Đàm Tông Minh cuối cùng cũng đưa ông cụ đi kiểm tra.
Hầu hết người cao tuổi đều không thích bác sĩ, dù có làm gì thì họ cũng có thể tìm ra vấn đề của bạn, buộc bạn phải làm kiểm tra này, rồi lại chụp X-quang kia, sau đó cầm bản báo cáo và phim nhìn năm giây, rồi bảo người ta đi trả tiền nhập viện.
Ông cụ bị Đàm Tông Minh vừa dỗ dành vừa lừa gạt mới có thể làm hết những hạng mục kiểm tra, cuối cùng ông tức giận nổi trận lôi đình bên trong phòng làm việc của bác sĩ, náo loạn muốn về nhà.
Đàm Tông Minh trấn an ông: “Ông ơi, cháu mới là người phải làm hết những hạng mục kiểm tra này, ông chỉ đi cùng với cháu thôi, ông quên rồi sao?”
Đầu óc ông cụ nhất thời mờ mịt, kinh ngạc một lúc, sau đó mới hỏi chị Đàm: “Thật à? Là Tông Minh bị bệnh à?”
Chị Đàm nhìn thấy ông cụ như vậy thì trong lòng cũng rất khó chịu, khó khăn nặn ra một nụ cười, gật đầu: “Đúng vậy, ông ơi, chúng ta chỉ đi cùng cậu Đàm thôi, người phải khám bệnh là cậu ấy, không phải ông đâu, chúng ta kiên nhẫn chờ một lát nha.”
Bác sĩ khoa Nội Thần kinh cẩn thận xem xét kết quả của các hạng mục kiểm tra, vẻ mặt nghiêm túc, nói thẳng với Đàm Tông Minh: “Chủ tịch Đàm, tình hình của ông cụ không được lý tưởng cho lắm. Có lẽ tôi phải hỏi ông ấy vài câu nữa.”
“Được, bác sĩ bắt đầu đi.” Đàm Tông Minh siết chặt tay ông cụ.
Bác sĩ mỉm cười hỏi ông mấy câu, giống như giáo viên mẫu giáo đang dỗ đứa trẻ nghịch ngợm nhất.
“Ông ơi, năm nay là năm bao nhiêu?”
“Cậu không biết xem lịch à.”
“Chỗ cháu không có lịch, vì vậy cháu muốn hỏi ông.”
“Năm nay là năm nay, năm ngoái là năm ngoái.”
“Vậy bây giờ ông đang sống ở đâu?”
“Nơi đó không phải nhà của tôi… Là nhà của người khác.”
Bác sĩ dừng lại, nhìn về phía Đàm Tông Minh, Đàm Tông Minh khẽ gật đầu, ý bảo điều này chính xác.
“Ông ơi, ông có biết chúng ta đang ở đâu không?”
“Nói nhảm cái gì đấy, nơi này là nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa!”
Chị Đàm đưa ông cụ đi xuống lầu trước, bác sĩ nói với Đàm Tông Minh: “Ông cụ mắc bệnh Alzheimer, hiện tại có lẽ là giai đoạn đầu, ông cụ vẫn có thể kiểm soát hành vi của mình trong hầu hết các trường hợp, nhưng đã có sự sai lệch về phương diện trí nhớ và nhận thức. Ông cụ đã lớn tuổi, cho nên có thể bệnh này sẽ tiến triển rất nhanh, chủ tịch Đàm cần phải chuẩn bị tâm lý thật tốt, có thể sẽ xảy ra hiện tượng mất tiếng, mất nhận thức, mất trí nhớ nghiêm trọng.”
“Có cách nào trì hoãn quá trình này không?” Vẻ mặt của Đàm Tông Minh vẫn bình tĩnh.
Bệnh tật cũng làm con người chán ghét như cơn mưa rét lạnh của mùa này, sớm muộn gì nó cũng đến, có lẽ ngày nào bạn cũng nhìn chằm chằm bản tin dự báo thời tiết, cũng mang theo ô, thế nhưng khi nó ập đến vẫn khiến người ta trở tay không kịp.
