Gã làm ở đó từ lúc mười mấy tuổi, ban đầu chỉ là tay học việc nấu nướng kiêm chân chạy việc linh tinh. Đồ ăn cung cấp cho tu viện được phân làm hai loại, một là loại cung cấp cho các nhà tu hành, cha sứ, bà sơ, bác sĩ, y tá và những kẻ chạy việc khác như gã. Hai là đám trẻ nhận nuôi, người già nhận chăm sóc và đám người điên điên khùng khùng bị người đời xa lánh ghét bỏ.
Thức ăn cho loại một tuy không phải cao lương nhưng cũng bảo đảm ngon lành đầy đủ dinh dưỡng, vậy nên không cần phải nói. Loại hai, đám người bị xã hội lãng quên đó đa phần là được ăn cháo loãng, gạo là cái loại đã bắt đầu nổi mốc, còn thịt thì lấy từ nguồn hàng để ngâm dấm từ không biết bao lâu rồi.
Nghe nói thịt ôi thiu mốc meo thâm đen được người bán hàng mông má bằng việc tắm trong nước pha KNO3, vài phút sau lập tức hồng hào tươi mới trở lại, có màu đẹp mắt, lừa tình người mua dễ dàng, đương nhiên giá cả rẻ mạt cũng là yếu tố thu hút. Ăn cái thứ thịt biến chất đó chắc vài năm sau cũng đi bán muối theo.
Kali nitrat KNO3 có nguồn gốc từ phân dơi dùng để bón cây, sau khi tinh chế có khả năng “phù phép” được giới buôn thịt gọi với cái tên rất mĩ miều là “săm pết”. Tôi đã từng đọc trên báo được biết, nó có màu trắng mịn, không mùi, dễ tan trong nước, chỉ cần pha vài thìa bột với một thùng nước, rồi ngâm một lúc đem vớt ráo. Sau đó người bán hàng sẽ tẩy mùi hôi, thiu và mùi KNO3 bằng cách ngâm vào chất tẩy trắng Na2 SO3. Chất này oxi hóa cực mạnh làm mất mùi amoniac khiến miếng thịt trở nên hoàn hảo, cứ thế để trong phòng thoáng mát, không cần cất vào tủ lạnh, thịt vẫn được giữ tươi cả tuần, không biến màu, không có mùi lạ với khả năng chống thối rất tốt. Thiết nghĩ ngày nay sở dĩ có lắm loại bệnh quái lạ xuất hiện gọi môn na là ung thư chẳng qua do con người lạm dụng hóa chất vào chăn nuôi trồng trọt một cách vô tội vạ.
Quay trở lại câu chuyện, vài năm sau, một bọn khoa học từ trung ương gởi xuống, đám người bị xã hội vất bên lề từ đó được chăm sóc chu đáo cẩn thận hơn. Thấy được tiêm thuốc, ghi lịch trình theo dõi khám bệnh đều đặn mỗi ngày, có điều khỏe đâu không thấy, chỉ thấy tình trạng càng không giống người. Thế là mấy người đó được chuyển tới các khu vực sân sau kín đáo, có lính quân đội túc trực ngày đêm căn phòng cẩn mật, treo biển cấm người không phận sự béng mảng, cấm luôn người nhà nếu nổi hứng tới thăm.
Trong khoảng thời gian đó thì Thu Sương chuyển tới, cô gái xuất hiện, tựa như dòng suối mát lành vắt ngang qua sa mạc khô cằn là gã. Vương Đình hơn 30 tuổi, vì vẻ ngoài xấu xí nên gái nhìn liền muốn đi vòng, và cũng vì biết thân biết phận nên gã lúc nào cũng trong tư thế như co đầu rụt cổ không dám ngẩng cao mặt nhìn người, lâu ngày thành ra thói quen không sửa được.
Nhưng Thu Sương thì khác, cô nhìn gã bình thản, ánh mắt không có gợn sóng lăn tăn, ngồi bên câm lặng lắng nghe Vương Đình kể lể dông dài. Cô là làn gió mùa xuân dịu dàng êm ái vuốt ve tâm hồn khiến gã thanh bình yên ổn. Làm cho một kẻ nhút nhát vốn không có kinh nghiệm nói chuyện với gái như Vương Đình có thể tán hươu tán vợn, xuyên Đông tạc Tây quên thời gian. Những ngày tháng đó tuy ngắn ngủi nhưng đủ khiến Vương Đình biết thế nào là rung động, nhớ mong, khắc khoải.
