu phải an phận chút ít, không kẻ nào dám ra ngoài giết người đoạt bảo lung tung, mối quan hệ với tán tiên cũng tạm thời không có gì trở ngại, nhiều năm qua trừ chút cãi vã về chuyện của Văn Xuân Tương, mọi thứ đều xem như tường an vô sự
(chung sống hòa bình, không xảy ra tranh chấp hay xung đột). Do đó, những Phật tu lợi hại từ thế giới khác nếu muốn đến đây thì trước tiên đều phải tự xem xét bản lĩnh của mình.
“Vẫn là do Vạn Thánh Ma Hoàng tốt tính, nói không đánh thì liền dừng tay, nếu đổi lại là ở Phi Minh đại thế giới………..” Tiết Nhẫn nói đoạn thì liền khựng lại giống như bị người ta bóp chặt cổ.
Hoàng Oanh nhịn không được khinh bỉ nhìn hắn, “Ngươi quá sợ hãi rồi đó.”
“Nếu ngươi từng thấy bộ dáng của hắn khi huyết tế mấy tiểu thế giới, ngươi cũng sẽ sợ thôi.” Tiết Nhẫn rụt đầu nói.
Tạ Chinh Hồng khó hiểu nhìn Tiết Nhẫn, “Huyết tế tiểu thế giới?”
“Hầy.” Tiết Nhẫn lấy lại bộ dáng ngạo nghễ ban đầu, vẫn hơi nghĩ mà sợ nhìn Tạ Chinh Hồng, “Là tên Quý Hiết cuồng huyết tế ở Phi Minh đại thế giới tiếp giáp nơi đây, hở chút là huyết tế hơn trăm vạn phàm nhân một cách tàn nhẫn. Tuy hắn cũng là Ma Hoàng, nhưng bản lĩnh của hắn gần như là lợi hại nhất trong số các Ma Hoàng. Tu sĩ kỳ Đại Thừa sắp phi thăng đánh nhau với hắn có lẽ cũng chẳng thể chiếm được ưu thế. Có nguồn tin nói rằng hắn nấn ná không chịu phi thăng đến Ma giới, là bởi vẫn chưa chơi đùa đủ ở Tu Chân giới chúng ta. Haiz, những tu sĩ lợi hại đều muốn rời đến Phi Minh đại thế giới bên cạnh, song cái giá phải trả cũng không hề nhỏ. So với bọn họ, đám Tiên tu ở Tà Dương đại thế giới vẫn khá biết chừng mực.”
“Tiết Nhẫn từng đến một tiểu thế giới, hắn chưa ở được mấy ngày thì tiểu thế giới đó đã bị Ma Hoàng huyết tế. Vậy nên bây giờ hắn vẫn chưa hết ám ảnh về chuyện đó.” Hoàng Oanh vén tóc nói, “Nhưng chuyện huyết tế thế giới cũng chỉ xảy đến với tiểu thế giới thôi, pháp tắc của Thiên Đạo ở trung thế giới đã đủ để chống lại nó rồi. Với cấp độ của chúng ta, vốn chẳng thể nhúng tay vào, lo lắng làm gì chứ.”
………….Những lời này đã chạm vào Tạ Chinh Hồng vốn vẫn không đổi sắc mặt. Trước đây tiền bối cũng từng nói Quý Hiết rất lợi hại, bây giờ ở đại thế giới lại lần nữa nghe được cái tên này, cũng chẳng thấy có gì lạ. Ngược lại, nếu người như thế mà lại không nổi tiếng thì mới đúng là kỳ quái.
“Khụ khụ, đừng đề cập tới việc này nữa, thực ra cũng chẳng liên quan gì tới chúng ta. Loại công pháp huyết tế như vậy vẫn luôn được lưu truyền xưa nay, không ít tu sĩ đều từng gặp phải.” Song chỉ có mình Quý Hiết là làm đến độ như thế mà vẫn chưa bị Thiên lôi đánh chết thôi.
Tạ Chinh Hồng cảm thấy Khí Vận hương trong tử phủ của mình có chút dị động, nó vốn có nhân quả tương liên với Quý Hiết, hiện tại xuất hiện dị động cũng là lẽ thường. Tạ Chinh Hồng thầm niệm tâm kinh vài lần, đè ép dị động xuống, tập trung thảo luận cùng Tiết Nhẫn và Hoàng Oanh về việc chuẩn bị đi thám hiểm di phủ của Minh Tâm thiền sư.
