Tiền truyện.Gần đây, ta rất hay thèm ngủ.
Nại Nại nói: “Chắc vì mang thai nên mới thèm ngủ vậy, nương nương chớ nên lo lắng”.
Nại Nại là tỳ nữ chăm sóc ta, cũng là tiên tử duy nhất chịu cười với ta, chịu gọi ta hai tiếng “nương nương” trong Tẩy Ngô cung này. Những tiên tử khác hầu hết đều coi thường ta. Bởi vì Dạ Hoa không phong cho ta một danh phận nào, cũng bởi vì ta không phải là thần tiên mà chỉ là một người phàm trần.
Hình như Nại Nại mở cửa sổ, gió nhẹ thổi vào, bên ngoài vẳng tới tiếng bước chân của ai đó. Giọng Nại Nại thoáng ngạc nhiên, vui mừng: “Nương nương, là thái tử điện hạ tới thăm người”.
Ta chui ra khỏi chiếc chăn gấm, ngồi dựa vào thành giường, đầu còn hơi váng vất, tuy rằng vừa mới tỉnh dậy nhưng vẫn hơi buồn ngủ.
Đệm hơi lún xuống, ta đoán rằng Dạ Hoa đang ngồi bên cạnh.
Ta mơ mơ hồ hồ hỏi chàng: “Tối nay sao trên trời có sáng không?”.
Chàng lặng đi một hồi rồi mới đáp: “Tố Tố, bây giờ đang là ban ngày”.
Theo thói quen ta dụi dụi mắt, tay đụng phải dải lụa trắng băng quanh mắt mới nhớ ra đã không còn mắt nữa rồi, dù có dụi thế nào thì cũng không thể phân biệt nổi ngày đêm, vẫn không nhìn được gì.
Dạ Hoa im lặng một lúc lâu rồi mới nói: “Ta sẽ thành thân với nàng, ta sẽ là đôi mắt của nàng”.
Tố Tố, ta sẽ là đôi mắt của nàng.
Theo bản năng ta đẩy chàng ra. Ác mộng đêm hôm đó lại một lần nữa bủa vây ta, ta sợ đến mức toàn thân run lẩy bẩy.
Dạ Hoa nắm tay ta: “Tố Tố, nàng làm sao vậy?”. Ta run run cắn răng nói dối: “Đột… đột nhiên hơi buồn ngủ. Chàng làm việc của chàng đi, thiếp muốn ngủ một lát”.
Trước đây lòng vạn phần lưu luyến, người vạn phần lưu luyến, còn giờ đây đã khiến người ta không thể chịu nổi, ta chỉ hiếu kỳ rằng, chàng đã yêu người con gái ấy như thế, sao ban đầu lại đồng ý với yêu cầu vô lý của ta.
Ban đầu, ban đầu, đúng là hối hận thì sao ban đầu không làm khác đi.
Dạ Hoa rời đi, Nại Nại nhẹ nhàng cài then cửa. Ta nằm nhoài ra giường, đầu óc rối như tơ vò. Những hình ảnh hiện lên, lúc là núi Tuấn Tật ở Đông Hoang, lúc là khuôn mặt của Dạ Hoa, lúc là lưỡi chủy thủ đẫm máu và đôi mắt bị khoét đi của ta. Rất đau, ta đau muốn khóc nhưng lại khóc không nổi.
Ta thầm nghĩ đợi sinh xong đứa con này, ta sẽ quay trở về núi Tuấn Tật, bắt đầu từ đâu thì nên kết thúc ở đó.
Lại ngây người hồi lâu, Nại Nại rón rén đẩy cửa bước vào, khe khẽ gọi ta: “Nương nương, nương nương, người tỉnh chưa?”.
Ta cố nén, húng hắng ho: “Có chuyện gì thế?”.
Nại Nại ngừng bước: “Thiên phi Tố Cẩm sai tỳ nữ mang thiếp tới, mời người cùng thưởng trà”.
Ta buồn bực, kéo chăn lên che mặt: “Nói ta đi nghỉ rồi”.
Không hiểu sao gần đây Tố Cẩm nhiều lần tỏ ý đối tốt với ta. Có lẽ vì đã có được đôi mắt của ta, hại ta thành kẻ mù lòa, cho nên ít nhiều cũng có chút hổ thẹn trong lòng chăng? Nhưng rõ ràng là nàng ta, là nàng ta đã khiến Dạ Hoa phải khoét đi đôi mắt của ta.
Ta đã không còn là tiểu cô nương mới đến của ba năm trước, ngốc nghếch muốn sẽ được lòng tất cả mọi người.
Ước chừng là buổi chiều, Nại Nại lay ta tỉnh, nói rằng nắng chiều đang chiếu chênh chếch ngoài sân, dẫn ta đi phơi nắng một chút.
Nại Nại dời một chiếc xích đu ra sân, rồi đỡ ta qua đó. Ta không chịu để nàng ấy hầu hạ mà mò mẫm bám vào mặt bàn, vào tường… từng bước từng bước đi qua bên đó. Những việc này đều nên làm, nếu không, sau này quay trở lại núi Tuấn Tật ta sẽ sống một mình như thế nào?
Sưởi nắng một lúc, lại hơi buồn ngủ. Trong cơn mơ màng, hình như lại nằm mơ, trong mơ, lại trở về cái ngày đầu tiên gặp Dạ Hoa trên đỉnh núi Tuấn Tật ba năm trước. Tay chàng cầm thanh lãnh kiếm, toàn thân đầy máu ngã trước gian nhà tranh của ta. Ta cuống quýt vực chàng vào trong nhà, đắp thuốc cầm máu, chỉ biết trố mắt líu lưỡi nhìn vết thương của chàng tự khép miệng lại.
Không phải ta cứu chàng, nhưng chàng nhất định đòi báo đáp, ta nói: “Vậy thì chi bằng chàng lấy thân đền đáp đi”, thế nên thành thân, lại có đứa con trong bụng này.
Từ khi ta bắt đầu nhớ được sự việc, thì đã một mình trên núi Tuấn Tật rồi, xung quanh chỉ có muôn loài chim thú côn trùng, cho nên ta chẳng có tên. Chàng gọi ta là Tố Tố, còn nói từ đây về sau, đây là tên của ta, khiến ta thầm vui đến tận mấy ngày sau.
Sau này, chàng dẫn ta lên Cửu Trùng Thiên, ta mới biết rằng phu quân của mình hóa ra là cháu của Thiên Quân.
Khi ấy, chàng vẫn chưa được phong làm thái tử.
Nhưng trên Cửu Trùng Thiên này chẳng có ai thừa nhận chàng là phu quân của ta. Trước mặt Thiên Quân, chàng cũng chưa bao giờ nhắc đến chuyện chàng đã từng cưới một người phàm trần ở Đông Hoang làm phu nhân.
Đêm hôm đó, ta mang canh tới tẩm điện của Dạ Hoa. Bốn bề tẩm điện không người canh giữ, giọng của thiên phi Tố Cẩm vọng lại hết sức bi ai: “Chàng lấy một người phàm trần, chẳng qua vì muốn báo thù thiếp đã phản bội chàng theo Thiên Quân, có đúng không? Nhưng thiếp đâu có cách nào khác, thiếp đâu có cách nào khác? Đàn bà trong bốn bể tám cõi, ai có thể chống lại sự ân sủng của Thiên Quân? Hãy nói cho thiếp biết, Dạ Hoa, người chàng yêu vẫn là thiếp, đúng không? Chàng gọi nàng ta là Tố Tố, có phải vì, có phải vì có một chữ “Tố” trong tên thiếp không?”.