Cô gái theo như lời kể của gã tuy tựa như con rối vô tri mất đi linh hồn nhưng không hiểu sao vẫn khiến Vương Đình cảm thấy mình ở bên Thu Sương rất thoải mái, như một người bình thường đang tán gẫu với người yêu. Lúc đó Thu Sương rất nhu thuận, gã bảo sao nghe vậy cực kỳ ngoan hiền, nhưng khi lên cơn thì như hung thần nổi giận, gặp người đánh người, gặp đồ ném đồ, tựa như cơn bão, đi tới đâu phá tan hoang tới đó.
Nhưng Vương Đình không sợ, không ghét bỏ cô, ngược lại còn muốn cùng Thu Sương bỏ chốn, đến một nơi không có ai hết, chỉ cần hai người dựng một túp lều tranh rách nát trong rừng sâu núi thẳm, hằng ngày săn thú hoang nhổ rau dại, cứ thế thanh đạm bình an đến già.
Tôi thầm nghĩ, mong ước đơn giản ngây ngô của gã chẳng khác nào đọc một câu chuyện mộng ảo hoang đường đối với đa số con người bây giờ. Loài người vốn chỉ nhìn thấy sự thật hiển nhiên trước mắt, lúc nào cũng chỉ toàn bị vẻ ngoài hào nhoáng lấp lánh làm cho choáng ngợp, bị sự phù phiếm đẹp đẽ che lấp đi bản chất bên trong.
Hạnh phúc mong manh của gã nhanh chóng bị phá vỡ, cô bị chuyển vào khu vực phía trong, linh cảm của gã cho thấy sự bất an bao phủ. Vương Đình vẫn có điều kiện đưa đồ ăn tới và được nhìn thấy cô. Nhưng mỗi khi nhìn thấy tình trạng bi thảm của Thu Sương, trong lòng gã lại tựa như núi lửa sắp sửa phun trào, kịch liệt đòi được cùng cô cao bay xa chạy khỏi những xấu xa tăm tối của con người bấy giờ.
Thu Sương bị nhốt trong lồng, trên cổ còn đeo một vòng xích sắt, giống như bao con người khác xung quanh, cùng chung số phận như thế, đi lại sinh hoạt trong 4m vuông như thú vật. Gã lân la dò hỏi mãi, được biết họ theo chỉ lệnh của chính phủ nước nhà, tới đây làm thí nghiệm giúp đám người già trở lên minh mẫn hơn, bọn trẻ con sẽ thông minh hơn và đám người điên sẽ hết bệnh dại.
Nhưng gã tuyệt đối không tin, bởi vì họ đối xử đám người đó chẳng khác đang huấn luyện thú hoang. Kẻ bên ngoài lồng sắt lạnh lùng dùng roi vụt vào thành lồng tạo ra âm thanh xé gió vun vút vun vút rùng mình ớn lạnh. Kẻ trong lồng tựa như con vật, đi lại bằng bốn chân, cổ bị xích sắt trói buộc vào, đôi mắt vằn đầy tia máu, trong miệng dớt dãi hôi tanh chảy lan tràn, gầm gừ thứ âm thanh giận dữ căm phẫn nhưng không phải của con người nữa.
Gã là một tên có chút thuần hậu khờ khạo, đầu óc chỉ biết tâm tâm niệm niệm kiếm tiền nuôi em ăn học, trước giờ chưa từng biết tính toán hãm hại ai, không biết phải làm cách nào để cứu cô thoát ra. Vương Đình chỉ có thể nhân lúc giao cơm mà tới bên thăm hỏi Thu Sương. Có điều, cô càng lúc dường như càng mất đi nhân tính, không còn nhận ra gã nữa, đôi mắt lúc nào cũng tràn ngập căm hận cùng gào thét la lối, đau đớn thống khổ, khiến Vương Đình không cầm được nước mắt.
