- Ta đã có kế hoạch nên việc tiêu diệt phỉ không phải vấn đề lớn. Hôm nay ta mời Chu Thái Thú đến, là muốn thương lượng về chuyện phòng ngự. Ta dự tính ở quận Diêm Xuyên xây công sự, và trú ba nghìn binh, hiệp trợ Chu Thái Thú phòng ngự nạn trộm cướp.
Chu Nguyên lập tức ngây ngẩn cả người. Ông ta không thể tưởng được Dương Nguyên Khánh đến đây là vì bảo vệ khu mỏ.
Chỗ mà quân Phong Châu định xây dựng là núi Hồng Thiết nằm phía tây của quận Diêm Xuyên. Cách thị trấn năm mươi dặm. Phía bắc vài dặm là sông Diêm Xuyên. Dòng sông bằng phẳng, có thể đủ để thuyền lớn năm trăm thạch lưu thông. Từ trước nơi này có quặng sắt, việc khai thác chủ yếu dùng thuyền chuyên chở. Thuyền sẽ chở sắt theo sông Diêm Xuyên đi vào sông Hoàng Hà, rồi chuyển đến quận Linh Võ để tinh luyện.
Nếu Dương Nguyên Khánh chiếm lĩnh khu mỏ, hắn sẽ dùng thuyền chở đến sông Hoàng Hà rồi sau đó đi về phía bắc, sẽ có thể trực tiếp đến quận Ngũ Nguyên, vô cùng tiện lợi. Quan trọng hơn là Thái Thú quận Linh Võ Vi Tự Vân năm đó là Tổng quản phủ Trưởng Sử Phong Châu. Ông ta chắc chắn sẽ không ngăn trở thuyền quặng Phong Châu.
Nửa năm trước, khu mỏ quặng này đã bị quân đội của Bạch Du Sa chiếm lĩnh. Nhưng hai tháng trước, giặc Lưu Già Luận quận Diên An vì cướp lấy khu mỏ, phái ba mươi ngàn đại quân ở phía bắc khu mỏ đánh quân đội Bạch Du Sa ở ven bờ sông Diêm Xuyên. Cuối cùng đã chấm dứt bằng việc quân Bạch Du Sa bại lui.
Lưu Già Luận đã chiếm lĩnh khu mỏ. Nhưng mấy ngàn nô lệ đào mỏ lợi dụng hai quân đại chiến đã chạy trốn không còn một ai. Lưu Già Luận bất đắc dĩ, chỉ phải từ quận Diên An và quận Hoằng Hóa cưỡng ép mười ngàn dân phu đến lấy quặng, rồi lưu lại ba nghìn trú quân giám thị.
Nhưng Lưu Già Luận lại gặp phải một nan đề khác. Là làm sao có thể vận chuyển quặng đến quận Diên An. Nơi này không có dòng sông nào nối thẳng. Biện pháp duy nhất là dùng súc vật để kéo. Dùng mười ngàn con ngựa vận chuyển. Mỗi con ngựa đeo khoảng năm mươi cân mỗi lần là có thể vận chuyển được năm trăm nghìn cân quặng sắt. Bởi vậy đành phải tích góp từng lượng một rồi sau đó mới có thể thống nhất vận chuyển.
Thời gian hai tháng, đã khai thác được mấy trăm ngàn cân quặng sắt, quặng được chất đống như núi trong kho. Cũng chính mấy ngày này, Lưu Già Luận sẽ phái đại đội ngựa đến vận chuyển quặng.
Bây giờ đã là tháng 9 cuối mùa thu. Rất nhanh là đến mùa đông rét lạnh. Vào đêm, một vầng trăng khuyết mọc lên sau nhà kho. Ánh trăng lạnh lùng trong trẻo soi khắp ngọn Hồng Thiết. Bóng núi đen kịt bao phủ lên lều lao công cùng quân doanh dưới chân núi. Nhóm dân phu mệt nhọc cả ngày đã lăn ra ngủ say. Trong quân doanh cũng rất im lặng. Chỉ có vài người lính trên hai trạm canh gác là đi qua đi lại tuần tra. Hai trạm canh gác cách nhau khoảng một dặm, một phía đông, một phía tây.
Lúc này, hai đội thám báo quân Tùy lén lút tới gần trạm gác. Hai gã nỏ thủ nhờ nham thạch yểm hộ, cách năm mươi bước giơ nỏ lên nhắm vào lính gác của quân địch trên trạm canh gác. Mũi tên nhọn dưới ánh trăng tản ra nhiều màu. Trên mũi tên đã tẩm kịch độc ‘Mạt Mạt Mộc’ thấy máu là chết, đến tiếng cũng không kịp phát ra. Đây là loại độc tốt nhất dùng để ám sát của thám báo.
Chỉ nghe hai tiếng vang nhỏ Vù! Vù!”, hai mũi tên giống như tia chớp vút tới. Cùng lúc bắn trúng vào hai gã lính gác. Không có tiếng kêu to, chỉ có hai tiếng kêu đau đớn. Một gã lính gác trong đó liền từ trạm canh cao hai trượng rơi xuống.
