"Bệnh nhân bị bệnh biến bốn chi."
"Họ chắc chắn sẽ không chỉ lấy động mạch ngực trong."
Về vấn đề lựa chọn mạch máu ghép, trước đó đã giới thiệu khá chi tiết, chủ yếu là động mạch ngực trong và tĩnh mạch hiển lớn, nếu không đủ dùng có thể sử dụng động mạch mạc nối dạ dày phải, động mạch quay, động mạch thành bụng trên, v.v.
Tiêu chuẩn lựa chọn mạch máu ghép đầu tiên là đường kính mạch máu ghép phải tương đương với đường kính mạch máu đích, để dễ dàng nối và duy trì lưu lượng máu ổn định sau khi ghép, tỷ lệ đường kính thường là 1:1 đến 2:1.
Tiếp theo, phải đảm bảo độ thông suốt của mạch máu ghép, kiểm tra mạch máu ghép trước phẫu thuật, bác sĩ liên tục xác định lưu lượng máu trong quá trình phẫu thuật, vì vậy sẽ có yêu cầu về độ dày của thành mạch máu ghép, không thể chọn mạch máu bị bệnh, thành dày để ghép.
Các vấn đề khác mà bác sĩ cần phải cân nhắc là cách thức ghép mạch máu lấy từ cùng một nguồn vào mạch máu đích. Như đã nói trước đó, cách sửa chữa cơ quan ghép như thế nào là tốt nhất.
Tên đầy đủ của động mạch ngực trong là động mạch vυ" trong, vì vậy còn được gọi là động mạch nội nhũ, hoặc động mạch nội ngực, nằm trong l*иg ngực, gần tim.
Để lấy động mạch ngực trong, vị trí này gần tim, không cần vội, có thể thực hiện cùng lúc với phẫu thuật tim. Vì vậy, việc lấy và ghép động mạch ngực trong khác với tĩnh mạch hiển lớn.
Vị trí tĩnh mạch hiển lớn cách xa tim, nếu cần lấy, bác sĩ phải chuẩn bị trước.
Ca mổ này, tất nhiên phải lấy tĩnh mạch hiển lớn trước, đây chắc chắn là khó khăn kỹ thuật đầu tiên của ca mổ.
Thủ thuật lấy tĩnh mạch hiển lớn là một phẫu thuật rất phổ biến và thành thạo trong giới phẫu thuật, vì nó là một mạch máu ghép rất được các bác sĩ ưa chuộng, không chỉ giới hạn trong phẫu thuật bắc cầu mạch vành.
Trong mắt bác sĩ, tĩnh mạch hiển lớn có ưu điểm là thẳng, dài, dễ lấy, hơn nữa đường kính của nó tương đương với nhiều mạch máu đích cần ghép, là vật liệu lý tưởng bẩm sinh.
Vì nó là tĩnh mạch, chức năng chính là dẫn máu trở về tim, khác với động mạch cung cấp dinh dưỡng cho các mô và cơ quan, nên việc lấy đi nó không quá quan trọng đối với cơ thể.
Ví dụ, giãn tĩnh mạch chi dưới thường gặp trên lâm sàng thường liên quan đến tĩnh mạch hiển lớn, một loại phẫu thuật trực tiếp thắt và cắt bỏ phần cao của tĩnh mạch hiển lớn cũng không gây ra vấn đề gì.
Cách lấy tĩnh mạch hiển lớn như thế nào.
Trước khi xuất hiện kỹ thuật xâm lấn tối thiểu, phẫu thuật phải mở rộng vết mổ.
Bác sĩ phẫu thuật không có dụng cụ phẫu thuật xâm lấn tối thiểu hỗ trợ thì không thể thao tác mù quáng, chỉ có thể bóc tách từng lớp da và cơ như trong bài giảng giải phẫu để lộ ra mạch máu nằm sâu bên trong cơ thể như đường ống nước ngầm.
Cách phẫu thuật này dẫn đến việc vết mổ phải dài hơn mạch máu cần ghép.
Tĩnh mạch hiển lớn dài bao nhiêu? Từ đùi đến cẳng chân.
Về lý thuyết, bác sĩ có thể lấy một đoạn tĩnh mạch hiển lớn rất dài, nhưng trên thực tế, việc sử dụng vết mổ truyền thống từ đùi xuống cẳng chân là quá đủ.
Hãy tưởng tượng một vết sẹo dài từ đùi đến cẳng chân, không chỉ xấu xí mà còn gây ra nhiều biến chứng sau phẫu thuật. Các loại phẫu thuật lớn dù không làm tổn thương dây thần kinh lớn cũng khó tránh khỏi việc làm tổn thương các dây thần kinh nhỏ, gây đau âm ỉ kéo dài cho bệnh nhân.
Kỹ thuật xâm lấn tối thiểu rất tốt, nhưng không phải bác sĩ phẫu thuật nào cũng có thể nắm vững, hơn nữa chi phí rất đắt đỏ, bệnh nhân nghèo không đủ khả năng chi trả. Vì vậy, nếu không tính đến chi phí, có thể không lấy mạch máu của chính bệnh nhân mà trực tiếp sử dụng mạch máu nhân tạo. Mạch máu nhân tạo tất nhiên còn đắt hơn.
Nghèo trong y học thực sự là một "căn bệnh".
Quay trở lại ca bệnh hiện tại, phẫu thuật bắc cầu mạch vành tạm thời không có mạch máu nhân tạo để sử dụng.