“Tôi có thể kê một số loại thuốc giúp vừa kiểm soát chứng rối loạn tâm thần vừa có lợi đối với trí nhớ cho ông cụ.” Bác sĩ khoanh tay, giọng điệu rất hối tiếc: “Nhưng thành thật mà nói, làm như vậy chỉ có thể trị ngọn, không thể trị gốc.”
“Tôi hiểu.” Đàm Tông Minh cảm ơn bác sĩ, sau đó cầm sổ khám bệnh rời khỏi văn phòng.
Chị Đàm lặng lẽ hỏi Đàm Tông Minh: “Cậu Đàm, tình hình ông cụ như thế nào?”
Đàm Tông Minh không nói nhiều, nhưng chị Đàm cũng là người thường xuyên chăm sóc người khác ở bệnh viện, trong lòng chị biết rõ đây là bệnh gì, chỉ có thể xoa tay thở dài: “Ôi, sao lại là bệnh này.”
Đàm Tông Minh đưa sổ khám bệnh cho chị Đàm, để chị đi nộp tiền nhận thuốc: “Sau này phải làm phiền chị Đàm chú ý nhiều hơn.”
Ông cụ đang ngồi trên xe lăn, ánh mắt nhìn một chiếc lá rơi trên mặt đất. Đàm Tông Minh nhặt chiếc lá kia đưa tới trước mặt ông, cười hỏi: “Ông ơi, ông thấy nó có giống một chiếc máy bay nhỏ không?”
Ánh mắt của ông cụ chậm rãi dời từ dưới đất lên chiếc lá rụng kia, ông cầm lấy chiếc lá trong tay Đàm Tông Minh, một lúc sau mới bật cười: “Xấu quá, không phải là màu này.”
Đàm Tông Minh sẽ không bao giờ để người khác biết chuyện ông cụ mắc bệnh Alzheimer, thậm chí anh còn định giấu cả ông cụ. Điều duy nhất đáng vui mừng chính là ông cụ không thể nhận ra tình trạng của mình, Đàm Tông Minh nghĩ đến điều này, bỗng nhiên trong lòng cảm thấy khó chịu, hít thở không thông. Đưa ra quyết định này cũng không phải vì anh ích kỷ hay xấu hổ, mà là vì anh hiểu ông cụ quá rõ. Đối với ông mà nói, chuyện bản thân bị mắc bệnh Alzheimer còn day dứt hơn nhiều so với việc giống một tên ngốc ngồi ở nhà chờ chết.
Ông cụ kiêu ngạo cả đời, Đàm Tông Minh không thể để ông phải chịu sự khổ sở này khi sắp ra đi, anh tình nguyện để ông không biết gì cả, có thể yên tâm quay về những năm tháng tốt đẹp của quá khứ lâu hơn một chút.
Không thể đếm được tháng mười hai năm nay đã có bao nhiêu trận mưa rồi. Mùa đông năm nay mưa khá nhiều, ngày nào dự báo thời tiết cũng nói “Hôm nay ở một số khu vực thỉnh thoảng có mưa nhỏ”. Nhìn qua khung cửa sổ, đợi xem khi nào mưa sẽ rơi. Nhưng đến khi ra ngoài rồi mới biết hóa ra đã mưa rồi, những hạt mưa rả rích thấm vào người, trên ô không hề phát ra bất kỳ âm thanh nào.
Đàm Tông Minh ngồi bên cửa sổ, Triệu Khải Bình vừa nhìn đã thấy anh ngay. Cậu đi tới gần cửa sổ sát đất gõ vào kính một cái, Đàm Tông Minh hơi kinh ngạc. Vết thương trên mặt Triệu Khải Bình đã hoàn toàn lành rồi, cậu cười vô cùng vui vẻ, ra hiệu “Tôi đến rồi” với Đàm Tông Minh, xếp ô lại, đẩy tay nắm cửa đang treo chuông gió. Vào những ngày mưa, màu sắc ấm áp trong quán cà phê đặc biệt có sức hấp dẫn, Triệu Khải Bình lắng tai nghe, trong quán đang mở bài “Cold Rainy Night” của Beyond.
“Tôi còn tưởng chủ tịch Đàm sẽ không đến quán cà phê kiểu này.” Triệu Khải Bình ngồi xuống đối diện với Đàm Tông Minh, cậu gọi một ly cà phê đen, phát hiện trước mặt Đàm Tông Minh chỉ có một ly nước mà thôi.