Giấc mộng ăn khớp với hiện thực ấy đến đây bỗng ngừng bặt, ta sợ hãi toàn thân ướt đẫm mồ hôi lạnh. Ta nhẹ nhàng xoa cái bụng đã hơi nhô cao, hoài thai đã ba năm, ta thầm tính, có lẽ cũng sắp tới lúc lâm bồn rồi.
Màn đêm buông xuống, xưa nay Nại Nại chưa từng phải hầu hạ ta đi nghỉ. Nhưng bây giờ ta không thể một mình tự lấy nước rửa mặt súc miệng được, đành nhờ nàng ta. Nại Nại đắp chiếc chăn hoa lên người giúp ta, nói: “Nương nương, đợi thêm chút nữa, có lẽ đêm nay điện hạ sẽ tới không chừng”.
Ta im lặng buồn rầu. Sau khi xảy ra chuyện ấy, Dạ Hoa chưa bao giờ nghỉ lại đây. Ta biết, sau này cũng không bao giờ nghỉ lại nữa.
Khi ấy, trên núi Tuấn Tật ở Đông Hoang, nếu Dạ Hoa nói với ta rằng chàng đã có người trong mộng, thì ta sẽ không để chàng lấy ta.
Khi ấy, ta vẫn chưa đem lòng yêu chàng, chẳng qua chỉ là sống một mình nên cảm thấy quá cô đơn.
Nhưng chàng chẳng nói điều gì, chàng cưới ta, còn dẫn ta lên Cửu Trùng Thiên này.
Trời vốn sinh ta khéo giả vờ giả vịt, cho nên vô vàn vướng mắc giữa Dạ Hoa và thiên phi Tố Cẩm ta đều coi như không biết.
Ta nghĩ, cho dù như thế nào, người chàng lấy là ta, chúng ta đã bái thiên địa ở Đông Hoang, cùng nhau thề nguyền, ta còn mang thai đứa con của chàng, ta yêu chàng như vậy, rồi sẽ có một ngày chàng sẽ cảm động vì ta.
Đúng là chàng cũng dần dần đối xử dịu dàng với ta.
Thậm chí ta còn mừng thầm, cứ ngỡ rằng cho dù không yêu ta thì chàng có chút gì đó thích ta rồi chăng?
Có những lúc, tình yêu làm con người ta trở nên vô cùng hèn mọn, nhỏ bé.
Thế nhưng chuyện ấy đã xảy ra. Cho nên hễ tỉnh mộng là ta lại ý thức được rằng mình đã mất đi đôi mắt, mất đi ánh sáng.
Ngày hôm đó, thiên phi Tố Cẩm mời ta đi đến Dao Trì ngắm hoa. Ta cho rằng đó là một buổi tiệc nhỏ của nữ giới, nên ngu ngốc nhận thiếp mời. Khi đến Dao Trì mới hay chỉ có hai ta.
Cho cung nga lui hết, ả kéo ta một mạch đến Tru Tiên đài.
Đứng trước Tru Tiên đài, ả lạnh lùng nhìn ta cười: “Ngươi có biết không? Thiên Quân sắp phong Dạ Hoa làm thái tử, còn ban cho ta làm phu nhân của Dạ Hoa”.
Xưa nay ta không thể hiểu nổi những quy củ của đám thần tiên bọn họ, chỉ cảm thấy có một dòng máu nóng trào lên giữa lồng ngực, không biết là đang tức giận hay là hoang mang.
Ả vẫn cười ngạo mạn: “Ta và Dạ Hoa tâm đầu ý hợp, Cửu Trùng Thiên vốn là nơi đám người trần các ngươi không nên tới, sinh con xong, ngươi hãy từ Tru Tiên đài này nhảy xuống, trở về chốn cũ của ngươi đi”.
Ta không biết nhảy xuống Tru Tiên đài có thể quay trở về núi Tuấn Tật hay không, khi ấy, chưa bao giờ ta nghĩ đến chuyện ra đi. Ta ngẩn người hỏi ả ta: “Là Dạ Hoa đưa tôi về ư? Tôi là vợ của chàng, nên đương nhiên sẽ đi theo chàng”.
Bây giờ nhớ lại, câu nói đó thực sự là tự chuốc nhục vào thân.
Nhưng khi ấy ta luôn ngây ngô nghĩ rằng Dạ Hoa chí ít cũng hơi thích ta, chỉ cần chàng thích ta một chút, một chút thôi thì ta sẽ luôn ở bên chàng.
Tố Cẩm thở dài nhưng lại ra vẻ tức cười nhiều hơn, đột nhiên chộp lấy tay ta, kéo ta ngã xuống mép Tru Tiên đài.
Ta còn tưởng ả sẽ đẩy ta xuống Tru Tiên đài, nào ngờ kẻ rơi khỏi đài cao chính là ả ta, ta còn chưa kịp phản ứng, bên cạnh đã có một bóng đen lao vút qua, bổ nhào xuống dưới.
Dạ Hoa ôm Tố Cẩm đứng trước mặt, lạnh lùng nhìn ta, trong đôi mắt đen thẳm nung nấu ngọn lửa giận dữ ngút trời.
Tố Cẩm nằm trong lòng chàng, thở hắt ra: “Đừng trách Tố Tố, không phải nàng ấy cố ý đẩy thiếp, mà là nghe tin Thiên Quân ban thiếp cho chàng, nên nàng ấy hơi xúc động”.
Thật khó tin, rõ ràng ta không làm gì cả.
“Không phải thiếp, không phải thiếp, thiếp không đẩy nàng ta, Dạ Hoa, chàng phải tin thiếp, chàng phải tin thiếp…”. Ta hết lần này đến lần khác giải thích với chàng, kinh hoàng, lắp bắp, giống hệt một tên tiểu nhân đang vụng về phân bua.
Chàng vung tay, gằn giọng: “Đủ rồi. Ta chỉ tin những gì ta thấy”.
Chàng không chịu nghe ta giải thích, chàng không tin ta, chàng ôm Tố Cẩm, mày nhíu lại, vội vội vàng vàng rời khỏi Tru Tiên đài.
Đêm đó, mang khuôn mặt u ám, chàng đứng trước mặt ta: “Đôi mắt của Tố Cẩm đã bị chướng khí ở Tru Tiên đài làm hỏng, Tố Tố, nhân quả luân hồi, nợ cái gì của người khác, thì nhất định phải trả cái đó. Tố Tố, đừng sợ, ta sẽ thành thân với nàng, từ đây về sau, ta sẽ là đôi mắt của nàng”.
Trước đó, chàng chưa bao giờ nhắc đến chuyện sẽ cùng ta thành thân trên Cửu Trùng Thiên này. Sự lạnh lẽo, phẫn nộ và sợ hãi cùng lúc tuôn trào trong lòng ta.
Ta nghĩ, trước đây ta chưa bao giờ mất tư thế như bây giờ, ta nắm chặt tay chàng: “Tại sao chàng lại muốn đôi mắt của thiếp? Là nàng ta tự nhảy xuống, là nàng ta tự nhảy xuống, chẳng liên quan gì đến thiếp cả, tại sao chàng không tin thiếp?”.
Ánh mắt chàng trầm ngâm đau đớn, nhưng vẫn cười lạnh lùng: “Khí độc bao quanh Tru Tiên đài, nàng ta tự mình nhảy xuống há chẳng phải không muốn sống sao? Tố Tố, nàng đúng là càng ngày càng không biết lý lẽ”.