Phía tây truyền đến tiếng quạ kêu lạnh lẽo. Đây là một trạm canh gác phát tín hiệu. Trạm bên kia cũng vang lên tiếng trả lời. Không bao lâu, lính canh gác ở các trạm đã bị thay thế bởi quân Tùy.
Không bao lâu một đội hơn nghìn kỵ binh quân Tùy theo phía tây đánh tới. Vó ngựa được bọc vải giảm âm. Tuy rằng thanh âm không lớn, nhưng hơn ngàn kỵ binh tiến lên tạo thành khí thế như bão táp, mưa sa. Rất nhiều binh lính quân địch bị bừng tỉnh. Chạy ra doanh trại để coi. Bọn họ chỉ nhìn thấy hàn quang lóe lên từ trường mâu cùng khí thế như sấm đánh vào của thiết kỵ.
Quân Tùy bất chợt vọt vào địch doanh. Tiếng khóc, tiếng la, tiếng kêu thảm thiết vang lên bốn phía. Kỵ binh lao thẳng vào doanh trướng, trường mâu vô tình đâm xuyên qua ngực quân địch. Chiến đao bổ chém, máu bắn tung tóe. Quân Kê Hồ hướng bốn phía chạy trốn. Rất nhiều người không mang giầy, bọn họ chạy không nổi với kỵ binh, trong nháy mắt đã bị kỵ binh đuổi theo, đem quân chạy trốn chém chết từng kẻ một…
Sau nửa canh giờ, cuộc chiến giết chóc dần dừng lại. Ba nghìn quân Kê Hồ chết hơn hai nghìn người, còn lại đều quỳ xuống đầu hàng. Chỉ có hơn mười người cưỡi ngựa chạy trốn, chạy về quận Diên An bẩm báo.
Mười ngàn dân phu đứng ngoài doanh trướng. Quân Tùy không giết hại bọn họ, cũng không có người dám chạy trốn. Một đám đứng ngây người tụ tập ở đấy. Trong mắt mỗi người tràn ngập sự sợ hãi. Lúc này, vài tên kỵ binh chạy vội tới hô:
- Các ngươi không cần phải sợ hãi. Chúng ta là quân Tùy Phong Châu, đến giải cứu các ngươi!
Yên lặng một lát, đại doanh lập tức vang lên tiếng hoan hô.
Trời dần dần sáng. Dương Nguyên Khánh suất lĩnh hơn mười người tướng lãnh, cùng một ngàn kỵ binh hộ vệ đi tới khu mỏ. Hắn híp mắt quan sát dãy núi, dài chừng hơn mười dặm, là một khu núi nham thạch. Trên núi không có một ngọn cỏ. Nhưng không phải toàn bộ là màu đỏ, chỉ có phía tây là màu đỏ, cái gọi là núi Hồng Thiết chính là chỉ đoạn này.
Mười mấy năm khai thác khiến ngọn núi xuất hiện một cái động lớn. Nhưng tài nguyên sắt vẫn rất phong phú. Đủ có thể khai thác mấy trăm năm.
Chiến trường bây giờ đã kết thúc việc thu thập và dọn dẹp. Tù binh bị trói hai tay, ngồi cạnh nhau thành từng hàng. Đại bộ phận là người Hồ, cũng có số ít người Hán. Thi thể đều được thiêu đốt rồi chôn vùi. Thu được hơn hai ngàn chiến mã và lượng lớn binh khí chất lượng thấp kém, cùng mấy trăm chiếc lều trại.
Hơn mười ngàn dân phu đều rất im lặng đứng trong doanh đợi chờ quân Tùy an trí. Hôn nay toàn bộ bãi quặng đều đình công.
Nhưng điều làm Dương Nguyên Khánh cảm thấy hứng thú cũng không phải mấy thứ này. Hắn hứng thú chính là quặng sắt. Dương Nguyên Khánh giục ngựa đi vào nhà kho phía trước. Bên trong là đống quặng chồng chất như núi. Đại bộ phận là quặng sắt. Xen lẫn trong đó là mấy trăm ngàn cân quặng phe-rít.
Lúc này, Phong Châu Binh Khải Ti là Hào Hà Quân xoay người xuống ngựa, chạy vào trong nhà kho. Anh ta nhặt quặng lên rồi cẩn thận quan sát. Một lúc sau, anh ta cầm một khối quặng đi ra. Hướng Dương Nguyên Khánh thi lễ, nhịn không được vẻ vui sướng:
- Tổng quản, nơi này đúng là bảo sơn a! Hàm lượng sắt trong quặng nơi đây phải chiếm sáu phần mười trở lên. Tạp chất rất ít, có thể luyện ra được sắt tốt nhất. Cực kỳ thích hợp chế tạo binh khí và áo giáp.