“Không đến nơi này, vậy tôi nên đến nơi nào?” Đàm Tông Minh mỉm cười, ánh mắt nhìn ra ngoài cửa sổ: “Nếu đi tiếp con đường này thì sẽ đến trường cấp hai của tôi. Sự kiện đánh nhau mà lần trước tôi kể với cậu xảy ra ở nơi đó.”
“Chủ tịch Đàm, nếu anh cứ nói như vậy thì trí tưởng tượng của tôi về những người giàu có sẽ tan vỡ hết đấy.” Triệu Khải Bình nói: “Tôi cũng không thể nói với người khác rằng tôi có một người bạn rất giàu có, khi anh ấy học cấp hai, đầu bị đập vào góc tượng thủng một lỗ.”
“Chuyện này có gì không thể nói?” Đàm Tông Minh mỉm cười khi nghe từ ‘bạn’: “Chẳng lẽ hình tượng của tôi trong trí tưởng tượng của bác sĩ Tiểu Triệu lại là mỗi ngày mặc vest, mang giày da, đến công ty họp sao?”
“Cũng gần giống như vậy. Tôi chưa bao giờ đi làm ở công ty, đại khái chỉ có thể đoán mò giống như ‘Nương Nương Đông Cung nướng bánh, Nương Nương Tây Cung cuốn hành’ thôi. Triệu Khải Bình thêm một viên sữa hình tròn vào cà phê mới được phục vụ mang đến, khuấy đều, sau đó đặt chiếc thìa xuôi theo ly, ngồi nghiêm chỉnh: “Vậy tiếp theo xin cho phép tôi được phỏng vấn chủ tịch Đàm một chút.”
“Cầu còn không được.” Đàm Tông Minh vui vẻ đồng ý.
“Xin hỏi bình thường anh có sở thích gì?”
“Nếu là sở thích… Có thể là thích xe.”
“Tại sao anh thích xe? Anh thích nhãn hiệu xe nào?”
“Tôi cảm giác lúc lái xe có thể bỏ tất cả những phiền não lại phía sau, giống như bản thân tạm thời thoát khỏi thế giới này. Nhãn hiệu tôi thích đều là những thương hiệu trên phố, không có gì đáng nói.”
“Biết nấu ăn không? Nấu ngon không?”
“Biết. Hương vị hẳn là khá ngon, ông cụ rất thích. Nhưng sau này bận rộn nên rất ít khi nấu.”
“Thành tích của anh khi còn đi học như thế nào, học chuyên ngành gì ở đại học?”
“Khi còn đi học, tôi khá nghịch, nhưng thành tích vẫn luôn tốt, lên lớp mười hai hiểu chuyện hơn, bắt đầu chăm chỉ học tập. Trường đại học là được cử đi thông qua thi đấu, tôi học chuyên ngành toán, học thạc sĩ ở Mỹ, lúc lên tiến sĩ thì chuyển sang ngành tài chính.”
“Tại sao sau này anh lại về nước?”
“Tôi làm việc ở Phố Wall mấy năm, không muốn làm công cho người khác còn phải chịu khinh bỉ, vì vậy quay về xây dựng chủ nghĩa xã hội.”
“Được rồi, cuộc phỏng vấn lần này đã kết thúc tốt đẹp.” Sau khi kết thúc phần nhận xét, Triệu Khải Bình nhấp một ngụm cà phê, nhiệt độ vừa phải.
“Có phải nên đổi lại là tôi phỏng vấn bác sĩ Tiểu Triệu không.” Đàm Tông Minh nói.
Triệu Khải Bình cười: “Tôi không có gì hay để phỏng vấn đâu, cha mẹ tôi đều là giáo viên đại học, từ nhỏ đã phải lớn lên trong khuôn phép, sau khi tốt nghiệp trực tiếp vào bệnh viện số Sáu, chưa bao giờ chuyển đi.”
“Cậu thích nghe hòa nhạc phải không?” Đàm Tông Minh lại hỏi. Lần trước bọn họ đã gặp được nhau tại buổi hòa nhạc quái lạ đó.