Gã chỉ khóc hai lần, một lần là lúc nhỏ, mẹ suốt ngày chê bai trách cứ bố, cuối cùng bỏ đi theo lão già nào đó. Lần thứ hai là bố gã mất vì bị xe oto đâm, được đền bù cho chút tiền. Lúc đó Vương Đình mới 16 tuổi, lo ma chay cho bố xong gã cũng nghỉ học luôn rồi xin vào tu viện làm việc, kiếm tiền nuôi thằng em kém 5 tuổi.
Từ đó tới ngoài 30 tuổi đầu rồi, dù tủi khổ thế nào cũng không rơi lệ, lần này lại khóc vì một cô gái quen biết chưa đầy nửa năm. Vương Đình chỉ biết, mỗi đêm chắp tay khẩn cầu trời cao, mong sao cơn ác mộng sớm chấm dứt.
Sau đó một thời gian ngắn trôi qua, gã được lệnh nấu một bữa ăn linh đình hoành tráng nhằm thiết đãi tất cả mọi người. Nghe nói thí nghiệm rất thành công, nên chính phủ gởi tiền tổ chức ăn mừng, lệnh cho tất cả mọi người hôm đó không một ai được phép vắng mặt bữa tiệc liên hoan.
Hôm đó tất cả mọi người được lệnh phải ngồi xen lẫn với nhau nhằm thể hiện tình thương sự công bằng. Vương Đình ngồi bên Thu Sương, cảm thấy cô quả thật có khá hơn mọi khi. Cảm thấy phải chăng thần linh trên cao đã đáp ứng ước nguyện nhỏ nhoi của gã, hai người sẽ sớm được ở bên nhau, bình bình an an đến hết đời.
Bữa ăn mới qua vài phút chợt một âm thanh đơn lẻ hét toáng lên đau đớn vang vọng. Trong khi gã cũng như mọi người ngó nghiêng không hiểu thì xung quanh tiếng la lối kinh hoảng kèm thống khổ của hàng loạt người cất lên nhanh chóng khiến tòa nhà rộng lớn hỗn loạn như có hỏa thiêu.
Gã nhìn thấy đám người thí nghiệm bổ nhào tới đám người tu hành, bác sĩ, y tá. Tưạ như chó dại lên cơn được sổng chuồng, điên cuồng lao qua cắn vào yếu hầu, máu tươi phun trào, bắn tung tóe lên thức ăn. Vương Đình hoang mang lo lắng một chút rồi lập tức kéo Thu Sương đứng dậy chạy ra phía cửa. Nhưng cửa đã bị khóa, là khóa bên ngoài.
Ban đầu gã tông mình vào cửa, vừa tông rầm rầm vừa gào lớn cho phía ngoài nghe thấy. Gã mải cầu cứu lại không hay Thu Sương ở phía sau xảy ra biến hóa. Cô ôm đầu đau đớn gào rú sau đó lại tru một tràng dài khấn kích, thật chẳng khác nào một con sói bị bỏ đói lâu ngày nhìn thấy con mồi thì không kìm hãm được dã thú, cuồng loạn lao qua cắn xé Vương Đình khiến gã vừa kinh hãi trở tay không kịp, cũng bất lực trong việc phản kháng lại cô.
Vương Đình cảm thấy, có lẽ đó là ngày trời cao đã nguyền rủa gã. Thu Sương thật sự đã đánh mất nhân tâm, là một con thú dữ tham lam xé da, nuốt thịt, uống máu tươi của gã. Vương Đình nằm sõng soài trên mặt đất giá lạnh, giữa tiếng la hét khủng hoảng điên loạn của mọi người, tiếng dã thú cắn xé máu thịt, tiếng hấp hối đau đớn tuyệt vọng.
Nước mắt gã lại tuôn rơi khi Thu Sương cũng ngã xuống bên cạnh. Cô ấy lên cơn co giật tựa như bị điện chích, máu mắt, máu mũi, máu tai, máu mồm tuôn chảy thành dòng hòa cùng vũng máu của gã.
Tại sao? Tại sao chúng tôi lại phải chuốc lấy kết cục tàn khốc này? Tại sao con người lại đối xử với đồng loại tàn nhẫn như vậy? Chúng tôi không phải con dân của đất nước này sao? Chảy cùng dòng máu nói cùng ngôn ngữ lại có thể tàn ác tới mức này sao?