Cửu Trùng Thiên này, ta chỉ có mình chàng. Ta luôn nghĩ rằng, sau khi đứa trẻ được sinh ra, sẽ cùng chàng nắm tay đứa trẻ, ngắm mây đùn trên biển suốt mười dặm, ráng chiều mênh mang đỏ ối khắp vạn trượng. Chẳng biết tự lúc nào, đối với ta, chàng đã trở nên quan trọng như vậy.
Ta bị khoét đi đôi mắt. Nại Nại chăm sóc ta suốt ba ngày, sau ngày thứ ba, Tố Cẩm đứng trước mặt ta, nói: “Đôi mắt của ngươi hiện ta dùng rất tốt”.
Ta chợt bừng tỉnh.
Bạn đã từng yêu một người?
Bạn đã từng hận một người?
Thực ra yêu hận tình thù giữa hai người đó, ta chẳng qua chỉ là người qua đường, mơ mơ hồ hồ bị giữ lại, là kiếp số đã định sẵn mà thôi.
Hai ngày nay, ta đã không còn phân biệt nổi ngày đêm, đã học được cách dùng tai để tìm manh mối, phân biệt ngày đêm.
Sau khi dùng xong bữa trưa, Nại Nại sấp ngửa chạy vào sân, thở hổn hển: “Nương nương, nương nương, Thiên Quân vừa ban chỉ, sẽ ban, sẽ ban thiên phi Tố Cẩm cho, cho, cho thái tử điện hạ”.
Ta cười cười, Dạ Hoa được phong làm thái tử đã được một thời gian, chuyện này sớm muộn gì cũng xảy ra mà thôi. Nhưng Tố Cẩm rốt cuộc vẫn không thành chính thất của Dạ Hoa được. Gần đây ta có nghe nói, năm đó Thiên Quân và Đế Quân Bạch Chỉ của nước Thanh Khâu đã từng có ước hẹn, người kế ngôi Thiên Quân sẽ phải lập con gái của Đế Quân Bạch Chỉ là Bạch Thiển làm Thiên Hậu.
Bụng bỗng đau dữ dội.
Nại Nại gào lạc cả giọng: “Nương nương, người làm sao thế?”.
Ta ngẩng đầu nhìn nàng ấy, gượng cười: “Hình như sắp sinh rồi”.
Trong suốt quá trình sinh nở, ta ngất đi rồi lại tỉnh, vô cùng đau đớn. Lúc Tố Cẩm thay mắt, Dạ Hoa bên ả ta suốt một ngày một đêm, nhưng lúc này, bên cạnh ta chỉ có mình Nại Nại bầu bạn. Ta khổ sở cố kìm nén không gọi tên Dạ Hoa.
Đã đủ bi thảm rồi, cho nên không thể bi thảm hơn nữa.
Nại Nại vừa khóc vừa nói: “Nương nương, người bỏ tay con ra, con đi tìm thái tử điện hạ, con đi tìm thái tử điện hạ”.
Ta đã đau đớn không thốt lên lời, chỉ có thể mấp máy môi ra hiệu: “Nại Nại, ngươi ở đây cùng ta một lúc, chỉ một lúc thôi”.
Nại Nại càng khóc to hơn.
Là con trai.
Ta không biết Dạ Hoa đã đến từ lúc nào, khi tỉnh dậy chàng đã nắm chặt tay ta, đôi tay lạnh như băng.
Chàng ẵm đứa trẻ qua, nói: “Nàng có thể sờ mặt con, nó rất giống nàng”.
Ta không nhúc nhích. Ta rất yêu đứa trẻ này, nhưng ta không thể đem nó về sống ở núi Tuấn Tật, ta phải để nó ở lại.
Đã như thế thì tốt nhất là đừng động vào nó, đừng ôm ấp nó, sẽ không khiến mình nảy sinh tình cảm sâu đậm.
Dạ Hoa ngồi cạnh ta rất lâu, chỉ im lặng không nói lời nào.
Khi Dạ Hoa đi rồi, ta gọi Nại Nại đến trước mặt, dặn dò Nại Nại rằng ta đặt tên con là A Ly, sau này nhất định phải chăm sóc cho nó thật chu đáo.
Ngày ngày Dạ Hoa đều đến thăm ta, chàng vốn là người ít nói. Trước đây ta nói rất nhiều, nhưng gần đây chẳng còn hứng thú nhắc đến điều gì, cho nên phần lớn thời gian, hai người chúng ta cứ lặng lẽ bên nhau như thế.
Chàng không nhắc đến hôn sự với Tố Cẩm, Nại Nại cũng không dám nói.
Ba tháng sau, cơ thể ta đã hồi phục. Chàng mang tới rất nhiều vải vóc, váy áo, hỏi ta thích cái nào, nói sẽ may áo cưới cho ta.
Chàng nói: “Tố Tố, ta đã từng nói, ta sẽ thành thân với nàng”.
Đương nhiên ta biết, chàng chỉ là thương hại ta, cảm thấy ta là một người phàm trần, lại bị mù lòa, tuy là tự làm tự chịu, nhưng vừa đáng giận lại vừa khiến người ta phải thương xót.
Ta tự nhủ chắc chắn ta sẽ ra đi, Cửu Trùng Thiên này chẳng còn lý do nào để ta ở lại nữa.
Nại Nại đi dạo cùng ta, hết lần này đến lần khác, chúng ta đi đi lại lại trên con đường từ Tẩy Ngô cung đến Tru Tiên đài, Nại Nại vô cùng khó hiểu. Ta nói với nàng ta, ta thích ngửi mùi hoa phù dung ven đường đi.
Nửa tháng nữa lại trôi qua, dựa vào cảm giác, ta đã có thể tự mình đi một mạch từ Tẩy Ngô cung đến Tru Tiên đài mà không gặp bất cứ chướng ngại nào.
Nói dối Nại Nại là một chuyện quá dễ dàng. Đứng trên Tru Tiên đài, lòng ta nhẹ nhõm, A Ly đã có Nại Nại chăm sóc, ta còn gì yên tâm hơn?
Nhưng trong giây lát lại rất muốn nói cho Dạ Hoa biết rằng ta không hề đẩy Tố Cẩm, cho dù chàng có tin hay không đi nữa.
Trên đỉnh núi Tuấn Tật, Dạ Hoa đã từng tặng cho ta một chiếc gương đồng rất đẹp. Khi ấy, chàng phải đi rất xa làm một việc quan trọng, một mình ta vò võ, chàng bèn lấy một bảo bối từ trong tay áo ra, dặn ta rằng, dù chàng có ở nơi đâu, chỉ cần ta nhìn gương này gọi tên chàng, chàng sẽ nghe thấy, nếu chàng không bận thì sẽ lập tức nói chuyện cùng ta.
Ta cũng chẳng hiểu sao khi lên Cửu Trùng Thiên ta vẫn mang theo chiếc gương này bên mình, có lẽ vì đó là món đồ duy nhất mà Dạ Hoa đã tặng cho ta.
Ta rút chiếc gương ra, đã lâu rồi không gọi tên chàng, hơi ngập ngừng ta khẽ gọi: “Dạ Hoa”.
Một hồi lâu, bên tai văng vẳng tiếng chàng: “Tố Tố?”
Ta đã quên rằng chàng không ở bên ta, nên chỉ chầm chậm gật đầu, thật khó khăn mới có thể mở lời lần nữa: “Thiếp phải về núi Tuấn Tật rồi, đừng đi tìm thiếp, một mình thiếp vẫn có thể sống được. Xin chàng hãy giúp thiếp chăm sóc A Ly cho thật tốt. Trước đây thiếp vẫn mơ rằng sẽ có một ngày có thể vừa nắm tay chàng cùng ngắm trăng sáng giữa trời sao, ngắm ánh dương nhô trên biển mây, vừa kể cho con nghe những chuyện khi xưa chúng ta ở trên núi Tuấn Tật, bây giờ e là không thể nữa rồi”. Ta ngẫm nghĩ rồi bổ sung, “Đừng nói với con mẹ của nó chỉ là một người phàm trần, vì các thần tiên trên trời đều coi thường người phàm”.