Địa điểm sơ lược của di phủ của Minh Tâm thiền sư có thể vẽ ra được, trước đó hai người Hoàng Oanh và Tiết Nhẫn đã vẽ ra bản đồ dẫn đến bí cảnh, có thể bớt được không ít công sức.
“Bí cảnh truyền tống không theo một quy luật nào cả, di phủ sẽ mở ra liên tục khoảng nửa tháng, nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội này thì sẽ lại phải đợi hơn một trăm năm nữa. Mảnh bản đồ này chỉ ghi rõ về một nửa bí cảnh thôi, nếu chẳng may vận khí của chúng ta không đủ, bị truyền tống đến một nơi xa lạ thì chỉ có thể tự trách mình xui xẻo. Cho nên chúng ta cần có một con chuột dẫn đường. Nhưng mà có mua được chuột dẫn đường tốt hay không thì cũng chỉ có thể dựa vào vận khí thôi, có thể mua dự phòng mấy con cũng được.” Hoàng Oanh là chim, thực sự chẳng có bao nhiêu hảo cảm với yêu thú như loài chuột. Có điều chuột dẫn đường có thể cảm ứng được pháp bảo và linh thảo có đẳng cấp cao, là thứ cần thiết cho mọi tu sĩ khi đi thám hiểm, đương nhiên, giá của chúng cũng rất cao.
Có thể chọn được một con chuột dẫn đường đáng tin hay không, phải dựa vào vận khí của bản thân. Những yêu thú đã mở linh trí đều có sở thích độc đáo của riêng mình, trước đây từng có một tu sĩ mua phải một con chuột dẫn đường chỉ yêu thích nội đan của yêu thú, hại tu sĩ nọ mấy phen cửu tử nhất sinh, tu vi liên tiếp rớt xuống vài cấp độ. Cuối cùng nhịn không nổi nữa bèn đem bán con chuột dẫn đường kia cho một vị đại năng của Ngự Thú tông.
Giá của chuột dẫn đường là khoảng năm trăm linh thạch cực phẩm một con, giá trị tương đương với một món pháp bảo thượng phẩm.
Tạ Chinh Hồng im lặng nhìn lướt qua túi trữ vật của mình, không nói gì.
Ngay cả một con hắn cũng chẳng mua nổi.
Thổ hào · Hoàng Oanh và thổ hào · Tiết Nhẫn đang thảo luận xem nên mua năm hay sáu con, Tạ Chinh Hồng mỉm cười không nói gì.
(Thổ hào: ý nói giới nhà giàu. Ban đầu từ này dùng để chỉ những phú hào, địa chủ có quyền thế, của cải ở nông thôn trong xã hội phong kiến; về sau dùng để chỉ người giàu có, tiêu sài lãng phí)Cuối cùng hai người quyết định mua ba con, phòng trường hợp chuột dẫn đường chọn nhiều quá, đến lúc cần lại chọn không tốt.
Về phần mấy thứ như phù lục, đan được, pháp bảo, bản thân bọn họ cũng không thiếu, không cần mua thêm gì cả.
“Văn đạo hữu có cần chuẩn bị gì không?” Hoàng Oanh và Tiết Nhẫn mải trò chuyện hăng say, bấy giờ mới phát hiện mình đã xem nhẹ ý kiến của Tạ Chinh Hồng.
“Tạm thời thì không cần.” Tạ Chinh Hồng chắp tay chữ thập nói.
“E hèm, lát nữa chúng ta đi mua chuột dẫn đường nhé, nếu không sẽ bị người khác cướp hết mất.” Hai người Hoàng Oanh và Tiết Nhẫn đều không thiếu linh thạch, với một Phật tu có năng lực như Tạ Chinh Hồng, ắt hẳn cũng không thiếu linh thạch đâu. Hai người suy bụng ta ra bụng người, hoàn toàn không nghĩ tới sự thực rằng Tạ Chinh Hồng ngay cả một con chuột dẫn đường cũng không mua nổi.
Chi phí tiêu dùng ở đại thế giới rất tốn kém, một tăng nhân muốn sinh hoạt tiết kiệm cũng rất khó.
Tạ Chinh Hồng nghĩ, có lẽ mình nên mua một con chuột dẫn đường cho đúng quy cách. Khi đến di phủ, nếu vận khí tốt thì sẽ kiếm được một ít linh thảo hay gì đó, cũng có thể đổi được không ít linh thạch.