“Khi còn bé tôi đã từng học violon mấy năm, khi đó chứng chỉ thi còn có thể cộng thêm điểm vào điểm thi cấp ba. Cũng xem như có hứng thú đối với âm nhạc cổ điển, những cũng chỉ là một người yêu thích nghiệp dư mà thôi.” Triệu Khải Bình nói: “Người trẻ ở độ tuổi mười mấy hai mươi, nếu như cảm thấy nhàm chán vì vô công rồi nghề, thì thường sẽ tưởng tượng mình là một người yêu thích hội họa, âm nhạc, văn học.”
“Bác sĩ Tiểu Triệu, cậu nói như vậy chính là vơ đũa cả nắm.” Đàm Tông Minh mỉm cười.
“Trong bó đũa này cũng có cả tôi nữa, vì vậy đây được coi là tự suy ngẫm.” Triệu Khải Bình thường bị những người xung quanh nói rằng cậu thích khoe chữ, nhưng cậu lại cảm thấy mình là người rất bình dị, dù sao trong nhà vẫn còn đồng chí Lão Triệu hễ cao hứng là lại trích dẫn kinh điển để so sánh.
Đàm Tông Minh rất thưởng thức tinh thần tự đánh giá thấp bản thân của Triệu Khải Bình.
Anh luôn cảm thấy trên người bác sĩ Tiểu Triệu có một nguồn sức mạnh hăng hái vươn lên, đó không phải là sự nhiệt huyết không biết khó khăn của cuộc sống, mà là một sự kiên định hiểu mình nên sống như thế nào và tha thứ cho người khác như thế nào. Nếu nói đó là lòng trắc ẩn thì có vẻ hơi quá, nhưng bác sĩ Tiểu Triệu thực sự nghiêm túc về những việc mình nên làm. Nếu theo lẽ trời thì con người chẳng qua cũng chỉ là con ong cái kiến trên thế gian này, chỉ có tin tưởng và hành động thì chúng ta mới có thể bình thản trước sự vô thường của cuộc đời, bớt phí hoài ngày tháng đi một chút, để kiếp này đỡ phải học cách trốn chạy khỏi những oán hận than phiền.
Nếu chỉ đề cập đến chuyện này, Đàm Tông Minh tự thấy mình cũng làm rất tốt. Chỉ là bác sĩ Tiểu Triệu vẫn còn trẻ, còn lưu lại chút cảm giác thanh xuân mà anh đã bỏ lỡ. Cậu vẫn còn mang theo nhiệt huyết và tò mò không cần thiết đối với thế giới này, cậu sẵn sàng mở rộng tâm trí để đón nhận những điều bất ngờ mới mẻ bất cứ lúc nào, sẽ không tùy tiện từ bỏ chỉ vì những lời đàm tiếu lung tung của người khác, càng không để thành kiến trói buộc biến mình thành một người khiến người khác khó chịu.
Đây là một loại phẩm chất hấp dẫn, cũng là điều khiến Đàm Tông Minh ngưỡng mộ nhất ở Triệu Khải Bình.
“Gần đây ông cụ có khỏe không?” Triệu Khải Bình cảm thấy mình vẫn phải hỏi câu này.
“Tạm thời vẫn ổn, không có chuyển biến quá xấu, chỉ là hay thất thường.” Đàm Tông Minh không hề có ý định giấu giếm trước ánh mắt nhạy cảm của Triệu Khải Bình, huống chi bác sĩ Tiểu Triệu đã sớm phát hiện ra manh mối, có giấu cũng vô ích.
Dường như sau khi được chẩn đoán chính xác, bệnh cũng nhanh chóng phát triển, sau khi từ bệnh viện về, bệnh tình của ông đã trở nên rõ rệt hơn. Lúc tốt thì giống như một cậu bé ngoan, tính cách trở nên ôn hòa hơn nhiều, chỉ là thường không nhớ rõ hôm nay là ngày nào; Lúc xấu thì còn tệ hơn cả đứa trẻ bướng bỉnh nhất, nổi giận với người khác mà chẳng cần lý do, luôn đưa ra những yêu cầu quái đản, ngay cả chị Đàm cũng không thể dỗ được.