Rõ ràng chỉ là những lời cáo biệt tầm thường, mà sao trong phút chốc lại muốn rơi lệ, ta vội ngửa đầu nhìn trời xanh, chợt nhớ ra, mình đã chẳng còn đôi mắt, nước mắt chảy từ đâu?
Giọng nói của Dạ Hoa dường như có chút đè nén: “Nàng, nàng đang ở đâu?”
“Tru Tiên đài”, ta đáp, “Thiên Phi Tố Cẩm nói với thiếp rằng nhảy xuống Tru Tiên đài, thì thiếp quay về được núi Tuấn Tật. Bây giờ thiếp đã quen với việc không nhìn thấy gì, núi Tuấn Tật là cố hương của thiếp, mọi thứ xung quanh đều vô cùng quen thuộc, cuộc sống một mình sẽ không quá khó khăn, bất tiện với thiếp”.
Chàng vội vã ngắt lời ta: “Tố Tố, nàng đứng yên ở đó, ta lập tức tới ngay”.
Cuối cùng ta vẫn không có dũng khí để giải thích với chàng một lần nữa, khi đó không phải ta đẩy thiên phi Tố Cẩm xuống, rốt cuộc chàng vẫn chẳng tin ta, còn ta chẳng thể tiếp nhận nỗi thất vọng và mất niềm tin của chàng.
Ta nói, “Dạ Hoa, thiếp bỏ qua chàng, chàng cũng bỏ qua thiếp, hai người chúng ta, không ai nợ ai”.
Chiếc gương đồng rơi từ trên tay xuống “keng” một tiếng, Dạ Hoa ở nơi nào đó đang gào lên điên cuồng: “Nàng đứng yên ở đó cho ta, đừng nhảy…”.
Ta quay người nhảy xuống Tru Tiên đài. Dạ Hoa, ta chẳng thể yêu cầu thêm gì ở chàng nữa, chẳng còn gì.
Khi ấy, ta không biết rằng, Tru Tiên đài diệt tiên, thực ra là diệt đạo hạnh tu hành của thần tiên. Còn người phàm trần mà nhảy xuống Tru Tiên đài thì sẽ tan thành tro bụi.
Khi ấy, ta cũng không biết rằng, mình thực ra đâu phải người phàm trần.
Chướng khí dưới Tru Tiên đài làm ta bị thương khắp mình, cũng bởi vì đó là chướng khí có thể địch với ngàn vạn thần binh tuyệt thế, nên đã xé toang phong ấn trên trán ta. Ta không ngờ rằng vết chu sa trên trán ta là do khi Quỷ Quân Kình Thương phá vỡ chuông Đông Hoàng, để nhốt hắn ta một lần nữa, ta đã cùng hắn đại chiến một trận và bị hắn phong ấn. Dấu ấn đó đã lấy mất ký ức dung mạo và tiên khí trùm thân của ta, biến ta thành một người phàm trần.
Những chuyện xa xưa liên tiếp dội về, ta thầm nhắc mình: “Bạch Thiển, ngươi sinh ra là tiên thai, không cần tu hành cũng đã là tiên nữ. Nhưng khắp bốn bể tám hướng đâu có những việc dễ dàng như thế, không trải qua thiên kiếp này, sao ngươi có thể thăng lên làm thượng thần?”.
Cho nên, những yêu hận ân oán của mấy chục năm, trong phút chốc chẳng qua cũng chỉ là thiên kiếp mà thôi.
Ta rơi xuống nằm ngất trong rừng hoa đào mười dặm của thượng thần Chiết Nhan ở phía đông của Đông Hải, lão cứu ta tỉnh dậy rồi than thở: “Cha mẹ cùng mấy ca ca của ngươi đã phát điên lên vì tìm ngươi, ta cũng lo lắng tới mức hai trăm năm nay chưa được một giấc ngủ ngon, đôi mắt này của người, thương tích trên người ngươi, rốt cuộc là thế nào?”.
Là thế nào? Một kiếp số mà thôi.
Ta vừa cười vừa nói với Chiết Nhan: “Con nhớ rằng ở chỗ của người có một loại thuốc, uống vào có thể quên hết những chuyện nên quên đúng không?”.
Chiết Nhan nhíu mày: “Xem ra mấy chục năm nay ngươi đã gặp không ít chuyện đau lòng”.
Chén thuốc nóng hổi trước mặt bốc mùi thơm nồng.
Thế gian này sẽ không có một Tố Tố trên núi Tuấn Tật nữa. Đó chẳng qua chỉ là một giấc mộng của thượng thần Bạch Thiển – con gái của Đế Quân Bạch Chỉ của nước Thanh Khâu, mang theo biết bao cay đắng khổ sở và sắc hoa đào phai nhạt.
Sau khi tỉnh giấc, những gì đã mơ cũng sẽ quên sạch.
Thanh Khâu Bạch Thiển
(Ba trăm năm sau)
Đông Hải Thủy Quân mới sinh con trai nối dõi, để chuẩn bị cho tiệc đầy tháng của con, trong buổi chầu trên điện Lăng Tiêu đã xin phép bề trên cho nghỉ mấy ngày, Thiên Quân mắt nhắm mắt mở, đồng ý cho ông ta đi.
Đa Bảo Nguyên Quân cực kỳ tò mò, chỉ là một yến tiệc mà thôi, hà tất phải lao tâm khổ tứ đến vậy?
Thế nên, sau buổi chầu ngày hôm nay, bèn cố ý đuổi theo Nam Đẩu Chân Quân người xưa nay vốn có tình giao hảo với Đông Hải Thủy Quân, muốn thăm dò tình hình.
Cửu Trùng Thiên này vốn cực kỳ vô vị, sự quan tâm của các thần tiên đối với việc Đông Hải Thủy Quân nghỉ phép không phải chỉ ngày một ngày hai, lại thấy Đa Bảo Nguyên Quân khai mào, bèn lũ lượt đến vây quanh Nam Đẩu Chân Quân ở trước điện.
Nam Đẩu Chân Quân vô cùng nghi hoặc: “Chẳng nhẽ các vị tiên hữu không biết, trong dạ yến nửa tháng sau ở Đông Hải, vị cô cô ở Thanh Khâu cũng đến dự đó sao?”.
Bên ngoài Đông Hải, ở giữa Đại Hoang, đó chính là Thanh Khâu.
Nói đến đây, còn chắp hai tay hướng về Thanh Khâu ở hướng đông vái một cái, rồi mới tiếp tục kể: “Vị cô cô đó có tật ở mắt, không nhìn được ánh sáng mạnh, tường san hô ngói lưu ly của Đông Hải Long Cung lại quá chói mắt, nên Đông Hải Thủy Quân đang phải chạy đi khắp nơi kiếm cỏ thanh hạnh, để dệt thành tấm thảm che những thứ quá chói sáng kia”.
Lời vừa thốt ra, hết thảy chúng tiên trước điện Lăng Tiêu đều xì xào.
Vị cô cô như lời của Nam Đẩu Chân Quân, chính là con gái cưng của Bạch Chỉ Đế Quân, họ Bạch, tên chỉ có một chữ Thiển, vì là thượng thần thời viễn cổ của đời trước, để biểu thị sự tôn trọng, chúng tiên đều gọi nàng một tiếng “cô cô”.