Tu sĩ mua chuột dẫn đường đứng chật kín cả lối đi.
Trong căn phòng có đặt hơn trăm chiếc lồng, mỗi lồng đều có một con chuột dẫn đường.
Những con chuột thông minh có màu lông đẹp thường có tỉ lệ đáng tin cao hơn một chút, giá đều trên ba bốn trăm linh thạch cực phẩm, mà những con có màu lông u ám rụt đầu rụt đuôi thì giá thấp hơn phân nửa, tu sĩ vây quanh trước lồng cũng ít hơn rất nhiều.
Những chiếc lồng này đều là pháp bảo đặc biệt, muốn mở lồng thì phải bỏ ra một lượng linh thạch tương ứng, dùng sức mạnh ép mở lồng ra thì chẳng những sẽ giết chết chuột dẫn đường bên trong, mà còn dẫn chủ cửa hàng là các tu sĩ đại năng tới, trừ phi ngại mình sống lâu thì bình thường chẳng có tu sĩ nào dám cả gan khiêu chiến với uy nghiêm của chủ cửa hàng. Một khi đã mua thì không thể trả hàng.
Quả nhiên là việc phải dựa vào vận khí.
Hai người Hoàng Oanh và Tiết Nhẫn vừa bước vào, liền đi về hướng những lồng có nhiều tu sĩ vây xem nhất, chỉ thiếu điều viết lên mặt mấy chữ “Ta có rất nhiều linh thạch”.
Tạ Chinh Hồng không khỏi nhớ tới khi xưa mình và tiền bối cùng phát sầu vì chuyện linh thạch, chợt thấy muốn cười. Văn Xuân Tương rốt cuộc ghét bỏ Tạ Chinh Hồng không biết luyện đan, chẳng biết luyện khí, lại còn không chịu đen ăn đen
(aka đi ăn cướp), ngay cả con đường kiếm thêm thu nhập cũng không có. Phật tu vốn có thể bán mấy thứ như phật châu hay kinh Phật viết tay, nhưng bởi đặc thù công pháp của Tạ Chinh Hồng, Văn Xuân Tương cũng vì an toàn nên không bắt Tạ Chinh Hồng đi làm mấy thứ đó. Cuối cùng, hai người bọn họ chỉ có thể tự khoác cho mình lớp vỏ kim quang lấp lánh, làm chút nhiệm vụ hoặc là chờ người khác đánh cướp tới cửa thì mới tạm có chút của nả.
Bây giờ hắn vẫn thiếu thốn linh thạch, nhưng tiền bối lại không ở bên cạnh giúp hắn.
Trong lòng Tạ Chinh Hồng sinh ra chút thương cảm, trước đây hắn cũng một mình tự tu hành sinh hoạt, song cũng chẳng thấy có gì không ổn. Nhưng sau khi đã ở cùng tiền bối lâu như vậy, tách ra rồi lại thấy không quen.
Cũng không biết hiện giờ tiền bối ra sao rồi, chắc là đang ngủ rất say.
Với tiền bối, thời gian này chỉ là một giấc ngủ thôi.
Trong giấc mộng, Văn Xuân Tương bị hồi ức từ trong quá khứ kéo đến hành hạ một trận, chẳng thấy dễ chịu chút nào, không có tiểu hòa thượng vận khí tốt ở bên cạnh, ngay cả ngủ cũng chẳng được yên thân!
Tạ Chinh Hồng đè nén nỗi thương cảm trong lòng xuống, cất bước đến một chiếc lồng có ít người xem nhất.
Trùng hợp là, con chuột dẫn đường nọ cũng ngẩng đầu, bốn mắt nhìn nhau với Tạ Chinh Hồng, bộ dáng lúng túng, trông hơi bị ngốc.
Có điểm hơi giống tiền bối đấy chứ.
Chi bằng mua nó vậy.
———————————–Tiểu phiên ngoại————————————
Khi Phật Tử đại nhân được mười ba tuổi, ưu điểm diện mạo đều đã hoàn toàn bộc lộ. Vì hay chép kinh Phật cho thái hậu nên thanh danh về lòng hiếu thảo của nàng được lan truyền rộng rãi. Vừa thông minh lại vừa thiện lương, các vị phu nhân từng tiếp xúc với Phật Tử đại nhân đều rất thích nàng, muốn cưới về làm vợ cho con trai nhà mình.