- Tốt lắm, nhóm quặng này phải nhanh chóng vận chuyển đến Phong Châu.
Nhìn đống quặng sắt chồng chất như núi. Dương Nguyên Khánh không nhịn nổi cười, quay đầu nói với mọi người:
- Lưu Già Luận cực khổ khai thác mấy trăm ngàn thạch quặng sắt, bóng dáng thạch quặng sắt còn chưa thấy đã bị chúng ta cướp đi. Ta rất muốn biết vẻ mặt của y như thế nào nếu biết tin?
Các tướng lĩnh ầm ầm cười to. Dương Nguyên Khánh khoát tay chặn lại. Ra lệnh cho vài tên Giáo Úy:
- Tổ chức lại nhóm dân phu này, dùng chiến mã thu được, mau chóng đem quặng sắt vận chuyển đến bờ sông.
- Tuân lệnh!
Vài tên Giáo Úy chạy đi gọi binh lính. Dương Nguyên Khánh nói với Bùi Hành Nghiễm:
- Lưu Già Luận sẽ không từ bỏ ý đồ. Y tất sẽ quy mô phái binh đến đoạt khu mỏ. Ngươi phải phái thêm nhiều thám báo, hiểu rõ hướng đi của bọn chúng.
Bùi Hành Nghiễm khom người thi lễ:
- Ty chức đã hiểu!
An bài xong các việc vặt ở khu mỏ, Dương Nguyên Khánh quay đầu lại nói với quan quân:
- Con mồi đã tung ra, đã đến lúc chúng ta ra tay.
Hắn quay đầu ngựa lại, mang theo đại đội kỵ binh chạy nhanh về hướng thị trấn.
Phía bắc quan nội các quận Diên An, Diêm Xuyên, Điêu Âm, Sóc Phương, Du Lâm cùng với bộ phận quận Hoằng Hóa, Linh Võ, Ngũ Nguyên, bởi vì đây là những khu có điều kiện tự nhiên ác liệt, bất lợi cho trồng trọt. Cho nên những khu vực này vẫn là nơi triều đình dùng để an trí các dân tộc thiểu số. Các tộc Hung Nô, Tiên Ti, Yết, Đế, Khương sinh sống ở đây đã đạt tới ơn trăm nghìn người.
Lúc triều đình trung ương hùng mạnh, các tộc ở Kê Hồ rất yên tĩnh, quy thuận, không phát sinh việc chống đối. Chỉ khi triều đình trung ương yếu đuối hoặc là Trung Nguyên đại loạn, những quý tộc người Hồ mới bắt đầu bừng bừng dã tâm. Các phong trào tạo phản diễn ra không ngừng, lấy việc đánh cướp của cải người Hán, giết chóc người Hán là việc chính.
Lưu Già Luận là một quý tộc Hung Nô. Lợi dụng Đại Tùy khắp nơi là loạn tặc, y cho rằng thời cơ của mình đã đến. Liền tụ tập nhân mã trong tộc của mình tiến hành tạo phản. Lại liên hệ với các thủ lĩnh tộc khác, làm lớn mạnh lực lượng. Chỉ trong vòng mấy tháng ngắn ngủi, y đã chiêu mộ được hơn trăm ngàn quân. Ông ta tự xưng là Hoàng Vương, lấy quận Diên An là căn cứ điểm. Liên tục dẫn quân đánh cướp bốn phía. Các thôn xóm nhỏ xung quanh không ngừng bị hủy hoại bởi gót sắt của bọn chúng. Ngoại trừ các thành trì, phần lớn khu vực phía bắc đã bị quân đội của y chiếm lĩnh.
Giống các nhóm tạo phản khác. Điều làm Lưu Già Luận đau đầu nhất chính là trang bị lạc hậu cùng khuyết thiếu vũ khí. Bởi vậy việc thu hoạch sắt thô, tạo binh khí là nhiệm vụ cấp bách nhất của y.
Hai tháng trước, Lưu Già Luận ra lệnh đại tướng Lưu Diều Tử dẫn ba mươi ngàn đại quân chém giết quân Bạch Du Sa đoạt mỏ Xích Lĩnh. Một trận ác chiến, bọn họ cuối cùng đuổi được Bạch Du Sa, đoạt được khu mỏ.
Ngay lúc Lưu Già Luận nghểnh cổ ngóng trông quặng sắt. Một tin dữ lại truyền đến, mỏ bị quân Tùy cướp đi. Mấy triệu cân quặng sắt mà bọn y phải mất hai tháng cực khổ khai thác đã bị quân Tùy cướp sạch toàn bộ.
Lưu Già Luận nổi trận lôi đình. Y làm sao có thể đồng ý mất không vào quân Tùy. Ngay ngày hôm sau, nhận được tình báo, y tự mình suất lĩnh sáu mươi ngàn đại quân, nhanh chóng hướng đến mỏ quặng. Y thề phải đạp nát quân Tùy để cướp lại khu mỏ.