Tự Bàn Cổ dùng búa khai thiên lập địa đến nay, chinh chiến giữa các tộc liên miên không dứt, trời đất mấy phen đổi chủ, thượng thần viễn cổ phần nhiều ứng kiếp, kẻ biến mất người đã ngủ say.
Những người còn sống trên cõi đời này, đếm qua đếm lại, ngoài gia tộc của Thiên Quân Cửu Trùng Thiên, thượng thần Chiết Nhan ẩn dật ở rừng đào mười dặm phía đông của Đông Hải thì chỉ có gia tộc của Bạch Chỉ Đế Quân ở nước Thanh Khâu mà thôi.
Nói đến Bạch Thiển là nhắc đến một bí mật không được coi là bí mật của gia tộc Thiên Quân.
Nghe nói năm vạn năm về trước, Bạch Thiển đã đính hôn với nhị hoàng tử – con trai của Thiên Quân là Tang Tịch, vốn là một mối nhân duyên hết sức môn đăng hộ đối, nhưng không hiểu vì sao Tang Tịch lại đem lòng yêu tỳ nữ của Bạch Thiển, sống chết từ hôn với Bạch Thiển.
Bạch Chỉ Đế Quân không chịu nổi nỗi nhục này, cùng thượng thần Chiết Nhan đến Cửu Trùng Thiên tìm Thiên Quân nói chuyện phải trái.
Thiên Quân giận dữ, lập tức đày nhị hoàng tử đi xa, bắt hắn đi đến phương bắc, phong cho làm Bắc Hải Thủy Quân. Lại ban thiên chỉ, lấy danh nghĩa Thiên tộc, người nào kế nhiệm ngai vị Thiên đế thì phải lấy Bạch Thiển làm Thiên Hậu.
Hơn ba trăm năm trước, Thiên Quân đã công bố với bốn bể tám cõi rằng trưởng tôn của ngài – Dạ Hoa được phong làm người kế nhiệm Thiên đế.
Giới thần tiên vốn cho rằng chẳng bao lâu sẽ được uống rượu mừng của Dạ Hoa Quân và Bạch Thiển. Nhưng suốt ba trăm năm nay, chưa bao giờ nghe thấy tin tức hai người sẽ tổ chức hôn lễ.
Chỉ nghe nói Dạ Hoa Quân đã có một đứa con trai, ngôi vị chính phi vẫn luôn bỏ trống. Mà Bạch Thiển luôn ở trong nước Thanh Khâu, thiệp mời của ai cũng không thể gửi tới nàng được.
Trai chưa vợ, gái chưa chồng, hai nhà lại không hề vội vã, đây đúng là chuyện lạ.
Chúng tiên e dè cảm thán một hồi, sau lại đổi sang khen Đông Hải Thủy Quân có phúc, cô cô mấy vạn năm không bước chân ra khỏi Thanh Khâu, nay ông ta lại mời được, thực là mát mặt lắm thay.
Nam Đẩu Chân Quân gật đầu nói: “Vốn đã là một chuyện rất có thể diện, nhưng mấy ngày nay Đông Hải Thủy Quân lại lo lắng khôn xiết, vì chẳng ngờ rằng cô cô lại nhận thiếp đến dự tiệc, mà trước đó cũng đã mời Bắc Hải Thủy Quân. Mấy hôm trước nghe nói gần đây Dạ Hoa Quân đem theo tiểu thiên tôn du ngoạn ở Đông Hoang, cũng thuận đường tới Đông Hải một chuyến. Ba người đó không tránh khỏi sẽ gặp mặt trên bàn tiệc, Đông Hải Thủy Quân đến bây giờ vẫn lo sợ nơm nớp, sợ rằng mình đã gây mầm họa”.
Cửu Trùng Thiên này hầu hết là những thần tiên già cả có chút lai lịch, cũng hiểu biết ít nhiều về Bắc Hải Thủy Quân, Thanh Khâu Bạch Thiển và người kế nhiệm ngôi Thiên đế Dạ Hoa Quân. Nhưng lại có một tiểu tiên mới lên trời ngây ngô hỏi: “Vị cô cô ở Thanh Khâu đó là ai, nàng ấy đã từng kết thù oán gì với Dạ Hoa Quân và Bắc Hải Thủy Quân ư?”.
Chúng tiên lại được thể mồm năm miệng mười giải thích một lượt, lần này trong khi giải thích lại dệt thêm rất nhiều tin đồn thất thiệt.
Tiểu tiên ngây ngô đó không nắm được trọng điểm, mặt nghệt ra nhìn vào chiếc quạt giấy vẫn để trắng chưa vẽ gì đang phe phẩy trước mặt: “Bắc Hải Thủy Quân thà đắc tội với Bạch Chỉ Đế Quân cũng phải thành thân với tỳ nữ của vị cô cô kia, thật không biết phong độ tư thái của tỳ nữ đó như thế nào nhỉ?”.
Đa Bảo Nguyên Quân lấy tay che miệng húng hắng ho một tiếng: “Bản quân đã từng gặp người con gái đó, khi đó nhị hoàng tử đích thân cứu nàng ta ra rồi đến quỳ trước mặt Thiên Quân, xin cho nàng ta một danh phận, thực sự đó cũng có thể coi là một mỹ nhân, có điều nếu so với vị cô cô của nhà Bạch Chỉ Đế Quân kia thì hãy còn kém xa. Bản quân tuy chưa từng được gặp cô cô, nhưng nghe nói cô cô giống mẹ, mà so với mẹ còn có vài phần đẹp hơn”.
Nam Cực Tiên Quân – người già nhất trong đám thần tiên các lộ vuốt vuốt chòm râu dài trắng như cước trầm ngâm, nói: “Lão đây đã từng được gặp cô cô một lần, khi đó lão vẫn là một đồng tử theo hầu Thiên Quân, cùng với Thiên Quân nương nương đi ngắm hoa đào ở chỗ thượng thần Chiết Nhan. Cô cô đứng nhảy múa trên những cành đào, vì cách rất xa, chỉ có thể nhìn thấy bóng áo hồng giữa đào hoa thắm sắc, dáng vẻ vô cùng uyển chuyển, vô cùng uyển chuyển”.
Chúng tiên lại được một trận xì xào, than thở rằng một giai nhân khuynh quốc khuynh thành như vậy cũng bị từ hôn, ý trời thật là khó đoán. Sau khi bàn tán hồi lâu, cũng hài lòng thỏa mãn mà bỏ đi hết thảy.
Sau đó, thiếp mời đến dự tiệc đầy tháng con của Đông Hải Thủy Quân phát đi đã loan ra khắp bốn bể tám cõi, đó đều là chuyện sau này.
***
Con gái lớn của Nhược Thủy Thần Quân gả đi Đông Hải chưa đầy ba năm đã sinh cho Đông Hải Thủy Quân thêm một đứa con trai, hai nhà Nhược Thủy, Đông Hải đều hỉ hả vui mừng.
Đông Hải Thủy Quân lại càng đắc ý vô cùng, thiếp mời dự tiệc mừng đầy tháng con trai đã phát đi khắp thiên hạ, đến động Hồ Ly mà cha, mẹ ta ở cũng có thiếp đưa tới.
Cha, mẹ đã ngao du thiên hạ mấy trăm năm. Đại ca, nhị ca, tam ca kế tiếp nhau lập gia thất rồi chia đất phong, tứ ca thì đến Tây Sơn tìm Tất Phương điểu – vật cưỡi đã đi lạc từ lâu. Vì thế, động Hồ Ly này hiện giờ chỉ có một mình ta.