Khi Vương Đình tỉnh lại lần nữa, chỉ thấy bản thân đứng trong màn sương mù dày đặc phân không rõ phương hướng. Gã thấy Thu Sương đứng lẫn trong dòng người lặng lẽ lên một chiếc xe khách. Vương Đình chạy tới, gọi tên cô, gọi hoài cô cũng không quay lại, tựa như không nghe thấy, tựa như chẳng ai nghe thấy tiếng gã la khản cổ họng. Chỉ đến khi gã chạy tới tận bên cạnh, vươn tay chạm vào Thu Sương, xoay người cô lại.
Gã có thiên ngôn vạn ngữ muốn nói, lại như lưỡi bị ai cắt mất, chỉ có nước mắt không ngừng tuôn rơi lã chã như mưa. Cô ấy nói “ Xin lỗi và cảm ơn” sau đó nhanh chóng lên xe. Gã cũng muốn lên theo lại bị lái xe ngăn cản.
Vương Đình chạy theo chiếc xe hồi lâu, lại hóa ra chạy trở về nhà. Gã ở trong nhà hồi lâu, rồi lại chạy ra chỗ bến xe chờ đợi. Lái xe nói gã không thể lên, đạp Vương Đình trở lại mặt đất. Gã không hiểu, tại sao gã lại không được phép lên xe.
“Tôi chỉ là muốn gặp lại cô ấy. Chỉ muốn nói tôi cũng xin lỗi và cảm ơn.”
Nói tới đây Vương Đình không kìm nén được nước mắt nữa, mặc nhiên cho nó lặng lẽ chảy xuống gương mặt khắc khổ, như thể đây là tâm niệm dùng cả một đời để tích tụ lại.
Khi tôi xoay đầu không nhìn gã nữa, thì chiếc xe khách chẳng biết đã đỗ ở đó từ đời thủa nào. Tôi vỗ vỗ vai Vương Đình, gã ngẩng đầu lên, cũng nhìn thấy chiếc xe. Giống như nhìn thấy tàu cứu nạn mà gã tựa như nạn nhân mắc kẹt trên hòn đảo hoang tàn. Vương Đình chạy vụt ra chỗ xe, cửa xe mở, lão tài xế tựa như con quạ đen đứng đó trừng trừng nhìn lại, gã tới gần bên chợt khựng lại.
Lão lái xe tránh sang bên, tựa như lần này chấp thuận cho gã lên, tôi cũng có chút sửng sốt không hiểu, tiến lại gần. Vương Đình quay lại nhìn tôi, hai khóe miệng khẽ nhếch lên giống như đang cười thật vui sướng.
“Tôi chỉ có một ước nguyện duy nhất, gặp lại Thu Sương, để nói với cô ấy, điều tôi chưa kịp thổ lộ. “Tôi muốn được sớm tối bầu bạn với em, nguyện bên em chăm sóc cả đời.”
Nói dứt lời gã chui vào khoang xe tăm tối. Còn lão lái xe thì vẫn chằm chằm nhìn tôi, đôi mắt như hai cái lỗ đen sâu thăm thẳm chẳng khác cái lỗ giun thông thẳng tới địa ngục, khiến cho người ta không khỏi rùng mình ớn lạnh.
“Ngươi có lên không?”
Lão lại hỏi câu này, tôi vô thức lắc lắc, chiếc xe chẳng gắn số hiệu cũng không thấy phun sơn hay dán nhãn mác gì hết. Chẳng khác gì một khối hộp chữ nhật xám xịt bốc mùi hoen ố gỉ sét khiến cho lòng tôi bất an.
Chiếc xe lăn bánh, êm ru rời đi. Sương mù dường như bám theo chiếc xe ,dần dần biến mất lộ ra khung cảnh hai bên đường, hàng cây xương xẩu và bệnh viện huyện bé nhỏ.
Tôi lôi di động trong túi xách, xem thử mấy giờ rồi, có chút ngạc nhiên, vì dường như thời gian trôi qua không nhiều. Tôi ra khỏi nhà lúc 5 giờ, nhưng bây giờ đồng hồ điện tử trên điện thoại lại chỉ 5:30.
30 phút trôi qua chỉ được xem là quãng thời gian tôi di chuyển từ nhà ra đây, vậy còn khoảng thời gian tôi nói chuyện với mọi người thì trôi vào đâu rồi? Hay cái điện thoại này cài giờ sai?