Chuyên môn của Triệu Khải Bình cũng không phải là khoa Nội Thần kinh, cho nên không thể đưa ra nhiều ý kiến mang tính xây dựng. Mấy năm nay Triệu Khải Bình cũng đã dần quen với cảm giác bất lực này, tất cả những gì cậu có thể làm là để Đàm Tông Minh biết rằng anh không phải là người duy nhất quan tâm ông cụ.
Khi rời quán cà phê, trời đổ mưa rất to. Những hạt mưa lạnh lẽo đánh vào người, lạnh thấu xương. Căn nhà cũ cách con phố này không xa, lúc Đàm Tông Minh đến đây trời không có mưa, cho nên anh không mang theo ô. Nhân viên phục vụ trong quán cà phê tri kỷ cho anh mượn ô, Triệu Khải Bình nói: “Không cần, tôi có ô.”
Chiếc ô của Triệu Khải Bình có màu đen tuyền, bề mặt tròn dày, đường nan cứng rắn, ngay cả cán ô cũng được làm bằng gỗ nguyên khối, cầm rất nặng tay, sau khi mở ra dư sức che cho cậu và Đàm Tông Minh.
“Anh thấy có giống ô của Ma Lễ Hồng không?”
Triệu Khải Bình cầm ô xoay một vòng, những hạt mưa bị mặt ô cắt ngang, hòa vào màn mưa mênh mông.
Đây là lần đầu tiên Đàm Tông Minh và cậu không nói đến chuyện công việc mà chỉ đơn thuần đi uống một tách cà phê. Cũng may cảm giác cũng rất tốt, lúc ngồi cùng nhau thật sự giống như bạn bè đã quen biết nhau nhiều năm, hoàn toàn không cần phải vì tránh ngại ngùng mà nói mấy câu xã giao.
Đàm Tông Minh mỉm cười, cầm lấy cán ô trong tay Triệu Khải Bình, kể cho cậu nghe những câu chuyện cũ liên quan đến khu chợ trên con đường này. Dưới mái hiên hai bên đường là tốp năm tốp ba đứng trú mưa, trên đường có nhiều học sinh hết tiết tự học buổi tối ôm cặp cười đùa chạy như điên dưới màn mưa.
Muốn đánh giá một người còn trẻ hay không, cứ nhìn dáng vẻ của người đó trong mưa là biết.
Đèn đường phát sáng trong màn mưa giống như từng đóa hoa bồ công anh. Bức tượng Pushkin sừng sững nơi góc phố, giống như mấy chục năm nay, đối với nó thì đây cũng chỉ là một đêm mưa bình thường mà thôi.
“Lúc đó đầu anh bị đập vào đây à?” Triệu Khải Bình chỉ tay vào đế vuông nửa dưới bức tượng: “Vậy chắc đau lắm.”
“Đúng vậy, nếu không nói thì ký ức vẫn còn như mới.” Đàm Tông Minh nói: “Sau này lên cấp ba, khi giáo viên bảo học bài thơ của Pushkin, lúc đó đầu tôi lại cực kỳ đau.”
Triệu Khải Bình cười: “Có phải là bài ‘Nếu đời nỡ dối lừa em’?”
“Không phải, là bài ‘Gửi Natalia’”. Đàm Tông Minh nhìn nhà thơ đứng lặng người dưới mưa, trong đầu tìm kiếm những câu thơ khiến anh đau đầu năm xưa.
Triệu Khải Bình đã đọc lên trước anh một bước: “Xin hãy nhìn tường sân cao chót vót/ Có một bóng người vĩnh viễn cô đơn/ Xin hãy nhìn cửa sổ bị khóa/ Nơi đó thắp ngọn đèn mờ tối…”
Đàm Tông Minh cũng gia nhập với cậu vào phút cuối, những câu thơ như biến thành cánh bướm bay đi trong màn mưa.
“Natalia, ta là… Một nhà sư khổ hạnh.”
Hạt mưa rơi xuống mặt ô, tiếng mưa rả rích trong không gian mênh mông.
Hai trái tim không biết sẽ đi về đâu, không mưu cầu quá nhiều, chỉ là khi đối mặt với một thế giới rộng lớn hơn, chúng tựa vào nhau trong giây phút ngắn ngủi.