Ta cầm tấm thiếp trên tay, giơ ra ánh sáng của rèm nước bên ngoài động hắt chiếu vào suốt hồi lâu, nhớ lại khi mẹ sinh ta bị khó sinh, hình như đã mời bà đỡ nhà cụ cố của Đông Hải Thủy Quân đến giúp, nhờ thế mẹ bớt cực khổ đi rất nhiều, cho nên liền chọn một viên dạ minh châu bằng trái bí ngô non, chuẩn bị đi Đông Hải một chuyến.
Khả năng nhớ đường của ta vốn không được tốt lắm.
Trước khi đi bèn đến chỗ lão Mê Cốc ngay sát vách xin lấy một cành nhỏ trên cây Mê Cốc.
Cây Mê Cốc vốn có gỗ màu đen, hoa Mê Cốc ngũ sắc thơm lừng. Nhưng hoa này ngoài công dụng dùng để chiếu sáng vào ban đêm ra thì không có công dụng nào khác.
Hiểu thấu lòng ta vẫn là nhành Mê Cốc, chỉ cần đeo một nhành bên người thì sẽ không bị lạc đường.
Bản thể của lão Mê Cốc vốn là một cây Mê Cốc già, từ thuở hồng hoang đã mọc trên núi Chiêu Diêu ở Nam Hoang.
Khi mẹ mang thai tứ ca đã cãi nhau với cha, phật ý nên bỏ nhà ra đi, lạc đường đi tới núi Chiêu Diêu, lúc cha đến tìm mẹ, sợ rằng lần sau mẹ một mình bỏ nhà đi sẽ lại bị lạc đường, cho nên dứt khoát đánh cây Mê Cốc duy nhất trên núi Chiêu Diêu về Thanh Khâu, trồng ở trước cửa nhà.
Thanh Khâu là chốn tiên cảnh non bồng, cây Mê Cốc này được tắm táp trong tinh hoa của trời đất, hấp thu thời tiết bốn mùa, sau ba năm đã tu thành hình người. Lại qua ba ngàn năm nữa, đã vừa vặn tọa hóa thành một địa tiên.
Cha lại đưa cho lão ta mấy bó trúc gọi là quà chúc mừng, lão bèn dùng mấy bó trúc đó và ít cỏ gianh, xây ba gian nhà bên cạnh động Hồ Ly, làm hàng xóm của chúng ta.
Vì là thần tiên của nước Thanh Khâu, cũng theo các tiểu tiên khác, lão ta gọi cha ta một tiếng “quân thượng”.
Lão Mê Cốc thực ra không già, hai nghìn năm sau khi ta chào đời lão mới tu thành hình người, môi đỏ răng trắng, hai mắt như hoa đào cứ long lanh chớp chớp.
Tiên nữ của Thanh Khâu hầu hết đều nhờ mẹ mai mối cho lão ta, nhưng chẳng được mối nào.
Lão Mê Cốc nhìn bề ngoài thì phong lưu, nhưng thực chất lại vô cùng lễ độ. Mỗi lần gặp ta, lão đều chắp hai tay, cung kính gọi một tiếng “cô cô”, khiến ta thấy thật dễ chịu.
Lần này, lúc lão Mê Cốc đưa nhành cây nhỏ cho ta, thần sắc có chút u uất, có lẽ là trong sinh hoạt có điều gì đó không được hài hòa lắm, nhưng ta xưa nay chưa bao giờ tính toán với lão ta.
Sau khi lấy được đồ, ta bèn bắt quyết, gọi mây lành tới, đi thẳng đến Đông Hải.
Phía đông của Đông Hải có một rừng đào rộng mười dặm.
Tam ca nghe nói ta đến Đông Hải dự tiệc, từng gửi thư đến, bảo ta khi quay trở về nhớ qua phủ của Chiết Nhan xin lão ta hai bình rượu Đào Hoa Túy.
Chiết Nhan chính là chủ nhân của rừng đào mười dặm đó, lão là một con phượng hoàng già đến mức không nhớ nổi mình đã bao nhiêu tuổi nữa.
Mẹ nói, Chiết Nhan chính là con phượng hoàng đầu tiên được sinh ra từ buổi khai thiên lập địa. Phụ thần đích thân nuôi dưỡng lão ta, địa vị còn cao quý hơn Thiên Quân ngày nay đến vài phần.
Lúc ta chào đời, thế gian này đã chẳng còn dấu tích của Phụ Thần.
Cha mẹ đưa ta đến gặp Chiết Nhan, lão ta nhíu mày, cười với cha: “Đây chính là cô nương mà nương tử ngươi mới sinh thêm phải không? Trông nhỏ quá”.
Mối quan hệ giữa Chiết Nhan và nước Thanh Khâu chủ yếu bắt đầu từ mẹ ta.
Nghe nói vạn vạn năm về trước, Chiết Nhan từng cầu thân mẹ ta, sính lễ cũng đã đưa đến trước cửa.
Nhưng người mà mẹ ta ưng lại là kẻ đầu gỗ – cha ta, cho nên bướng bỉnh một mực không chịu nhận lời.
Vì thế Chiết Nhan mới đánh nhau một trận thỏa thích với cha ta, đánh xong, hai người liền kết nghĩa huynh đệ.
Năm sau, cha cử kiệu tám người khiêng tới đón mẹ về Thanh Khâu, còn mời Chiết Nhan làm chủ hôn.
Luận về thứ bậc, ta và mấy vị ca ca đều phải gọi Chiết Nhan là bá phụ.
Nhưng lão ta xưa nay không chịu nhận già, kiên quyết cho là mình vẫn còn trẻ lắm, ai dám cả gan gọi lão là “ông”, lão liền hận người đó tới cả ngàn vạn năm.
Cho nên, chúng ta chỉ còn cách run sợ mà theo cha mẹ gọi tên lão mà thôi.
Tuy Chiết Nhan là một tay ủ rượu có nghề, nhưng lại không thích chè chén say sưa chốn yến tiệc.
“Bậc thượng thần thần bí rút khỏi tam giới, chẳng màng hồng trần, thú vui tao nhã, phẩm vị còn trang nhã hơn cả thú vui” chính là cách lão miêu tả bản thân.
Vì thế đối với những thiếp mời lão dự tiệc uống rượu chung vui của các thần tiên gửi tới, xưa nay lão chỉ cười để đấy mà thôi.
Chúng tiên mời lão chung vui, vốn cũng là bày tỏ ý làm thân với một vị thượng thần tuy không nhậm chức gì nhưng địa vị lại cao sang. Bên này lão ở hơi lâu thì bên kia các thần tiên cũng đặt điều, nói rằng vị thượng thần nhàn tản này chỉ có thể tôn kính chứ không thể gần gũi, cho nên, ý muốn mời lão tiếp cũng tan dần.
Chiết Nhan vui với sự thanh tịnh, một lòng vui thú điền viên giữa rừng hoa đào thắm sắc.
Đến bên bờ Đông Hải, ta bấm ngón tay tính giờ, bây giờ cách lúc khai tiệc đúng một ngày rưỡi.
Nhớ tới lời dặn dò của tam ca, ta bèn chuyển hướng đi về phía phủ đệ của Chiết Nhan, xin lão ta một vò Đào Hoa Túy. San hai bình gửi về cho tam ca, lại rót một bình, kèm theo viên dạ minh châu làm quà mừng gửi tới Đông Hải Thủy Quân, chỗ còn lại thì chôn dưới động Hồ Ly để từ từ thưởng thức.
Đây chính là lúc hoa đào nở rộ, rừng đào mười dặm nở đầy hoa, sắc hoa tươi thắm bao phủ núi rừng, hương thơm ngào ngạt.