Tại đất nước này, nhà của phò mã cũng có thể làm quan to.
Mười ba tuổi, chính là thời điểm phải bàn bạc việc hôn sự, mặc dù hoàng đế bệ hạ rất luyến tiếc con gái, nhưng càng sợ con mình sẽ đi xuất gia mất, vậy nên ngài tình nguyện tìm một tên nhóc nào đó trước đã.
Khi Phật Tử đại nhân biết tin này, nàng chẳng hề kinh ngạc mà còn nói với phụ hoàng rằng, chỉ cần có người tài giỏi hơn nàng, nàng sẽ gả cho người đó.
Hoàng đế nghĩ tuy rằng con gái rất thông minh, nhưng cũng chỉ mới có mười ba tuổi, nhất định sẽ có người lợi hại hơn nàng. Hơn nữa, nếu chọn người chẳng giỏi bằng con gái mình làm con rể, đúng là không tốt lắm. Vì thế ngài liền đồng ý với đề nghị này.
Trong kinh thành có không ít người tìm đến để so tài với công chúa, thành tích của Phật Tử công chúa đều rất là khả quan.
Trong đó, có mười nam tử trẻ tuổi bị Phật Tử cảm hóa, quyết tâm sau này sẽ đi phát cháo bố thí vào mùng một và ngày mười lăm; mười lăm nam tử khác thì nói mình không xứng với công chúa, nguyện ý bái công chúa làm thầy; vài nam tử còn lại sau khi so tài với công chúa thì chẳng muốn làm quan nữa.
May mà Phật Tử công chúa thấu tình đạt lý, không bảo bọn họ đi xuất gia, nếu không thì đúng là phải tội mà.
Qua chiến dịch lần này, các đại thần không dám mạo hiểm để con trai nhà mình theo đuổi công chúa nữa, chẳng may lại đi xuất gia thì chết.
Hoàng đế bệ hạ miệng vàng lời ngọc, không thể đổi ý trước mặt công chúa được.
Khi Phật Tử công chúa lên mười tám tuổi, nàng mở vài thiện đường, nhận chăm sóc vô số cô nhi và người già, hơn nữa còn hoàn thiện luật pháp về phụng dưỡng người già và nữ tử. Từ đó về sau, nàng lại cứu tế nạn dân, xây cầu làm đường, như một bị thánh nhân vậy, cuối cùng không ai có đủ can đảm để cầu hôn vị Bồ Tát rành rành này nữa.
******
★Chú thích:
[1]Gân gà: nguyên văn là “Kê lặc”, dùng để ví với chuyện làm một việc nào đó không có ý nghĩa, không có giá trị nhưng không làm thì tiếc. Cách nói này xuất phát từ câu chuyện về Tào Tháo:
Tào Tháo đóng quân đã lâu, muốn tiến thì bị Mã Siêu chặn, muốn lui về thì lại sợ quân Thục coi thường, trong lòng còn do dự chưa biết nên quyết thế nào. Vừa lúc đó nhà bếp dâng món canh gà. Tào Tháo thấy trong bát canh có miếng gân gà, nghĩ, lại thấy buồn rầu trong lòng. Đúng lúc đó, Hạ Hầu Đôn vào trướng, xin mật khẩu trong quân đêm nay, Tào Tháo buột miệng nói: “Kê lặc! Kê lặc!” (gân gà, gân gà) Hạ Hầu Đôn truyền lệnh cho quân sĩ, mật khẩu đêm nay là “Kê lặc”. Các quan không hiểu ý gì. Có quan chủ bộ là Dương Tu liền từ thu xếp hành trang. Mọi người kinh ngạc hỏi Tu, Tu đáp: “Kê lặc (gân gà), bỏ đi thì tiếc, ăn vào thì không ra gì, lấy nó để ví với đất Hán Trung, biết Vương đã muốn lui rồi"”
Editor: Nhìn hai cháu nhớ nhau mà thương quá(╥ω╥), anh công lại trở về thời kỳ giai cấp vô sản rồi, không có vợ chăm nó khổ thế đấy┐( ˘_˘)┌.Hôm nay tui bị ốm nên ra chap muộn thế này, mong mọi người thông cảm nhé。・゚゚
*(>д<)*゚゚・