Ta men theo con đường quen thuộc đi về phía rừng đào sâu hun hút, vừa nhìn đã thấy Chiết Nhan khoanh chân xếp bằng ngồi gặm đào, quả đào rất to, chỉ nháy mắt đã chỉ còn trơ cái hạt.
Chiết Nhan cười hì hì vẫy tay gọi ta: “Chẳng phải tiểu nha đầu nhà họ Bạch đây sao, đúng là càng lớn càng xinh đẹp. Qua đây!”. Lão vỗ vỗ vào khoảng đất trống bên cạnh mình, “Ngồi xuống đây nào, để cho ta ngắm kỹ xem sao”.
Thần tiên trong khắp cõi trời đất này, cũng chẳng có mấy người thân phận cao tới mức có thể gọi ta là tiểu nha đầu.
Ba tiếng “tiểu nha đầu” tự nhiên khiến ta có một ảo giác rằng mình hãy còn trẻ lắm, làm ta thích thú vô cùng.
Ta ngoan ngoãn nghe lời ngồi xuống, Chiết Nhan liền lau lau tay vào vạt áo của ta.
Ta đang suy nghĩ xem phải mở lời như thế nào mới có thể thuận lợi lấy được vò rượu đó thì đã nghe Chiết Nhan cười hì hì: “Ngươi ở Thanh Khâu mấy vạn năm, chuyến này đi quả thực rất hay”.
Ta ngẩn người ra một lúc, không rõ câu này của lão là ý gì, chỉ cười đáp lại: “Hoa đào ở đây nở đẹp quá, đẹp tuyệt”.
Lão càng cười khoái chí hơn: “Mấy hôm trước, Bắc Hải Thủy Quân có dẫn vợ đến đây ngắm hoa mấy ngày liền. Lần đầu tiên ta nhìn thấy tiểu nương tử của hắn, đúng là rất ngây thơ, đáng yêu”.
Lần này thì ta cười không nổi.
Tiểu nương tử của Bắc Hải Thủy Quân ấy còn gọi là Thiếu Tân, cái tên này là do ta đặt cho.
Cũng không nhớ rõ bao nhiêu năm về trước, ta và tứ ca đi chơi ở hồ Động Đình, trong đám cỏ lau cao bằng nửa người bỗng phát hiện ra một con mãng xà còn nhỏ bị hành hạ đến mức chỉ còn thở thoi thóp.
Ta nhìn thấy đáng thương, bèn xin tứ ca cho mang nó về Thanh Khâu.
Con mãng xà nhỏ khi ấy đã tu thành tinh, tuy rằng vẫn còn non nớt nhưng cũng đã tạm có thể thành hình người, đó chính là Thiếu Tân. Thiếu Tân dưỡng thương mất hai năm ở Thanh Khâu, sau khi thương thế đã khỏi, nói muốn báo đáp ơn của ta nên ở lại đó.
Khi đó cha, mẹ ta đã không còn ở Thanh Khâu, động Hồ Ly do tứ ca ta làm chủ, tứ ca sắp xếp cho nàng ta làm tỳ nữ chuyên quét dọn. Trước đó, động Hồ Ly không có một tỳ nữ nào, công việc quét dọn đều do ta làm.
Ta vui mừng vì được nhàn nhã, cả ngày rong chơi chẳng thèm về nhà, cứ qua qua lại lại nhà của đại ca, nhị ca, tam ca và Chiết Nhan suốt.
Ngày tháng trôi qua bình yên như thế cũng được hai năm, một ngày kia cha mẹ trở về Thanh Khâu, nói rằng đã đính ước hôn sự cho ta. Vị hôn phu tương lai chính là Bắc Hải Thủy Quân – Tang Tịch.
Khi đó, Tang Tịch vẫn là con trai thứ được sủng ái nhất của Thiên Quân, sống trên Cửu Trùng Thiên, còn chưa bị biếm phong đến Bắc Hải ngày nay.
Thiên Quân công bố chuyện đính ước của ta và Tang Tịch khắp bốn bể tám cõi, thần tiên các lộ không ai là không biết.
Những người biết tin, ai ai cũng đến nhà trò chuyện thăm hỏi, nhân thể chúc mừng đôi câu.
Tứ ca và ta không chịu nổi phiền phức, thế là dứt khoát thu dọn tay nải cùng trốn đến rừng đào của Chiết Nhan.
Chuyến trốn chạy này đã sinh chuyện.
Khi ta ăn đào no nê quay trở lại Thanh Khâu thì đã chẳng thấy Thiếu Tân đâu cả, trong động Hồ Ly đầy bụi chỉ còn lại một phong thư từ hôn của Tang Tịch. Trong thư nói rằng hắn với Thiếu Tân lâu ngày nảy sinh tình cảm, không thể không lấy Thiếu Tân, chỉ biết xin lỗi ta mà thôi, vân vân và vân vân.
Ta cho rằng đây chẳng phải là việc gì ghê gớm lắm. Một là, ta còn chưa bao giờ gặp mặt Tang Tịch, nói gì đến chuyện có tình cảm gì gì đó; hai là, thời gian Thiếu Tân sống cùng ta không dài, cho dù có tình cảm cũng khó có thể nói là sâu sắc; ba là, đến súc vật sống trong rừng còn được lựa chọn đối tượng tương xứng, chúng sinh bình đẳng, đâu có lý Tang Tịch bị tước đoạt mất quyền này.
Nhưng việc này lại om xòm tới tận Thiên Quân.
Nhưng lại không phải là ta làm um lên.
Nghe nói Tang Tịch đích thân dắt tay Thiếu Tân quỳ trước sân rồng của Thiên Quân, nói rằng muốn cho Thiếu Tân một danh phận.
Không lâu sau, chuyện này đã loan đi khắp nơi.
Người người đều nói: “Con gái nhà họ Bạch ở Thanh Khâu thật đáng thương, trước đây cứ tưởng rằng là mối lương duyên, không ngờ mới đính ước chưa được ba năm đã bị hôn phu vứt bỏ, sau này còn lấy được ai nữa đây?”.
Cũng có kẻ nói nhăng cuội: “Không biết ả mãng xà đó đẹp nghiêng nước nghiêng thành thế nào, mà còn có thể hơn được cả hồ ly trắng chín đuôi chim sa cá lặn?”.
Lúc ấy, cha, mẹ, đại ca, nhị ca, tam ca và Chiết Nhan mới biết rằng ta bị từ hôn.
Chiết Nhan lập tức lôi phụ mẫu ta lên Cửu Trùng Thiên để hỏi tội Thiên Quân.
Quá trình cụ thể ta cũng không được rõ. Chỉ biết rằng sau đó Tang Tịch bị thất sủng, Thiên Quân vội vã phong cho hắn ta chức Bắc Hải Thủy Quân, cũng có nghĩa là đày hắn đi Bắc Hải. Còn về hôn sự của hắn và Thiếu Tân, thì trước sau vẫn không công nhận.
Về chuyện này, chỉ có một lần duy nhất mẹ ta phát biểu cảm tưởng: “Thằng nhãi chết tiệt, thế là đã dễ dàng cho nó lắm rồi”.
Chiết Nhan ngược lại lại rất tốt bụng, nửa góp vui nửa oán trách, chỉ than một câu: “Vì một người con gái mà hủy hoại tiền đồ của mình, sao phải khổ thế?”.
Khi đó, ta còn nhỏ chưa hiểu chuyện, luôn cảm thấy nhân vật chính chính là Tang Tịch và Thiếu Tân không có quan hệ gì với ta, ta không hề bị thiệt thòi.
Sau này, Thiên Quân đích thân ban chỉ trước sân rồng. Thiên chỉ ấy đại ý nói, tuy ngôi thái tử vẫn chưa định, nhưng con gái của họ Bạch ở Thanh Khâu – Bạch Thiển đã được Thiên tộc lựa chọn làm con dâu, tương lai sau này sẽ là Thiên Hậu nương nương.
Nói một cách khác, nghĩa là, các con trai của ông ta, ai muốn kế ngôi Thiên Quân, thì không thể không cưới Bạch Thiển ở Thanh Khâu.
Rõ ràng là long ân, nhưng long ân này quả thực quá lớn. Mấy người con trai của Thiên Quân vì tránh bị hiềm nghi là tranh giành ngôi báu, nên cơ bản không qua lại với ta. Đương nhiên, ta cũng không bao giờ đi thăm bọn họ. Mà các thần tiên khác cũng nể mặt Thiên tộc, không dám mạo phạm Thiên tộc, mạo hiểm đến đặt sính lễ ở chỗ cha ta. Từ đó, ta hoàn toàn không có ai để mắt tới.
Ba trăm năm trước, Thiên Quân phong cho trưởng tôn là Dạ Hoa Quân làm thái tử, chuẩn bị kế ngôi hoàng đế.
Ta hoàn toàn không biết chút gì về tên Dạ Hoa này. Chỉ nghe nói sau khi Tang Tịch bị lưu đày, vì tư chất của mấy người con của Thiên Quân đều hết sức tầm thường, Thiên Quân sớm tối u sầu lo lắng. May mà ba năm sau đó, con trai lớn là Ương Thố sinh thêm một đứa cháu hết sức thông minh mẫn tuệ, khiến cho Thiên Quân vui mừng khôn xiết.
Đứa cháu này chính là Dạ Hoa.
Theo như thiên chỉ mà Thiên Quân ban bố năm nào, ta phải thành thân với tên Dạ Hoa Quân này. Về phía Dạ Hoa, nghe nói đã từng lấy một người tên là Tố Cẩm làm thứ phi, vô cùng sủng ái, còn sinh ra một tiểu thiên tôn, nên tự nhiên chẳng màng tới hôn sự với ta. Còn về phía ta, tuy không có ý trung nhân như hắn, nhưng hễ cứ nghĩ tới hắn ta sinh sau ta tới gần mười vạn năm, luận về thứ bậc còn phải gọi ta một tiếng cô cô, luận về tuổi tác phải gọi ta một tiếng lão tổ tông, thì chẳng thể cam tâm tình nguyện chủ động nhắc đến hôn sự này. Cứ dùng dằng mãi như thế cho đến tận bây giờ, đã trở thành trò cười cho khắp bốn bể tám cõi này.
Làm ra cơ sự này đều do Bắc Hải Thủy Quân, ta sao lại không thấy thiệt thòi, mà là quá thiệt thòi, thế nên cũng tự nhiên bắt đầu tránh mặt cái kẻ gây họa là hắn.
Ta cứ trăn trở mãi chuyện Chiết Nhan đặc biệt nhắc đến Bắc Hải Thủy Quân, tuyệt đối không phải muốn ta phải phiền muộn, mà là ném hòn gạch đi, kéo viên ngọc về, để dẫn ra những lời sau, cho nên ta phải vội vàng làm ra vẻ hứng thú, rửa tai cung kính lắng nghe.
Khóe miệng lão ta nhếch càng cao hơn: “Tiểu nương tử đó nghén dữ dội lắm, chưa đến mấy vạn năm mà đã sinh cho Bắc Hải Thủy Quân ba đứa con, đứa trong bụng bây giờ nghe nói là đứa thứ tư, có thể thấy mãng xà thực sự là mắn đẻ. Tiểu nương tử kia bị nghén cả ngày chỉ đòi ăn đào, vào lúc này, hoa đào nở khắp nơi nơi, nhưng nói đến đào, thì khắp gầm trời cuối đất, ngoài chỗ của ta ra thì không thể kiếm được ở đâu. Vì thế Bắc Hải Thủy Quân phải mặt dày đến gõ cửa nhà ta, hắn ta đã khẩn cầu như thế, ta cũng chẳng hẹp hòi gì mà không cho”.
Ta chẳng biết làm gì hơn, đành cúi đầu vân vê mấy nếp gấp trên váy. Đối với hành vi yêu hận không rõ ràng này của lão, ta có chút tức giận.
Lão ta lại cười hì hì, nói: “Xem ngươi kìa, mặt xanh lét cả rồi. Chỉ là mấy trái đào tránh sinh con thôi mà”.
Ta ngẩng phắt đầu lên, có lẽ động tác này hơi đột ngột, nên không cẩn thận va phải cằm lão đang hạ thấp xuống.
Lão không hề để bụng, lại chọc ta: “Nhìn xem, nghe nói cho đôi phu thê nhà người ta mấy trái đào tránh sinh con, chốc lát mà đã mềm lòng rồi sao? Nghe ta nói này, mấy trái đào tránh sinh con đó chẳng qua chỉ là giúp nhà Bắc Hải Thủy Quân tạm thời trong mấy vạn năm không thể sinh thêm đứa thứ năm mà thôi, chứ chẳng ảnh hưởng gì tới phúc đức nhà hắn ta, cũng chẳng tổn hại gì đến âm đức của ta”.
Thực ra, Bắc Hải Thủy Quân có thêm ngũ hoàng tử lúc nào cũng chẳng can hệ gì đến ta, mấy trái đào tránh sinh con đó ăn vào cũng chẳng thể làm chết người được. Năm đó, nếu không phải là hắn ta từ hôn, thì đâu gây ra một đống rắc rối này. Lần này Chiết Nhan đã dạy dỗ hắn một trận, thật ra ta cũng có chút tán thưởng lão. Nhưng Chiết Nhan cho rằng ta hay mềm lòng thì ta chẳng biết nói gì hơn, chỉ đành im lặng thừa nhận mà thôi. Lão lại vỗ về ta một chặp, đại ý nói rằng cả nhà Thiên Quân là bọn khốn kiếp, đến đời đời con cháu cũng chỉ là lũ khốn kiếp không hơn không kém.
Mắng xong, lão lại bắt đầu trêu chọc ta.
Mấy vạn năm nay chúng ta chưa gặp nhau, có lẽ lão cũng nhàn nhã đến phát điên, bao nhiêu chuyện vụn vặt, từ ống tre cho đến hạt đậu, đều đem ra kể với ta tuốt tuồn tuột.
Lúc đầu ta vẫn còn nhớ đến chuyện vò Đào Hoa Túy, nhưng chẳng mấy chốc mà ù hết cả đầu, quên béng mất việc phải xin vò rượu.
Đợi đến khi màn đêm gần buông xuống, vẫn là Chiết Nhan nhắc ta: “Tiểu tam có nhờ ta cất cho hắn hai bình rượu, đã chôn dưới cây tế tân trụi lá bên cạnh Bích Dao Trì ở phía sau núi, đêm nay ngươi nghỉ ở đó, nhân tiện đào rượu lên mang về cho tiểu tam, hai bình rượu này đừng có phung phí, cũng đừng uống trộm”.
Ta nhếch miệng: “Người cũng thật nhỏ mọn đấy”.
Lão xoa xoa mái tóc ta: “Thứ rượu ấy quả thực ngươi không uống được, nếu như muốn uống, ngày mai hãy đến hầm rượu của ta, mang được bao nhiêu thì ngươi cứ mang thỏa thích”.
Ta làm ra vẻ hết sức cảm tạ, nhưng trong lòng lại thầm quyết định, hai bình Đào Hoa Túy đó ta sẽ uống trộm, mà rượu trong hầm của lão ta cũng sẽ mang đi bằng hết.